Ngựa người và người ngựa (trích)
(Nguyễn Công Hoan)
- Thưa bà, bây giờ mấy giờ rồi?
- Mười một giờ kém năm.
- Con kéo hết giờ này, xin bà cho tiền để con đi đón khách ở ga về.
- Anh có bằng lòng kéo tôi giờ nữa không?
- Thưa bà, con đón khách ở ga hay ở nhà chớp bóng thì một cuốc cũng được hai hảo chỉ
- Anh đã chắc có khách chưa? Hay là mật ít ruồi nhiều, rồi dắt xe về không. Anh lại cố kéo tôi giờ nữa, đi thủng thỉnh thể này mà được tiền, chả hơn chạy mưa mặt ra ư?
Anh xe nghe bùi tai, lại bằng lòng kéo. Hàng phố càng thấy thưa người đi. Các cửa đóng kín mít. Đi một lúc, qua Ngô Trạm, vòng sang Hàng Điếu, rồi rẽ sang Hàng Bồ, Lúc ấy, bốn bên im lặng như tờ, chỉ thấy tiếng lách tách bà khách cắn hạt dưa thôi, thì bỗng một tràng pháo nổ, đi đẹt báo giao thừa.
- Mấy giờ rồi, thưa bà?
- Phải gió nhà nào bây giờ đã đốt pháo giao thừa! Mới có mười hai giờ kém muối lâm.
Anh xe mới nghĩ: “Mười lăm phút nữa, mình sẽ có sáu hào. Sáu hào với hai hào là tám. Thế nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín. Chín hào! Mở hàng ngay vào lúc năm mới vừa đến. Thật là may! Mới năm mới đã phát tài! Thôi, sang năm tất là làm ăn bằng muỗi bằng trăm năm nay”.
Rồi anh nghĩ đến vợ con anh, mà phần chín trong lòng, như có các sức gì nó xúi giục anh quên khổ để vui lòng làm việc vậy.
“Sáng mai, kéo chuyển khách qua ga, xong rồi, ta đánh bát phở tái, rồi mua cho con cái bánh ga tô cho nó mừng. Vợ ta nghe thấy trong túi ta có tiền, thì chắc hớn hở, thấy ta làm lụng vất vả để kiếm tiền nuôi cả nhà, tất là thương ta lắm. Nhưng ta sẽ làm ra dáng không mệt nhọc, để vợ chồng con cái ăn tết với nhau cho hể hả”.
Anh vừa nghĩ thế, vừa kéo về phía nhà thương Phủ Doãn. Tới chỗ khi này, anh dừng xe lại, nói:
- Bây giờ có lẽ mười hai giờ, xin bà cho cháu tiền
Bà khách có ý luống cuống, nói:
- Chết! Anh hỏi tiền tôi bây giờ à? Anh chịu khó kéo tôi một giờ nữa đi.
- Thôi khuya rồi, cháu phải về nhà.
- Này, chả giấu gì anh, tôi cũng đi kiếm khách từ tối đến giờ. Có anh biết đấy. Có gặp ai hỏi han gì đâu. Tôi định nếu có khách thì hỏi vay tiền trước để giả anh. Nhưng chẳng may gặp phải cái tối xúi quẩy thế này, thì tôi biết làm thế nào?
- Thế cô đi xe tôi từ chín giờ, có không giả tiền tôi à?
- Bây giờ thì tôi biết làm thế nào?
- Tôi kéo cô lên Cầm.
- Lên Cẩm thì tôi cũng đành lên với anh, chứ tôi biết làm thế nào!
- Thế mà cũng vác mặt mặc cả xe giờ, lại còn vay tiền người ta mà mua thuốc lá với hạt dưa!
- Nhà tôi ở ngay đầu ngõ Hàng Bún, khi nào anh đi qua, thì tôi giả tiền anh chứ gì!
- Chứ gì! Một trăm ngõ Hàng Bún, ai biết ngõ nào mà tìm
- Tôi không có tiền đâu, chả tin anh khám mà xem.
- Tôi không khám, cô giả tiền tôi cho tôi về!
