Danh sách câu hỏi

Có 291,291 câu hỏi trên 5,826 trang
Bài tập 6. Đọc nhận định sau về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh và trả lời các câu hỏi: Song điều khiến tôi kinh ngạc trong tiểu thuyết này, không chỉ là sự tàn khốc của chiến tranh cũng như sự huỷ diệt của nó đối với tâm hồn con người, mà còn là cách thức xử lí hình thức nghệ thuật trong văn bản tiểu thuyết – tức phương pháp sáng tác tiểu thuyết: sáng tác của nhà văn Bảo Ninh và sáng tác của nhân vật chính của tiểu thuyết – Kiên, câu chuyện chiến tranh về Kiên và các nhân vật khác mà Bảo Ninh kể, câu chuyện về thân phận trong tiểu thuyết mà Kiên sáng tác cho đến cả việc đọc và sắp xếp cuốn tiểu thuyết trong tiểu thuyết của người viết ở cuối tác phẩm, tất cả tạo nên một cốt truyện ghép mảnh và sáng tác chồng xếp, khiến cho Nỗi buồn chiến tranh đạt đến kết cấu gấp hộp một cách vô cùng thành công. Chính lối tự sự có thể gọi là kết cấu gấp hộp này đã làm cân bằng và trì hoãn một cách hầu như hoàn mĩ đối với sự mạo hiểm của tính trữ tình quá độ trong cốt truyện tiểu thuyết, khiến cho phong cách trữ tình và nghị luận kiểu sân khấu kịch trong văn học truyền thống phương Đông trở thành thứ màu sắc phương Đông trong văn học thế giới [...]. (Diêm Liên Khoa, Tầm cao của văn học chiến tranh phương Đông, Thiên Thai dịch, tạp chí Tia sáng, ngày 19/5/2016) Xác định vấn đề chính được đề cập trong nhận định trên.
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi: Sự thật của Số đỏ, chính là cái cười. Cái cười trong Số đỏ không phải là những phương thức nghệ thuật để chuyên chở tư tưởng của tác phẩm. Cái cười ở đây là bản chất, là tinh tuý của văn bản nghệ thuật; nó đồng nhất với thế giới quan của tác giả; nó là tất cả tác phẩm – cái cười đa diện, cái cười vừa khẳng định vừa bác bỏ, cái cười lớn luôn luôn để ngỏ, không khép kín, không khô cứng. Nhiều nhà phê bình đã nói sâu sắc về cái hoạt kê, cái cười hể hả, cái hài hước, cái châm biếm, nhạo báng, cái hề, cái bouffon v.v... của Số đỏ. Tôi hiểu thêm rằng Số đỏ là cái cười nhại với một tầm cỡ lớn. Số đỏ nhại một xã hội, một phong trào chính trị, một thời đô thị hoá. Nó nhại một trào lưu văn hoá, một trào lưu văn học, một nghệ thuật trừu tượng cực đoan. Nó nhại một ngôn ngữ đang hình thành, hổ lốn, táp nham, lổn nhổn, không ăn khớp – ngôn từ khấp khểnh, xiêu vẹo, tạp pí lù. Số đỏ là một tập hợp hỗn loạn những phong cách kì dị, quái gở, lấn át nhau, xen kẽ nhau, phá huỷ nhau, – để biểu đạt chính xác cái xã hội quái dị ấy. Và chưa mấy ai thấy cái cười của Vũ Trọng Phụng, ở đây, ẩn giấu tư tưởng nhân đạo đầy bao dung, cái cười nhân văn chủ nghĩa. (Đỗ Đức Hiểu, Những lớp sóng ngôn từ trong “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng, in trong Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học xã hội – NXB Mũi Cà Mau, 1994, tr. 223 – 224) Ở ba câu văn đầu tiên trong đoạn trích, tác giả đã cho biết quan niệm của mình về cái cười trong tiểu thuyết Số đỏ như thế nào?
