Dấu chân người lính (trích)
(Nguyễn Minh Châu(1))
(Tóm tắt: “Dấu chân người lính” là tiểu thuyết kể về cuộc chiến vô cùng ác liệt của quân đội ta với kẻ thù ở thung lũng Khe Sanh, Quảng Trị. Tác phẩm gồm 03 phần: Hành quân – Chiến dịch bao vây – Đất giải phóng, nhằm tái hiện lại hành trình chiến đấu từ những ngày bắt đầu chuẩn bị đến chặng đường hành quân và cuối cùng là cuộc tấn công giành chiến thắng. Trong hành trình ấy là những câu chuyện về cuộc sống chiến đấu và đời sống tâm hồn của chính ủy Kinh, chiến sĩ cần vụ Khuê, trinh sát Lượng, lính thông tin Lữ,… Đoạn trích dưới đây thuộc chương 12, kể về Nết – chị của Khuê, một nữ thanh niên xung phong, được điều đến làm công việc của y tá trạm phẫu thuật ở Tây Nam Khe Sanh)
Nết đã đi làm đường trong đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước hai năm, hai năm làm cấp dưỡng nữa, cô đã đi gần suốt dãy Trường Sơn mà vẫn không sao sửa chữa được cái bệnh nhớ nhà.
[…]
Làm sao nói hết mọi điều đáng nói về một cái bếp lửa trên chon von Trường Sơn? Những cái bếp bằng đất vắt nặn nên bởi bàn tay khéo léo, khói chỉ lan lờ mờ trong cỏ như sương ban mai rồi tan dần, lửa thì đậu lại. Ngọn lửa được ấp ủ trong lòng người con gái đồng bằng. Những chiến sĩ hành quân trên Trường Sơn chợt trông thấy một ánh lửa hồng, một mái nhà, cái bờ giậu bằng cây sắn có rặng mồng tơi leo, đàn gà lợn trong chuồng, bên đường một mái tóc cặp buông lơi, một kiểu chít khăn mỏ quạ, một nước da con gái đang sốt rét, một ánh mắt đằm thắm vồn vã: “Các anh người quê ở đâu ta?”. Có biết bao nhiêu là nỗi nhớ đồng bằng gửi vào trong một câu hỏi ấy? Có đêm khuya khoắt ngồi trước khuôn bếp, Nết lắng nghe thấy đủ các thứ tiếng động của rừng: tiếng suối chảy, tiếng gà rừng gáy, tiếng con tắc kè và tiếng chim “bắt cô trói cột”. Mỗi lúc như vậy, nỗi nhớ nhà và nhớ vùng xuôi cứ cồn cào trong gan ruột, Nết nghe rõ tiếng cá chép đớp mồi bên bờ ao ấu, cùng tiếng mẹ khỏa nước rửa chân ngoài cầu ao... Suốt những năm ở nhà cùng với mẹ, chẳng mấy khi Nết trông thấy mẹ mặc một cái quần chùng, hai ống quần ướt sũng bao giờ cũng vo quá gối, đôi bắp chân đen thui khẳng khiu bao giờ cũng in một ngấn bùn trắng. Mỗi buổi trưa hè đi làm ngoài đồng trở về, bước chân bao giờ cũng lật đật, mẹ vứt xóc cua đồng trước thềm nhà và liền nằm úp sấp bụng trên cái thềm đất, vừa cười ngượng nghịu vừa vẫy Nết lại. Nết chạy tới nhẹ nhàng giậm bàn chân trên dọc sống lưng mẹ, giận dữ rầy la mẹ sau các kỳ sinh nở không biết kiêng cữ. Và những lúc như vậy, mẹ chỉ nín lặng nhẫn nhục rên khe khẽ và đưa mắt nhìn lũ con cãi cọ tranh nhau đuổi theo những con cua đồng “- U ơi!”. Ngày hôm đó, Nết đã cầm chặt lá thư ngắn ngủi của Khuê trong những ngón tay cứng đờ như không còn biết cảm giác, cô kêu lên một tiếng rên rỉ đầy đau khổ và phẫn nộ. Nết nhớ ngày ở nhà, cô thường giả vờ xắn ống tay áo dọa đùa thằng em bé nhất: “Hiên ra đây chị gội đầu nào?”. Thằng bé sợ nhất là bị bế đi gội đầu liền khóc thét om cả nhà và lần nào Nết cũng bị mẹ mắng: “Cái con quỷ này lớn xác chỉ khỏe trêu em!”.
