Danh sách câu hỏi
Có 26,793 câu hỏi trên 536 trang
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Đêm hôm ấy, hai người ở dưới các vòm cây, và Đôn Ki-hô-tê bẻ một cành khô, rút cái mũi sắt ở chiếc cán gãy lắp vào làm thành ngọn giáo. Đôn Ki-hô-tê suốt đêm không ngủ để nghĩ tới nàng Đuyn-xi-nê-a của lão, bắt chước những hiệp sĩ lão từng đọc trong sách thức trắng nhiều đêm ròng ở trong rừng hoặc nơi hoang mạc, liên tưởng nhớ tới tình nương. Xan-chô Pan-xa thì không thế, bởi vì dạ dày no căng toàn là rượu thịt, bác ngủ một mạch, và nếu như chủ không gọi, thì dù ánh nắng chiếu thẳng vào mặt, và vô số tiếng chim hót líu lo đón mừng một ngày mới có lẽ cũng không đủ để đánh thức bác. Vừa ngủ dậy, bác vớ ngay lấy bầu rượu, thấy nó nhẹ hơn tối hôm trước, nên buồn rầu vì xem chừng trên quãng đường này khó đào đâu ra ngay rượu để đổ vào cho đầy. Đôn Ki-hô-tê không muốn ăn sáng vì, như ta thường nói, chàng nghĩ đến người yêu cũng đủ no rồi.”.
a) Trong đoạn trích trên, Đôn Ki-hô-tê suốt đêm không ngủ để làm gì? Vì sao?
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
“Khi Chiêu Thành Vương dựng cờ lên thì trai tráng kéo đến dưới cờ đông như hội. Những người đã theo về với Hoài Văn cũng chạy cả sang hàng ngũ Chiêu Thành Vương. Sắp xếp đội ngũ xong, Vương cất quân rầm rộ lên đường.
Hoài Văn nói với người tướng già:
– Trai tráng đi theo chú hết rồi. Lấy đâu ra quân nữa?
Người tướng già nói:
– Người thì có bao giờ hết được? Muốn cho người ta tin theo, phải có danh chính ngôn thuận. Cứ như ý tôi, ta phải chịu khó đi vào các thôn xóm nói rõ cho mọi người biết được nghĩa lớn. Dân gian ai chẳng có lòng trung quân ái quốc? Tôi được biết ở Võ Ninh ta có nhiều bộ lão được thiên tử vời?) về điện Diên Hồng hỏi kế, ta nên gặp những người ấy. Các cụ đã quyết chí đánh giặc, há lại không gióng giả bảo người trong họ ngoài làng theo về với vương tử hay sao? Lo gì không có quân?
Quốc Toản mừng lắm, nói:
– Ông đã vén cho ta một đám mây mờ.
Từ đấy, ngày nào Hoài Văn cũng xuống các thôn xóm, vận động bà con đứng lên cứu nước. Một hôm, đã khuya lắm, Hoài Văn còn chong đèn trên lầu. Quốc Toản nghĩ: “Chú ta dựng cờ lên là thiên hạ nô nức đến. Ta cũng phải có một lá cờ. Lá cờ nêu rõ chí ta.”. Suốt từ chập tối đến canh hai, Hoài Văn tự hỏi: “Ta sẽ viết chữ gì trên lá cờ của ta? Chữ đề phải quang minh chính đại như ban ngày. Chữ đề phải là một lời thê quyết liệt. Chữ để phải làm cho quân sĩ phần khởi, cho kẻ địch kinh hồn”.
Trống đã điểm canh ba. Mắt Hoài Văn bỗng rực sáng, toàn thân như bóng bằng cháy. Tay Hoài Văn giơ lên như đang phất một lá cờ. Hoài Văn thét lớn:
- PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO HOÀNG ÂN.
Hoài Văn nhầm đi nhầm lại:
– Phá cường địch, báo hoàng ân. Báo hoàng ấn, phá cường địch. Phá cường địch... Chàng gật gù, sung sướng. Sáu chữ đối nhau chan chát, lời đanh thép, ý hùng hồn. Chàng lấy hết gân tay viết sáu chữ lên một tờ giấy điều. Chàng mơ màng thấy lá cờ sáu chữ tung hoành trên các trận và chàng thì đang trỏ giáo, vung gươm chém đầu tướng giặc. Hoài Văn định nhảy xuống lầu để khoe với người tướng già sự khám phá mới mẻ của mình thì chợt có tiếng chân bước nhẹ lên lầu. Quốc Toản nhìn ra thì chính là mẹ. Chàng chìa tay đỡ mẹ lên. Phu nhân khẽ hỏi:
Sắp sáng rồi, sao con thức khuya thế? Mẹ thấy con ngày một võ vàng. Áo đâu mà phong phanh thế kia?
Quốc Toản có gầy đi nhiều. Hầu lại chỉ mặc một áo lót mỏng, vì Hầu muốn luyện cho mình thành một người có thể dãi gió dầm mưa, chịu đựng được mọi nỗi vất và của sa trường. Quốc Toản đỡ mẹ ngồi lên kỉ và thưa:
- Con để mẹ phải lo nghĩ, con thật mang tội bất hiếu. Nhưng giặc sắp kéo sang, có muốn ở yên cũng không được. Phải tập khổ cho quen đi.