Chỉ ra biểu hiện và nêu nhận xét về sự kết hợp giữa kể với tả hoặc kể với biểu cảm hoặc kể với tả và biểu cảm trong các đoạn văn sau: a) Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện. (Nguyễn Dữ) b) Chúng tôi chỉ còn kịp nghe thấy tiếng bước chân huỳnh huỵch xuống cầu thang, rồi tiếng cổng sắt sập mạnh. Từ cửa sổ phòng khách, tôi còn thấy hắn chạy trối chết về phía cuối đường. Đồ vô lại! – Hôm rủa. – Thằng khốn này sẽ gieo rắc tai hoạ cho đến ngày lên giá treo cổ thôi. Vụ này kể ra cũng không hoàn toàn vô vị. (Đoi-lơ) c) Tôi tìm hung thủ trong hai người này chăng? Thoạt tiên thì đó là điều vô lí hết sức. Huy là người tôi biết đã lâu lắm, hiền lành, ngay thẳng,... Còn Thạc cũng là người tôi quen, hoạt bát, thông minh và ăn nói dễ thương. Vả lại, chính lúc xảy ra án mạng, cả hai người cùng đi xem chớp bóng với tôi, Huy ngôi bên cạnh tôi, và Thạc cũng ngồi liền một bên. Tôi ngồi giữa... Tuy vậy, một sự gì rất bí nhiệm, một điều quan sát không mấy khi ta lưu tâm đến... lúc thường tôi bỏ qua, nhưng bấy giờ đến mách bảo tôi, khiến tôi ngờ rằng hung thủ là Thạc. (Thế Lữ)
Chọn từ ngữ phù hợp với chỗ trống trong những câu sau để hoàn thành phần kiến thức về truyện kể sáng tạo và viết truyện kể sáng tạo. sáng tạo, hư cấu, miêu tả, mô phỏng, nhân vật, tưởng tượng, sự việc, đời sống, tự sự, người kể, tác giả, thông điệp   Truyện kể sáng tạo là một văn bản (1)..........., ở đó, (2)........... (có thể là nhân vật trong truyện – ngôi thứ nhất, hoặc người ngoài cuộc – ngôi thứ ba) kể lại một cách sáng tạo những (3)........... đã diễn ra ở một không gian, thời gian nào đó, gắn với những (4)........... cụ thể. Thông qua câu chuyện, (5)........... thể hiện quan điểm, suy nghĩ, thái độ của mình về những vấn đề của đời sống. Trong truyện, bên cạnh lời kể, còn có những câu, đoạn văn (6)..........., biểu cảm để làm nổi bật đặc điểm của nhân vật hoặc bối cảnh, đồng thời bộc lộ cái nhìn, tình cảm, cảm xúc của người kể và của chính nhà văn. Truyện kể sáng tạo có thể là một câu chuyện hoàn toàn mới hoặc (7)........... một truyện đã có nhưng điều chỉnh, thay đổi các chi tiết, sự việc, nhân vật,... theo ý tưởng của người kể. Viết truyện kể sáng tạo là tạo lập một văn bản tự sự có yếu tố (8)........... và có tính nghệ thuật nhất định. Khác với các văn bản như nhật kí, hồi kí, bản tường trình,..., truyện cho phép người viết (9)........... những sự việc, con người không có thật (ví dụ: thần tiên, ma quỷ,...) hoặc chỉ có một phần sự thật (ví dụ: Sự tích Hồ Gươm). Nhưng dù hư cấu thế nào thì truyện vẫn luôn đặt ra những vấn đề của (10)........... con người. Vì thế, việc (11)........... ra các tình huống, sự việc, chi tiết, nhân vật (con người, con vật, thần, thánh,...),... chỉ là phương thức để người viết gửi gắm những (12)....... về cuộc sống. Đó có thể là một bài học về đạo lí, lối sống hay một quan niệm, một góc nhìn về thiên nhiên, xã hội, con người.