Các mẩu kỷ niệm vui buồn vụn vặt gần như chẳng có ý nghĩa gì hết ở trong cái gia đình nghèo và lam lũ, Nết cứ theo bộ đội đi một bước lại nhớ thêm một chuyện. Không biết bao nhiêu chuyện vui buồn nho nhỏ trong gia đình. Mỗi mẩu chuyện là một lưỡi dao cắt vào gan vào ruột. “Nết ơi, tao lạy mày, mày khóc đi một cái!”. - Không bao giờ tao chịu khóc đâu Dự ạ, lúc xong việc ở đây rồi thì tao sẽ khóc. Nhưng bây giờ anh chị em trong đội đang vội vàng chuẩn bị đón thương binh về, mỗi người xé ra làm hai ba mà chưa làm hết việc, lẽ nào ngồi khóc? Làm sao sinh ra người con gái giàu nước mắt vậy, nhưng Nết không rỏ một giọt nước mắt nào cho mẹ và em ở nhà đã chết vì bom Mỹ. Hãy nghiến răng lại mà làm việc đừng quản ngày đêm. Hãy nghiến răng lại mà chiến đấu và làm việc để trả thù cho những người thân đã mất!
(Trích Nguyễn Minh Châu, Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Văn học, 2007, tr.538-540)
Chú thích:
(1) Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là cây bút văn xuôi xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
Dấu chân người lính (trích)
(Nguyễn Minh Châu(1))
(Tóm tắt: “Dấu chân người lính” là tiểu thuyết kể về cuộc chiến vô cùng ác liệt của quân đội ta với kẻ thù ở thung lũng Khe Sanh, Quảng Trị. Tác phẩm gồm 03 phần: Hành quân – Chiến dịch bao vây – Đất giải phóng, nhằm tái hiện lại hành trình chiến đấu từ những ngày bắt đầu chuẩn bị đến chặng đường hành quân và cuối cùng là cuộc tấn công giành chiến thắng. Trong hành trình ấy là những câu chuyện về cuộc sống chiến đấu và đời sống tâm hồn của chính ủy Kinh, chiến sĩ cần vụ Khuê, trinh sát Lượng, lính thông tin Lữ,… Đoạn trích dưới đây thuộc chương 12, kể về Nết – chị của Khuê, một nữ thanh niên xung phong, được điều đến làm công việc của y tá trạm phẫu thuật ở Tây Nam Khe Sanh)
Nết đã đi làm đường trong đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước hai năm, hai năm làm cấp dưỡng nữa, cô đã đi gần suốt dãy Trường Sơn mà vẫn không sao sửa chữa được cái bệnh nhớ nhà.