Phu nhân cầm lấy tờ giấy hồng điều trong tay con. Trên tờ giấy viết sáu chữ lớn: “Phá cường địch báo hoàng ân”, nét bút gân guốc. Phu nhân không nói, lặng nhìn sáu chữ, mừng thầm cho con có chí khác thường. Quốc Toản nói:
Con muốn dựng một lá cờ đề sáu chữ này để chiêu binh mãi mã. Nay mai ra trận, con sẽ phất lá cờ ấy thề sống chết với quân thù. Mẹ may cho con lá cờ ấy nhé. Đến khi xông pha chiến trận, con nhìn lá cờ là thấy được mẫu thân.
Phu nhân xoa đầu con, và Hoài Văn gục đầu lên gối mẹ. Phu nhân nói:
Mẹ đã không giữ con ở nhà, thì làm gì không may nổi cho con một lá cờ. Thôi, con ngủ đi. Sáng rồi!
Phu nhân dắt Quốc Toản đến giường, bảo nằm xuống, kéo chăn đắp lên mình con. Người mẹ cầm ngọn đèn, nhẹ bước xuống lầu. Trở về phòng riêng, phu nhân chong đèn, lúi húi thêu sáu chữ bằng những sợi chỉ vàng trên một tấm lụa đỏ thắm.”
(Nguyễn Huy Tưởng, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, NXB Văn học, Hà Nội, 1996)
a) Đoạn trích trên kể về sự việc gì? Sự việc ấy có liên quan đến sự kiện lịch sử nào của dân tộc?
Nội dung nào sau đây là khái niệm của truyện lịch sử?
A. Truyện kể bằng văn xuôi hoặc văn vần, thường mượn chuyện về loài vật, đồ vật, cây cỏ,... hoặc về chính con người để nêu lên triết lí nhân sinh và những bài học kinh nghiệm về cuộc sống
B. Truyện có nội dung liên quan đến các nhân vật và sự kiện lịch sử; được nhà văn hư cấu, tưởng tượng, bổ sung, sáng tạo thành những hình tượng văn học sinh động
C. Truyện kể về cuộc đời của nhân vật bất hạnh, nhân vật có tài năng kì lạ, nhân vật thông minh, nhân vật ngốc nghếch để nêu lên triết lí nhân sinh và những bài học kinh nghiệm về cuộc sống
D. Truyện thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân về chiến thắng cuối cùng của cái thiện đối với cái ác, nhằm giáo dục con người
Ghép các từ tượng hình, từ tượng thanh (in đậm) ở cột A với nghĩa phù hợp ở cột B:
A. Từ tượng hình, từ tượng thanh
B. Nghĩa
a) Ậm oẹ quan trường miệng thét loa (Trần Tế Xương)
1) (vóc dáng) bé nhỏ quá mức
b) Lom khom dưới núi, tiều vài chú (Bà Huyện Thanh Quan)
2) dài hoặc cao quá, mất cân đối
c) Lác đác bên sông, chợ mấy nhà (Bà Huyện Thanh Quan)
3) ở tư thế còng lưng xuống
d) Đôi mắt lão ầng ậng nước ... (Nam Cao)
4) thưa và rải rác mỗi chỗ, mỗi lần một ít
e) Hoài Văn lầm rầm khấn ... (Nguyễn Huy Tưởng)
5) (tiếng nói) nhỏ, thấp, đều đều, nghe không rõ
g) Dế Choắt người ... dài lêu nghêu ... (Tô Hoài)
6) (nước mắt) nhiều, dâng đầy khoé mắt, như chực tuôn chảy ra
h) Chú bé loắt choắt (Tố Hữu)
7) (tiếng nói) bị cản trong cổ họng, nghe không rõ
Mẫu: a) – 7)
Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
LAI TÂN
Phiên âm:
Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền.
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
Dịch nghĩa.
Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị áp giải.
Huyện trưởng chong đèn làm việc công,
Lai Tân vẫn thái bình như xưa.
Dịch thơ:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
(Hồ Chí Minh, in trong Suy nghĩ mới về “Nhật kí trong tù”, Nguyễn Huệ Chi (Chủ biên), Nam Trân dịch, NXB Giáo dục, 1995)
a) Trình bày hoàn cảnh ra đời bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh và cho biết bài thơ viết về vấn đề gì.
Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
NGẮM CẢNH CHIỀU Ở PHỦ THIÊN TRƯỜNG
(Thiên Trường vãn vọng)
Phiên âm:
Thôn hậu thôn tiến đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lí quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
Dịch nghĩa:
Sau thôn, trước thôn đều mờ mờ như khói phủ
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có, nửa như không.
Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống cánh đồng.
Dịch thơ:
Trước xóm, sau thôn tựa khỏi lồng.
Bóng chiều dường có, lại đường không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Trần Nhân Tông, in trong Thơ văn Lý – Trần, tập II, Quyến thượng Ngô Tất Tố dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989)
a) Tìm hiểu về tác giả Trần Nhân Tông để giúp cho việc đọc hiểu bài thơ trên. Cho biết bối cảnh ra đời của bài thơ.