- Đây, hay là phu la, áo, đồng hồ đây, anh muốn lấy thứ gì thì lấy,
- Tôi lấy để làm ma mẹ tôi à?
- Thôi này, đừng cầu làm gì. Tôi bảo, cảnh tôi cũng như cảnh anh, cũng đi kiếm khách cả Nhờ phải một tối thế này, thì chịu vậy, chứ biết làm thế nào?
- Thế sao cô không bảo thực tôi từ trước, để tôi kéo cô qua các nhà săm để hỏi, cô còn sĩ diện mãi.
- Nào ai biết cơ sự nó ra thế này. Thôi, này, tôi nói thế này thì anh nghe. Nếu bây giờ anh bỏ tôi ở đây, thì tôi không có tiền giả anh, sự ấy đã đành rồi, nhưng mà anh thiệt. Vậy anh cố kéo tôi nữa, may tôi có khách thì tôi có tiền, mà anh cũng không phải phàn nàn nữa.
- Tôi thật là nợ nần gì có kiếp trước hay sao, mà nay tôi khổ với cô như thế này.
Đầu năm mà đã rấp! Rắc rối!
- Anh đừng nói thế, ai muốn thế này làm gì!
Bất đắc dĩ, con ngựa người lại phải kéo con người ngựa vậy.
Nhưng lần này thì thật là không buồn bước lên nữa. Chán quá
Rõ số đâu mà số ăn mày thế này!
Anh xe vừa đi, vừa thở dài. Khách cũng vừa đi, vừa thở dài. Càng đi, càng thấy phố vắng tanh, vắng ngắt. Thỉnh thoảng mới gặp một người tùm hum cái áo ba đờ xuy, mà đi có ý vội vàng.
Buồn thay! Đàn muỗi vo vo bay, đùa nhau xung quanh ngọn đèn. Lá cây sột soạt rung. đuổi nhau ở trên đường nhựa.
Anh xe dắt xe đi diễu qua các cửa nhà săm để xin việc cho cô ả. Nhưng lúc ấy đã hai giờ sáng rồi, cho nên ế! May sao, đến đầu phố Hàng Gai, thì gặp một người ăn mặc ra đáng ăn chơi, đang tất cả cúi đầu đi. Cô ả dử mồi, đánh liều gọi lại, vờ vĩnh hỏi thăm đường. Nhưng khốn nạn, anh chàng này lắc đầu, và cứ rảo cẳng bước đều:
- Tôi không biết, cô hỏi thăm anh xe này cũng được. Tôi còn vội đi mới đốc tờ cho vợ tôi ốm đây!
Hai cái thở dài thất vọng theo đuôi nhau, rồi không ai nói thêm một lời nào. Anh xe lại từ từ tiến bước.”.
(Trích Ngựa người và người ngựa - Nguyễn Công Hoan, theo vnu.edu.vn)
Ngựa người và người ngựa (trích)
(Nguyễn Công Hoan)
- Thưa bà, bây giờ mấy giờ rồi?
- Mười một giờ kém năm.
- Con kéo hết giờ này, xin bà cho tiền để con đi đón khách ở ga về.
- Anh có bằng lòng kéo tôi giờ nữa không?
- Thưa bà, con đón khách ở ga hay ở nhà chớp bóng thì một cuốc cũng được hai hảo chỉ
- Anh đã chắc có khách chưa? Hay là mật ít ruồi nhiều, rồi dắt xe về không. Anh lại cố kéo tôi giờ nữa, đi thủng thỉnh thể này mà được tiền, chả hơn chạy mưa mặt ra ư?
Anh xe nghe bùi tai, lại bằng lòng kéo. Hàng phố càng thấy thưa người đi. Các cửa đóng kín mít. Đi một lúc, qua Ngô Trạm, vòng sang Hàng Điếu, rồi rẽ sang Hàng Bồ, Lúc ấy, bốn bên im lặng như tờ, chỉ thấy tiếng lách tách bà khách cắn hạt dưa thôi, thì bỗng một tràng pháo nổ, đi đẹt báo giao thừa.