[…]
Làm sao nói hết mọi điều đáng nói về một cái bếp lửa trên chon von Trường Sơn? Những cái bếp bằng đất vắt nặn nên bởi bàn tay khéo léo, khói chỉ lan lờ mờ trong cỏ như sương ban mai rồi tan dần, lửa thì đậu lại. Ngọn lửa được ấp ủ trong lòng người con gái đồng bằng. Những chiến sĩ hành quân trên Trường Sơn chợt trông thấy một ánh lửa hồng, một mái nhà, cái bờ giậu bằng cây sắn có rặng mồng tơi leo, đàn gà lợn trong chuồng, bên đường một mái tóc cặp buông lơi, một kiểu chít khăn mỏ quạ, một nước da con gái đang sốt rét, một ánh mắt đằm thắm vồn vã: “Các anh người quê ở đâu ta?”. Có biết bao nhiêu là nỗi nhớ đồng bằng gửi vào trong một câu hỏi ấy? Có đêm khuya khoắt ngồi trước khuôn bếp, Nết lắng nghe thấy đủ các thứ tiếng động của rừng: tiếng suối chảy, tiếng gà rừng gáy, tiếng con tắc kè và tiếng chim “bắt cô trói cột”. Mỗi lúc như vậy, nỗi nhớ nhà và nhớ vùng xuôi cứ cồn cào trong gan ruột, Nết nghe rõ tiếng cá chép đớp mồi bên bờ ao ấu, cùng tiếng mẹ khỏa nước rửa chân ngoài cầu ao... Suốt những năm ở nhà cùng với mẹ, chẳng mấy khi Nết trông thấy mẹ mặc một cái quần chùng, hai ống quần ướt sũng bao giờ cũng vo quá gối, đôi bắp chân đen thui khẳng khiu bao giờ cũng in một ngấn bùn trắng. Mỗi buổi trưa hè đi làm ngoài đồng trở về, bước chân bao giờ cũng lật đật, mẹ vứt xóc cua đồng trước thềm nhà và liền nằm úp sấp bụng trên cái thềm đất, vừa cười ngượng nghịu vừa vẫy Nết lại. Nết chạy tới nhẹ nhàng giậm bàn chân trên dọc sống lưng mẹ, giận dữ rầy la mẹ sau các kỳ sinh nở không biết kiêng cữ. Và những lúc như vậy, mẹ chỉ nín lặng nhẫn nhục rên khe khẽ và đưa mắt nhìn lũ con cãi cọ tranh nhau đuổi theo những con cua đồng “- U ơi!”. Ngày hôm đó, Nết đã cầm chặt lá thư ngắn ngủi của Khuê trong những ngón tay cứng đờ như không còn biết cảm giác, cô kêu lên một tiếng rên rỉ đầy đau khổ và phẫn nộ. Nết nhớ ngày ở nhà, cô thường giả vờ xắn ống tay áo dọa đùa thằng em bé nhất: “Hiên ra đây chị gội đầu nào?”. Thằng bé sợ nhất là bị bế đi gội đầu liền khóc thét om cả nhà và lần nào Nết cũng bị mẹ mắng: “Cái con quỷ này lớn xác chỉ khỏe trêu em!”.
Các mẩu kỷ niệm vui buồn vụn vặt gần như chẳng có ý nghĩa gì hết ở trong cái gia đình nghèo và lam lũ, Nết cứ theo bộ đội đi một bước lại nhớ thêm một chuyện. Không biết bao nhiêu chuyện vui buồn nho nhỏ trong gia đình. Mỗi mẩu chuyện là một lưỡi dao cắt vào gan vào ruột. “Nết ơi, tao lạy mày, mày khóc đi một cái!”. - Không bao giờ tao chịu khóc đâu Dự ạ, lúc xong việc ở đây rồi thì tao sẽ khóc. Nhưng bây giờ anh chị em trong đội đang vội vàng chuẩn bị đón thương binh về, mỗi người xé ra làm hai ba mà chưa làm hết việc, lẽ nào ngồi khóc? Làm sao sinh ra người con gái giàu nước mắt vậy, nhưng Nết không rỏ một giọt nước mắt nào cho mẹ và em ở nhà đã chết vì bom Mỹ. Hãy nghiến răng lại mà làm việc đừng quản ngày đêm. Hãy nghiến răng lại mà chiến đấu và làm việc để trả thù cho những người thân đã mất!
(Trích Nguyễn Minh Châu, Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Văn học, 2007, tr.538-540)
Chú thích:
(1) Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là cây bút văn xuôi xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
Xác định dấu hiệu hình thức cho biết ngôi kể được sử dụng trong đoạn trích.
Câu hỏi trong đề: 40 Ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 phần Truyện !!
Quảng cáo
Trả lời:

Dấu hiệu hình thức xác định ngôi kể: người kể chuyện không xuất hiện trong câu chuyện. Từ đó, xác định đoạn trích được kể bằng ngôi kể thứ ba.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Chỉ ra 02 chi tiết miêu tả hình ảnh bếp lửa ở đoạn trích.

Những chi tiết miêu tả hình ảnh bếp lửa: một bếp lửa trên chon von Trường Sơn, làm bằng đất, khói chỉ lan lờ mờ, lửa thì đậu lại, ngọn lửa được ấp ủ, ánh lửa hồng.
Câu 3:
Trong đoạn trích, hình ảnh bếp lửa được miêu tả gợi ra những ý nghĩa gì?

- Bếp lửa trên Trường Sơn: vừa thực tế (đun nấu, sưởi ấm) vừa giàu giá trị biểu tượng.
- Nó gợi nhớ quê nhà, mái ấm, người mẹ, là nơi khơi dậy tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước trong những người lính xa quê.
Câu 4:
Tác giả đã sử dụng cách kể chuyện đan xen giữa những sự kiện diễn ra ở hiện tại và trong dòng hồi ức của nhân vật Nết. Nhận xét về tác dụng của cách kể chuyện này.

- Cách kể chuyện đan xen giữa hiện tại với dòng hồi ức của nhân vật: nhân vật Nết hoài niệm về những ký ức thân thương bên gia đình giữa hiện thực chiến tranh khốc liệt.
- Tác dụng:
+ Khắc họa chân thực thế giới nội tâm phong phú của Nết.
+ Thể hiện nội dung tư tưởng của đoạn trích: con người sống thành thực với cảm xúc cá nhân nhưng biết đặt ý thức trách nhiệm với Tổ quốc lên trên hết.
+ Tạo nên sự sáng tạo trong nghệ thuật kể chuyện, ngôn ngữ linh hoạt, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc.
Câu 5:
Vì sao Nết không khóc trước cái chết của mẹ và em?

- Nết kìm nén cảm xúc để không làm ảnh hưởng đến tinh thần chung của đồng đội.
- Ý thức trách nhiệm, tinh thần kiên cường của người chiến sĩ cách mạng: đau thương hóa thành hành động, tiếp tục lao động và chiến đấu để trả thù cho những người thân đã mất.
Câu 6:
Phân tích hiệu quả của việc sử dụng ngôn ngữ thân mật trong các câu văn sau: Nết nhớ ngày ở nhà, cô thường giả vờ xắn ống tay áo dọa đùa thằng em bé nhất: “Hiên ra đây chị gội đầu nào?”. Thằng bé sợ nhất là bị bế đi gội đầu liền khóc thét om cả nhà và lần nào Nết cũng bị mẹ mắng: “Cái con quỷ này lớn xác chỉ khỏe trêu em!”.

- Biểu hiện của ngôn ngữ thân mật: tình huống giao tiếp giữa những người thân trong gia đình, sắc thái ngôn ngữ dân dã (cách xưng hô gần gũi: chị, Hiên, cái con quỷ này…, ngôn ngữ nói: ra đây chị gội đầu nào, lớn xác chỉ khỏe trêu em)…
- Hiệu quả của việc sử dụng ngôn ngữ thân mật:
+ Tái hiện kỉ niệm ấm áp, vui vẻ cùng với gia đình, nhấn mạnh tình cảm gắn bó giữa Nết với mẹ và em…
+ Tạo giọng điệu trần thuật tự nhiên, hấp dẫn.
Câu 7:
Từ đoạn trích, hãy nhận xét về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ.

- Giàu tình cảm gia đình, luôn đau đáu nhớ quê hương, cha mẹ, em nhỏ.
- Đồng thời kiên cường, nghị lực, biết hi sinh bản thân, nén nỗi đau riêng để hoàn thành nhiệm vụ chung.
- Đó là biểu tượng cho phẩm chất anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang của phụ nữ Việt Nam.
Câu 8:
Anh/chị có nhận xét gì về nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu trong đoạn trích?

- Khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế, chân thực.
- Kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực khốc liệt và cảm xúc trữ tình sâu lắng.
- Ngôn ngữ giàu hình ảnh, gần gũi, gợi cảm (ví dụ: hình ảnh bếp lửa, tiếng cá chép, ngấn bùn trên chân mẹ...).
Câu 9:
Câu nói của Nết Không bao giờ tao chịu khóc đâu Dự ạ, lúc xong việc ở đây rồi thì tao sẽ khóc gợi cho anh/chị những suy nghĩ gì về cách mỗi người đối diện với nghịch cảnh trong cuộc sống (trình bày trong khoảng 10 dòng)?