- Mấy giờ rồi, thưa bà?
- Phải gió nhà nào bây giờ đã đốt pháo giao thừa! Mới có mười hai giờ kém muối lâm.
Anh xe mới nghĩ: “Mười lăm phút nữa, mình sẽ có sáu hào. Sáu hào với hai hào là tám. Thế nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín. Chín hào! Mở hàng ngay vào lúc năm mới vừa đến. Thật là may! Mới năm mới đã phát tài! Thôi, sang năm tất là làm ăn bằng muỗi bằng trăm năm nay”.
Rồi anh nghĩ đến vợ con anh, mà phần chín trong lòng, như có các sức gì nó xúi giục anh quên khổ để vui lòng làm việc vậy.
“Sáng mai, kéo chuyển khách qua ga, xong rồi, ta đánh bát phở tái, rồi mua cho con cái bánh ga tô cho nó mừng. Vợ ta nghe thấy trong túi ta có tiền, thì chắc hớn hở, thấy ta làm lụng vất vả để kiếm tiền nuôi cả nhà, tất là thương ta lắm. Nhưng ta sẽ làm ra dáng không mệt nhọc, để vợ chồng con cái ăn tết với nhau cho hể hả”.
Anh vừa nghĩ thế, vừa kéo về phía nhà thương Phủ Doãn. Tới chỗ khi này, anh dừng xe lại, nói:
- Bây giờ có lẽ mười hai giờ, xin bà cho cháu tiền
Bà khách có ý luống cuống, nói:
- Chết! Anh hỏi tiền tôi bây giờ à? Anh chịu khó kéo tôi một giờ nữa đi.
- Thôi khuya rồi, cháu phải về nhà.
- Này, chả giấu gì anh, tôi cũng đi kiếm khách từ tối đến giờ. Có anh biết đấy. Có gặp ai hỏi han gì đâu. Tôi định nếu có khách thì hỏi vay tiền trước để giả anh. Nhưng chẳng may gặp phải cái tối xúi quẩy thế này, thì tôi biết làm thế nào?
- Thế cô đi xe tôi từ chín giờ, có không giả tiền tôi à?
- Bây giờ thì tôi biết làm thế nào?
- Tôi kéo cô lên Cầm.
- Lên Cẩm thì tôi cũng đành lên với anh, chứ tôi biết làm thế nào!
- Thế mà cũng vác mặt mặc cả xe giờ, lại còn vay tiền người ta mà mua thuốc lá với hạt dưa!
- Nhà tôi ở ngay đầu ngõ Hàng Bún, khi nào anh đi qua, thì tôi giả tiền anh chứ gì!
- Chứ gì! Một trăm ngõ Hàng Bún, ai biết ngõ nào mà tìm
- Tôi không có tiền đâu, chả tin anh khám mà xem.
- Tôi không khám, cô giả tiền tôi cho tôi về!
- Đây, hay là phu la, áo, đồng hồ đây, anh muốn lấy thứ gì thì lấy,
- Tôi lấy để làm ma mẹ tôi à?
- Thôi này, đừng cầu làm gì. Tôi bảo, cảnh tôi cũng như cảnh anh, cũng đi kiếm khách cả Nhờ phải một tối thế này, thì chịu vậy, chứ biết làm thế nào?
- Thế sao cô không bảo thực tôi từ trước, để tôi kéo cô qua các nhà săm để hỏi, cô còn sĩ diện mãi.
- Nào ai biết cơ sự nó ra thế này. Thôi, này, tôi nói thế này thì anh nghe. Nếu bây giờ anh bỏ tôi ở đây, thì tôi không có tiền giả anh, sự ấy đã đành rồi, nhưng mà anh thiệt. Vậy anh cố kéo tôi nữa, may tôi có khách thì tôi có tiền, mà anh cũng không phải phàn nàn nữa.
- Tôi thật là nợ nần gì có kiếp trước hay sao, mà nay tôi khổ với cô như thế này.
Đầu năm mà đã rấp! Rắc rối!
- Anh đừng nói thế, ai muốn thế này làm gì!