Câu nói của Nết thể hiện nỗ lực kìm nén nỗi đau, làm chủ cảm xúc, tinh thần quật cường, quyết tâm trả món nợ nước, thù nhà. Từ đó, HS có thể nêu quan điểm cá nhân về cách thức đối diện với những nghịch cảnh trong cuộc sống nhưng cần có phần diễn giải thuyết phục. Sau đây là một số gợi ý: giữ vững tinh thần, bình tĩnh tìm giải pháp thích hợp để vượt qua thử thách; sẻ chia tâm sự với những người thân yêu để giải tỏa tâm lí, có thêm động lực để chiến thắng nghịch cảnh…
Hot: Danh sách các trường đã công bố điểm chuẩn Đại học 2025 (mới nhất) (2025). Xem ngay
- Tổng ôn Ngữ văn 12 Form (2025) ( 36.000₫ )
- 30 Bộ đề, Tổng ôn, sổ tay NLXH, sổ tay trọng tâm môn Ngữ Văn (có đáp án chi tiết) ( 60.000₫ )
- Sổ tay lớp 12 các môn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa, KTPL (chương trình mới) ( 36.000₫ )
- Tổng ôn lớp 12 môn Toán, Lí, Hóa, Văn, Anh, Sinh Sử, Địa, KTPL (Form 2025) ( 36.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của những con người trên tuyến đường Trường Sơn trong văn bản ngữ liệu “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu.
- Hệ thống ý: Vẻ đẹp tâm hồn của con người trên tuyến đường Trường Sơn (Nết, Dự,
những người lính)
+ Tinh tế với nỗi nhớ quê nhà, tình yêu thương gia đình tha thiết.
+ Cứng cỏi, kiên cường trước mọi sự hủy diệt khốc liệt của chiến tranh.
+ Gắn bó, thấu hiểu, cảm thông dành cho những người đồng đội.
…
+ Nhận xét nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn trích tiểu thuyết trong việc thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của con người trên tuyến đường Trường Sơn qua một số phương diện: xây dựng tình huống truyện, khắc họa nhân vật, sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật…
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Phân tích rõ suy nghĩ về vẻ đẹp tâm hồn của những con người trên tuyến đường Trường Sơn được thể hiện trong văn bản đọc hiểu.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Đoạn trích Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu đã khắc họa vẻ đẹp tâm hồn giàu cảm xúc và kiên cường của những con người trên tuyến đường Trường Sơn. Ở Nết, ta bắt gặp nỗi nhớ quê da diết, chan chứa tình yêu thương dành cho mẹ, cho những đứa em thơ, cho mái ấm nghèo nàn mà thân thương. Chính nỗi nhớ ấy đã trở thành nguồn sức mạnh tinh thần để cô vượt qua những nhọc nhằn gian khổ. Không chỉ nhạy cảm, tinh tế với nỗi nhớ nhà, Nết còn hiện lên thật cứng cỏi, kiên gan: nén chặt nỗi đau mất mẹ, mất em, cô không cho phép mình khóc mà quyết nghiến răng làm việc, chiến đấu để trả thù cho những người thân đã khuất. Cùng với Nết, Dự và những người lính Trường Sơn cũng hiện lên thật đẹp trong tình đồng chí, đồng đội thấu hiểu, sẻ chia, nâng đỡ lẫn nhau trong bom đạn chiến tranh. Qua hình tượng nhân vật và những chi tiết đầy sức gợi, Nguyễn Minh Châu đã khéo léo kết hợp trần thuật tinh tế, ngôn ngữ giàu cảm xúc, xây dựng tình huống giàu kịch tính để làm nổi bật tâm hồn trong sáng, nhân hậu nhưng kiên cường bất khuất của những con người trên tuyến đường huyền thoại. Chính họ đã làm nên sức mạnh tinh thần góp phần vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích văn bản ngữ liệu “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Minh Châu: một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kỳ chống Mỹ và thời kỳ đổi mới; giàu chất nhân văn, luôn đi tìm “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”.
- Giới thiệu tác phẩm Dấu chân người lính: tiểu thuyết xuất sắc về cuộc chiến đấu ác liệt ở Khe Sanh, đồng thời khắc họa chân dung tinh thần của người lính và những con người trên tuyến đường Trường Sơn.
- Dẫn dắt vào đoạn trích (chương 12, về nhân vật Nết) → khẳng định vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp tâm hồn của những con người Trường Sơn hiện lên vừa đời thường, vừa cao cả.
* Thân bài:
1. Khái quát chung về đoạn trích
- Nội dung: tái hiện cuộc sống và tâm tư của Nết – nữ thanh niên xung phong, chị của Khuê – qua đó gợi mở bức tranh chung về thế hệ trẻ trên tuyến đường Trường Sơn.
- Nghệ thuật: giàu chất tự sự và trữ tình, kết hợp chi tiết hiện thực và cảm xúc nội tâm, giọng điệu vừa tha thiết, vừa dữ dội.
2. Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của con người trên tuyến đường Trường Sơn
a. Tình yêu quê hương, gia đình tha thiết
- Nết luôn mang trong mình “căn bệnh nhớ nhà”: nhớ bếp lửa, nhớ tiếng cá đớp mồi, nhớ dáng mẹ lam lũ, nhớ những trò đùa với em nhỏ…
- Nỗi nhớ gắn với những kỷ niệm nhỏ bé, bình dị mà sâu sắc → thể hiện tình cảm gia đình, gốc rễ tâm hồn của con người Việt Nam trong chiến tranh.
b. Sức mạnh tinh thần kiên cường, cứng cỏi trước mất mát
- Mẹ và em Nết chết vì bom Mỹ, đau đớn tột cùng nhưng cô “không rỏ một giọt nước mắt nào”.
- Thay vào đó, Nết dồn nén đau thương thành nghị lực: “Hãy nghiến răng lại mà làm việc, đừng quản ngày đêm… trả thù cho những người thân đã mất”.
- Phẩm chất chung của thế hệ Trường Sơn: dám hy sinh, giàu ý chí chiến đấu.
c. Tình đồng chí, đồng đội gắn bó, thấu hiểu
- Nết không khóc bởi còn việc chung: “anh chị em trong đội đang vội vàng chuẩn bị đón thương binh về… lẽ nào ngồi khóc?”.
- Ý thức cộng đồng đặt lên trên tình riêng → thể hiện sự cảm thông, sẻ chia, tinh thần trách nhiệm.
3. Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích
- Xây dựng tình huống truyện cảm động (Nết nhận tin dữ từ gia đình nhưng phải nén đau để tiếp tục công việc).
- Khắc họa nhân vật qua dòng hồi ức, chi tiết đời thường rất chân thực.
- Ngôn ngữ giàu hình ảnh, gợi cảm (bếp lửa, mái tóc, tiếng cá đớp mồi, dáng mẹ…), vừa hiện thực vừa giàu chất thơ.
- Giọng điệu trần thuật hòa quyện giữa khách quan và trữ tình → khắc họa con người vừa anh hùng, vừa rất đỗi đời thường.
* Kết bài:
- Khẳng định: Đoạn trích Dấu chân người lính đã khắc họa thành công vẻ đẹp tâm hồn của thế hệ con người Trường Sơn: yêu quê hương, giàu tình cảm gia đình, kiên cường, giàu trách nhiệm với đồng đội và Tổ quốc.
- Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc của Nguyễn Minh Châu góp phần làm nổi bật giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm.
- Ý nghĩa: Gợi nhắc thế hệ hôm nay trân trọng quá khứ, sống có trách nhiệm và biết gìn giữ, phát huy truyền thống dân tộc.