Bất đắc dĩ, con ngựa người lại phải kéo con người ngựa vậy.
Nhưng lần này thì thật là không buồn bước lên nữa. Chán quá
Rõ số đâu mà số ăn mày thế này!
Anh xe vừa đi, vừa thở dài. Khách cũng vừa đi, vừa thở dài. Càng đi, càng thấy phố vắng tanh, vắng ngắt. Thỉnh thoảng mới gặp một người tùm hum cái áo ba đờ xuy, mà đi có ý vội vàng.
Buồn thay! Đàn muỗi vo vo bay, đùa nhau xung quanh ngọn đèn. Lá cây sột soạt rung. đuổi nhau ở trên đường nhựa.
Anh xe dắt xe đi diễu qua các cửa nhà săm để xin việc cho cô ả. Nhưng lúc ấy đã hai giờ sáng rồi, cho nên ế! May sao, đến đầu phố Hàng Gai, thì gặp một người ăn mặc ra đáng ăn chơi, đang tất cả cúi đầu đi. Cô ả dử mồi, đánh liều gọi lại, vờ vĩnh hỏi thăm đường. Nhưng khốn nạn, anh chàng này lắc đầu, và cứ rảo cẳng bước đều:
- Tôi không biết, cô hỏi thăm anh xe này cũng được. Tôi còn vội đi mới đốc tờ cho vợ tôi ốm đây!
Hai cái thở dài thất vọng theo đuôi nhau, rồi không ai nói thêm một lời nào. Anh xe lại từ từ tiến bước.”.
(Trích Ngựa người và người ngựa - Nguyễn Công Hoan, theo vnu.edu.vn)
Xác định bối cảnh và các nhân vật trong đoạn trích.
Câu hỏi trong đề: 40 Ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 phần Truyện !!
Quảng cáo
Trả lời:

- Bối cảnh: Đêm cuối cùng của năm, thời khắc sắp giao thừa.
- Các nhân vật trong đoạn trích: người phu kéo xe, người khách (thực chất là một cô
gái điếm).
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Các nhân vật trong đoạn trích chủ yếu được tác giả khắc hoạ thông qua phương diện nào?

Các nhân vật trong đoạn trích chủ yếu được tác giả khắc họa thông qua phương diện lời nói.
Câu 3:
Nhân vật “anh xe” được miêu tả là người như thế nào?

- Nghèo khổ, vất vả, phải “làm ngựa” để mưu sinh.
- Giàu tình thương với gia đình, luôn nghĩ đến vợ con (muốn có tiền để mua phở, ga tô cho con, làm vợ vui).
- Thật thà, chất phác, bị lợi dụng bởi bà khách gian xảo.
- Đại diện cho tầng lớp lao động lương thiện nhưng bị bần cùng hóa trong xã hội.
Câu 4:
Nhân vật “bà khách” hiện lên với những đặc điểm nào?

- Sống bằng nghề buôn phấn bán hương, tìm khách về đêm.
- Gian xảo, dối trá: hứa hẹn giả tiền nhưng thực ra lừa gạt anh xe.
- Vừa đáng trách (vì lợi dụng người khác), vừa đáng thương (nghèo túng, cũng không có tiền).
- Hình ảnh tiêu biểu cho sự tha hóa, trượt dài của nhiều người trong xã hội cũ.
Câu 5:
“Sáng mai, kéo chuyển khách qua ga, xong rồi, ta đánh bát phở tái, rồi mua cho con cái bánh ga tô cho nó mừng. Vợ ta nghe thấy trong túi ta có tiền, thì chắc hớn hở, thấy ta làm lụng vất vả để kiếm tiền nuôi cả nhà, tất là thương ta lắm. Nhưng ta sẽ làm ra dáng không mệt nhọc, để vợ chồng con cái ăn tết với nhau cho hể hả”.
Ý nghĩ trên khắc hoạ đặc điểm nào trong hình tượng nhân vật người kéo xe?

Ý nghĩ trên khắc hoạ hình tượng một người chồng, một người cha rất yêu thương vợ con, có trách nhiệm với gia đình, hết lòng vì gia đình.