Bài văn tham khảo
Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Trước 1975, ông là nhà văn quân đội, gắn bó mật thiết với hiện thực kháng chiến chống Mỹ. Sau 1975, Nguyễn Minh Châu được coi là “người mở đường tinh anh” cho công cuộc đổi mới văn học với những tác phẩm giàu chất nhân văn, luôn đi tìm “hạt ngọc ẩn giấu” trong tâm hồn con người. Dấu chân người lính là một tiểu thuyết xuất sắc của ông, viết về cuộc chiến đấu ác liệt của quân và dân ta ở Khe Sanh, đồng thời khắc họa những gương mặt người lính và thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đoạn trích thuộc chương 12, xoay quanh nhân vật Nết – chị của Khuê, đã để lại ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn con người trong chiến tranh.
Qua đoạn trích, Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành công hình tượng Nết, một nữ thanh niên xung phong mang trong mình bao phẩm chất đáng quý. Trước hết, Nết hiện lên là một cô gái giàu tình yêu quê hương và gia đình. Suốt những năm tháng đi dọc Trường Sơn, Nết vẫn mang trong mình “căn bệnh nhớ nhà” không bao giờ chữa khỏi. Nỗi nhớ ấy gắn với những chi tiết đời thường giản dị: ngọn lửa bếp hồng, tiếng cá chép đớp mồi, dáng mẹ lam lũ với đôi chân lấm bùn, hay tiếng khóc của em nhỏ khi bị trêu đùa. Chính những hồi ức mộc mạc đã làm hiện lên gốc rễ tâm hồn Việt Nam: trong gian khổ vẫn không nguôi nỗi nhớ về mái ấm gia đình và quê hương.
Không chỉ giàu tình cảm, Nết còn mang trong mình nghị lực kiên cường và bản lĩnh mạnh mẽ. Khi nhận tin dữ về cái chết của mẹ và em vì bom Mỹ, cô đau đớn tột cùng nhưng nhất quyết “không rỏ một giọt nước mắt nào”. Nỗi đau ấy được cô dồn nén thành sức mạnh: “Hãy nghiến răng lại mà làm việc, đừng quản ngày đêm. Hãy nghiến răng lại mà chiến đấu để trả thù cho những người thân đã mất”. Trong Nết hội tụ phẩm chất của cả một thế hệ Trường Sơn: dám hy sinh, dám biến bi kịch riêng thành sức mạnh chung để tiếp tục chiến đấu.
Bên cạnh đó, nhân vật còn cho thấy tình đồng đội sâu nặng. Dù đau đớn, Nết vẫn tự nhủ không thể ngồi khóc khi “anh chị em trong đội đang vội vàng chuẩn bị đón thương binh về, mỗi người xé ra làm hai ba mà chưa làm hết việc”. Ý thức cộng đồng và tinh thần trách nhiệm đã giúp cô vượt qua nỗi đau riêng, gắn bó với tập thể. Đây chính là cội nguồn sức mạnh đưa cả dân tộc đi đến thắng lợi.
Thành công của đoạn trích còn nằm ở nghệ thuật xây dựng nhân vật và ngôn ngữ giàu sức gợi. Nguyễn Minh Châu đã đưa nhân vật vào tình huống truyện đặc sắc: nỗi đau riêng đối lập với trách nhiệm chung. Ông sử dụng nhiều chi tiết hồi ức giản dị, chân thực mà thấm thía, tạo chiều sâu cho tâm trạng nhân vật. Ngôn ngữ trữ tình giàu hình ảnh – từ bếp lửa, mái tóc, tiếng cá đớp mồi đến dáng mẹ cặm cụi – vừa hiện thực vừa thấm đẫm chất thơ, làm nổi bật vẻ đẹp vừa bình dị, vừa anh hùng của con người Trường Sơn.
Tóm lại, đoạn trích Dấu chân người lính không chỉ phản ánh chân thực cuộc sống chiến đấu gian khổ trên tuyến đường Trường Sơn, mà quan trọng hơn còn tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của những con người trong chiến tranh. Nết là hiện thân của một thế hệ: yêu quê hương, giàu tình cảm, kiên cường, giàu trách nhiệm với đồng đội và Tổ quốc. Bằng nghệ thuật tự sự – trữ tình đặc sắc, Nguyễn Minh Châu đã đem đến một tác phẩm thấm đẫm giá trị nhân văn, để lại dư âm sâu xa trong lòng bạn đọc hôm nay.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.