Câu 6:
Anh xe vừa đi, vừa thở dài. Khách cũng vừa đi, vừa thở dài.
Chi tiết miêu tả tâm trạng nào của các nhân vật?

Chi tiết miêu tả tâm trạng ngao ngán, chán chường của các nhân vật (anh phu xe và khách).
Câu 7:
Ý nghĩa nhan đề Ngựa người và người ngựa là gì?

- Hoán đổi vị thế: con người phải làm thân phận “ngựa” để kéo khách, còn kẻ khách lại biến thành “người ngựa” – sống nhờ, lừa gạt.
- Lên án xã hội tàn nhẫn đã đẩy con người vào cảnh bị rẻ rúng, mất phẩm giá.
- Thể hiện tư tưởng nhân đạo: cảm thương cho kiếp người khốn khổ.
Câu 8:
Chỉ ra một số thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu Nguyễn Công Hoan sử dụng trong đoạn trích.

- Đối thoại sinh động: tái hiện mâu thuẫn, lừa lọc giữa anh xe và bà khách.
- Trào phúng, mỉa mai: giọng điệu chua chát khi mô tả cảnh “ngựa người kéo người ngựa”.
- Nghệ thuật đối lập: mơ ước hạnh phúc giản dị ↔ hiện thực tàn nhẫn.
- Miêu tả chi tiết: cảnh phố xá vắng vẻ, tiếng thở dài, hạt dưa, pháo giao thừa… tạo bối cảnh hiện thực.
Câu 9:
Cảm nhận của anh/chị về giá trị hiện thực của đoạn trích trên (trình bày khoảng 5 - 7 dòng).

- Hiện thực được phản ánh trong đoạn trích: tình cảnh éo le của cặp người ngựa - ngựa người (anh phu xe và cô gái điếm), họ sẵn sàng bán sức lao động của mình, thậm chí bán mình để kiếm tiền ấy vậy mà không thể
- Hiện thực được phản ánh trong đoạn trích:
+ Phản chiếu cuộc đời khốn khổ của những người lao động dưới đáy xã hội.
+ Phản ánh nhãn quan sắc bén của nhà văn.
+ Hiện thực ấy, một cách gián tiếp chính là tiếng nói phê phán, lên án xã hội thực dân nửa phong kiến vô nhân tính.
+ Tạo tiền đề cho giá trị nhân đạo, nhân văn của tác phẩm được khơi dậy.
Hot: Danh sách các trường đã công bố điểm chuẩn Đại học 2025 (mới nhất) (2025). Xem ngay
- 30 đề thi tốt nghiệp môn Ngữ Văn (có đáp án chi tiết) ( 38.000₫ )
- 30 Bộ đề, Tổng ôn, sổ tay NLXH, sổ tay trọng tâm môn Ngữ Văn (có đáp án chi tiết) ( 60.000₫ )
- Sổ tay lớp 12 các môn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa, KTPL (chương trình mới) ( 36.000₫ )
- Tuyển tập 30 đề thi đánh giá năng lực Đại học Quốc gia Hà Nội, TP Hồ Chí Minh (2 cuốn) ( 150.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ Cảm nhận về thân kiếp con người được khắc hoạ trong đoạn trích trên.
- Hệ thống ý: Đoạn trích đã khắc hoạ thành công thân kiếp khốn cùng của những kiếp người lao động dưới đáy xã hội qua hình ảnh của một anh phu kéo xe và một cô gái điếm:
+ Hai nhân vật được đặt trong bối cảnh khá đặc biệt: đêm cuối cùng của năm, thời khắc sắp chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Ở thời điểm này, nếu không phải vì mưu sinh hay có việc bất trắc, chắc chắn bất cứ ai cũng sẽ tề tựu bên gia đình thân yêu của mình, cùng mọi người đón khoảnh khắc giao thừa. Song, anh phu xe và vị khách của anh ta - một người đàn bà có vẻ bề ngoài sang trọng nhưng thực chất chỉ là một cô gái điếm vẫn lang thang trên đường.
+ Tình huống truyện tiếp tục được phát triển khi vị khách sang trọng kia tiếp tục đề nghị anh phu xe kéo xe kéo thêm giờ nữa. Ban đầu anh phu xe hí hửng tính toán đến món tiền có được nếu chịu khó kéo xe. Hình dung về một ngày mai tươi sáng và niềm vui của vợ con,... khiến anh có thêm động lực để kéo xe băng băng. Sát thời điểm giao thừa, anh ngỏ ý xin tiền bà khách sang trọng thì mới vỡ lẽ bà ta chỉ là... gái điếm đang đi tìm khách. Thế là khốn cùng gặp khốn cùng. Người đàn bà lấy đâu ra tiền mà trả công kéo xe suốt ba tiếng vừa rồi của anh phu? Lại còn tiền vay để mua hạt dưa và thuốc lá nữa!
+ Bất đắc dĩ, con ngựa người lại phải kéo con người ngựa vậy. Hình ảnh con ngựa người và con người ngựa thật ám ảnh, nó buộc người đọc phải nhìn kiếp người như kiếp vật, nai lưng ra làm lụng mà chẳng thể sinh tồn!
=> Từ thân kiếp khốn cùng của hai con người dưới đáy xã hội, Nguyễn Công Hoan đã vạch trần hiện thực đen tối, thối nát của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời, đồng thời cất lên tiếng nói đòi quyền sống cho những con người khốn khổ. Thời đại ấy, thật may, tiếng nói của Nguyễn Công Hoan được đồng thanh bởi nhiều nhà văn khác như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,...
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Thể hiện rõ cảm nhận về thân kiếp con người được thể hiện trong đoạn trích văn bản ngữ liệu “Người ngựa và ngựa người” của Nguyễn Công Hoan.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Đoạn trích Ngựa người và người ngựa của Nguyễn Công Hoan đã khắc họa đầy ám ảnh thân phận khốn cùng của những kiếp người dưới đáy xã hội. Bối cảnh câu chuyện diễn ra vào đêm giao thừa – thời khắc thiêng liêng để sum vầy bên gia đình, vậy mà anh phu xe và người đàn bà kia vẫn lầm lũi mưu sinh ngoài đường. Hình ảnh anh phu xe chất phác, lam lũ, hy vọng từng đồng xu lẻ để lo bữa ăn Tết cho vợ con đối lập với sự thật phũ phàng khi phát hiện vị khách sang trọng chỉ là một cô gái điếm nghèo khổ, không tiền trả công. Tình huống “khốn cùng gặp khốn cùng” đã phơi bày hiện thực xã hội bất công, nơi con người bị đẩy vào bước đường cùng, phải sống lay lắt như loài vật. Câu văn “Bất đắc dĩ, con ngựa người lại phải kéo con người ngựa vậy” trở thành một hình ảnh nghệ thuật đầy ám ảnh, tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến tàn nhẫn đã chà đạp lên quyền sống của con người lao động. Qua đó, Nguyễn Công Hoan không chỉ phản ánh bi kịch kiếp người mà còn cất lên tiếng kêu thương và đòi hỏi sự cảm thông, công bằng cho những phận đời khốn khổ ấy.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích văn bản ngữ liệu “Người ngựa và ngựa người” của Nguyễn Công Hoan.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Công Hoan – cây bút hiện thực xuất sắc trong giai đoạn 1930 – 1945, được coi là “một trong ba cây đại thụ của văn học hiện thực phê phán” bên cạnh Vũ Trọng Phụng và Ngô Tất Tố.
- Giới thiệu tác phẩm “Ngựa người và người ngựa” – một truyện ngắn tiêu biểu, phơi bày hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát, đồng thời lên án sự chà đạp tàn nhẫn lên thân phận con người.
- Nêu vấn đề: Đoạn trích đã khắc họa thành công thân kiếp khốn cùng của những kiếp người lao động dưới đáy xã hội thông qua hình ảnh anh phu xe và cô gái điếm.
* Thân bài:
a. Hoàn cảnh đặc biệt và tình huống truyện
- Thời điểm diễn ra câu chuyện: đêm giao thừa, khoảnh khắc linh thiêng của năm mới.
- Trong khi người người sum họp đón Tết, hai con người khốn khổ vẫn lang thang mưu sinh ngoài đường phố:
+ Anh phu xe – đại diện cho tầng lớp lao động nghèo, sống lay lắt bằng sức lực cơ bắp.
+ Người đàn bà bề ngoài sang trọng nhưng thực chất chỉ là gái điếm – cũng phải lang bạt kiếm khách giữa đêm khuya.
- Sự gặp gỡ giữa họ tạo nên một tình huống đầy trớ trêu: khốn cùng gặp khốn cùng, càng bộc lộ rõ số phận bi đát của những kiếp người dưới đáy.
b. Thân phận và tâm trạng nhân vật
- Anh phu xe:
+ Ban đầu đầy hy vọng, mơ ước giản dị về “chín hào”, “bát phở tái”, “bánh ga tô cho con”… – thể hiện ước mơ nhỏ bé, chân chất.
+ Nhưng khi biết sự thật, anh rơi vào cảnh lao lực vô ích, làm thuê suốt mấy giờ mà không có công.
+ Hình ảnh “ngựa người” → bị biến thành công cụ, kéo còng lưng cho “người ngựa” là khách, biểu tượng cho sự tha hóa thân phận con người dưới áp bức.
- Người đàn bà (cô gái điếm):
+ Bên ngoài sang trọng nhưng thực chất nghèo khổ, bất lực.
+ Lời thoại đầy bối rối, bất lực: không tiền, không khách, đành nợ nần.
+ Cũng là một kiếp sống bị xã hội khinh miệt, chà đạp.
- Cả hai nhân vật đều thở dài, lê bước trong vô vọng → phản ánh số phận bế tắc của người lao động cùng khổ trong xã hội cũ.
c. Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm
- Giá trị hiện thực:
+ Phơi bày cảnh sống cùng cực, khổ nhục của tầng lớp lao động nghèo dưới chế độ thực dân nửa phong kiến.
+ Tố cáo một xã hội bất công, nơi con người bị coi như súc vật, thân kiếp chẳng khác gì “ngựa”.
- Giá trị nhân đạo:
+ Thể hiện sự cảm thông sâu sắc với những phận đời nghèo khổ.
+ Tiếng thở dài của nhân vật cũng là tiếng thở dài của nhà văn – cất lên nỗi đau thay cho hàng vạn con người bị bỏ rơi.
+ Đồng thời là tiếng nói đòi quyền sống, quyền làm người cho những thân phận dưới đáy xã hội.
d. Nghệ thuật
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc, giàu kịch tính.
- Nghệ thuật đối thoại chân thực, giàu sức gợi.
- Hình tượng “ngựa người – người ngựa” giàu tính biểu tượng, ám ảnh người đọc.
* Kết bài:
- Khẳng định giá trị của đoạn trích: “Ngựa người và người ngựa” đã khắc họa chân thực, ám ảnh số phận những kiếp người nghèo khổ, bị xã hội xô đẩy đến tận cùng của nỗi khốn cùng.
- Đóng góp lớn của Nguyễn Công Hoan: phơi bày hiện thực xã hội thối nát, đồng thời lay động lòng trắc ẩn và khát vọng đổi thay.
- Mở rộng: Tác phẩm nhắc nhở chúng ta hôm nay càng phải biết trân trọng những giá trị của cuộc sống tự do, no ấm, đồng thời luôn biết cảm thông, sẻ chia với những mảnh đời bất hạnh trong xã hội.
Bài văn tham khảo
Trong nền văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945, Nguyễn Công Hoan được xem là một trong những cây bút tiêu biểu, có khả năng phản ánh hiện thực đời sống với giọng văn vừa chua chát, vừa cảm thương. Truyện ngắn Ngựa người và người ngựa là một minh chứng điển hình, phơi bày số phận khốn cùng của những kiếp người lao động dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Đoạn trích trong tác phẩm đã khắc họa sâu sắc cảnh đời bất hạnh của anh phu xe và người đàn bà điếm trong đêm giao thừa, từ đó gióng lên tiếng nói tố cáo xã hội bất công và bày tỏ tấm lòng nhân đạo tha thiết.
Câu chuyện diễn ra vào thời khắc linh thiêng: đêm giao thừa. Khi mà hầu hết mọi người đều được sum vầy bên gia đình để chờ đón năm mới, thì anh phu xe và người đàn bà kia vẫn phải lê bước ngoài đường, kiếm sống lay lắt. Anh phu xe là hình ảnh điển hình cho người lao động nghèo, lam lũ, sống nhờ từng cuốc xe vất vả. Người đàn bà lúc đầu tỏ ra sang trọng, ăn mặc chải chuốt, nhưng thực chất chỉ là một gái điếm nghèo kiết xác, cũng bươn bả kiếm khách trong đêm. Sự gặp gỡ của hai con người ấy đã tạo nên một tình huống vừa trớ trêu, vừa đầy bi kịch: khốn cùng gặp khốn cùng, phơi bày tận cùng của sự bế tắc.
Hình ảnh anh phu xe hiện lên vừa đáng thương vừa đáng trân trọng. Anh chất phác, lam lũ, chỉ mong kiếm được “chín hào” để mua cho con chiếc bánh ga tô, cho vợ bát phở nóng trong ngày Tết. Những ước mơ nhỏ bé ấy thể hiện khát vọng giản dị, trong sáng của người lao động nghèo. Nhưng thực tế phũ phàng đã dập tắt hi vọng ấy. Người đàn bà không có tiền trả, bao công sức lao lực suốt mấy giờ của anh trở nên vô ích. Hình tượng “ngựa người” – con người bị biến thành con vật, phải còng lưng kéo khách – trở thành biểu tượng ám ảnh về thân phận bị chà đạp của những kiếp người dưới đáy.
Người đàn bà kia, tuy có lúc hiện lên với dáng vẻ chanh chua, bối rối, nhưng cũng là một số phận đáng thương. Bản thân chị ta cũng rơi vào cảnh túng quẫn, đi lang thang suốt đêm mà chẳng kiếm nổi một khách làng chơi. Lời thoại đầy bất lực “tôi biết làm thế nào” cho thấy sự bất đắc dĩ, cam chịu. Dù có vẻ là người lừa dối anh phu xe, nhưng sâu xa cũng chỉ vì chị quá nghèo, bị xã hội khinh miệt, xô đẩy. Cuối cùng, cả hai nhân vật đều thở dài, lê bước trong vô vọng, gợi nên một bức tranh tối tăm, bế tắc của cuộc đời.
Đoạn trích mang giá trị hiện thực sâu sắc khi phơi bày rõ cảnh đời khốn cùng của tầng lớp lao động nghèo trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Ở đó, con người không còn được đối xử như con người mà bị coi như công cụ, như súc vật. Đồng thời, tác phẩm cũng mang giá trị nhân đạo cảm động. Nguyễn Công Hoan đã cất lên tiếng nói thương cảm cho những phận đời cùng khổ, lên án xã hội bất công, đồng thời bộc lộ khát vọng đổi thay để con người được sống đúng với nhân phẩm.
Bằng bút pháp hiện thực sắc sảo, nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, ngôn ngữ đối thoại chân thực và đặc biệt là hình tượng mang tính biểu tượng “ngựa người – người ngựa”, Nguyễn Công Hoan đã để lại trong lòng người đọc một ám ảnh không thể nguôi.
Tóm lại, đoạn trích Ngựa người và người ngựa không chỉ khắc họa bi kịch thân phận những con người dưới đáy xã hội mà còn chứa đựng tiếng nói nhân đạo sâu sắc. Qua tác phẩm, ta càng hiểu rõ hơn sự tàn nhẫn của xã hội cũ, đồng thời thêm trân trọng giá trị của cuộc sống hôm nay – nơi con người được sống trong tự do, no ấm, và cũng được nhắc nhở phải biết cảm thông, sẻ chia với những mảnh đời bất hạnh.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.