(Bài tập 2, SGK) Tìm câu bị động trong những đoạn văn dưới đây. Cho biết việc sử dụng những câu bị động đó phù hợp như thế nào đối với văn cảnh và mục đích diễn đạt. a) Sau nghi lễ bái tổ, hai đô thực hiện nghi thức xe đài. Những động tác xe đài được thực hiện rất đa dạng. (Phí Trường Giang) b) Địa đạo Củ Chi hình thành trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp (khoảng năm 1948). Hệ thống địa đạo được xây dựng sớm nhất tại hai xã Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An [...]. Lúc đầu, địa đạo chỉ có những đoạn ngắn, cấu trúc đơn giản, dùng để giấu tài liệu, trú ém cán bộ trong vùng địch hậu. Sang giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Mỹ, địa đạo được gia cố và mở rộng. (Di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi) c) Trong hơn một thế kỉ trở lại đây, dân số thế giới ngày càng tăng, trong khi số lượng các loài động vật ngày một giảm đi rõ rệt. Môi trường sống của động vật bị con người chiếm lĩnh, phá hoại [....]. Nhiều loài thậm chí thường xuyên bị con người ngược đãi, săn bắt vô tổ chức và tàn sát không nương tay. (Theo Kim Hạnh Bảo – Trần Nghị Du)
(Bài tập 1, SGK) Thử chuyển mỗi thành phần câu hoặc thành phần của cụm từ được in đậm dưới đây sang vị trí khác trong câu; qua đó, giải thích vì sao các tác giả lại chọn vị trí của chúng như ở những câu đã cho. a) Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn.  (Hồ Chí Minh) b) Vì đường xa, chúng tôi chỉ ở nhà được có ba ngày. Trong ba ngày ngắn ngủi đó, con bé không kịp nhận ra anh là cha.  (Nguyễn Quang Sáng) c) Giữa mặt vịnh mênh mông xanh ngắt và tim tím, nhô lên những tảng đá vôi hình thù kì dị và dường như được bút sơn của một hoạ sĩ quét lên vô số màu sắc, từ màu xanh ngọc bích đến màu đỏ nâu và vàng.  (Thi Sảnh) d) Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà. (Bà Huyện Thanh Quan)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới: “Hôm rời ghế ngồi, đứng giữa hai phần rèm cửa sổ, dõi mắt xuống con phố ảm đạm. Ngó qua vai anh, tôi thấy một phụ nữ cao lớn, cổ quấn khăn da trăn, đầu đội mũ da đỏ rộng vành đang đứng trên hè đường trông thẳng sang nhà. Trông cô ta đỏm dáng như nữ công tước Đi-vôn-sai (Devonshire) vậy. Cô cố giấu vẻ bối rối sau bộ phục trang rực rỡ, lưỡng lự ngước mắt lên căn hộ có sự hiện diện của chúng tôi, các ngón tay không biết làm gì ngoài mân mê hàng cúc áo. Đột nhiên, với sự quả quyết của một vận động viên bơi lội bật khỏi bờ, cô gái lao vút qua đường. Rồi chúng tôi nghe thấy một hồi chuông giòn giã ngoài cửa. – Tôi biết cái triệu chứng này rồi! – Hôm ném điếu thuốc hút dở vào lò sưởi. – Dấp da dấp dính trên vỉa hè là có sự mà. Cô nàng muốn hỏi xin ý kiến, nhưng không chắc có nên thổ lộ vấn đề tế nhị cho người lạ không. Chúng ta nên phân biệt rõ. Nếu người chồng có lỗi rất nghiêm trọng thì cô ta đã không ngần ngại gì mà không đến chỗ chúng ta và rung chuông ngay. Đằng này chắc có chút gì liên quan đến tình cảm, thành thử cô nàng hơi lúng túng hoặc thương cảm. Được rồi, chính cô ấy sẽ đến giải toả các mối nghi ngờ của chúng ta. Nói tới đây thì có tiếng gõ cửa. Người hầu giới thiệu cô Me-ri Sơ-thơ-len. Người phụ nữ dần dần hiện ra sau thân hình khiêm tốn của Hôm. Anh bạn tôi thân mật tiếp khách, sau khi khép cửa lại và mời cô ngồi. Ngắm kĩ bộ đồ độc đáo của nữ thân chủ, Hôm từ tốn: – Thưa cô, cô không thấy khó chịu khi phải đánh máy quá nhiều với cặp kính cận này chứ? – Ban đầu thì có. Nhưng giờ tôi đã có thể đánh máy mà chẳng cần nhìn bàn phím rồi. Rồi như chợt nhận ra ngụ ý trong ngôn từ của Hôm, cô gái rùng mình ngước lên, trên khuôn mặt còn đọng lại nỗi sợ hãi và sửng sốt. Cô bối rối hỏi: – Ông đã nghe nói về tôi rồi, ông Hôm? Nếu không làm sao ông biết chuyện ấy? Đừng để ý đến chuyện ấy. – Hôm vui vẻ cười. – Nghề của tôi là phải biết nhiều thông tin. Có lẽ tôi đã quen quan sát những gì mà người khác bỏ qua. Nếu không, chắc gì cô đã tới xin ý kiến tôi, đúng không? – Thưa ông, tôi được bà E-thơ-di (Etherege) giới thiệu đến gặp ông. Ông đã tìm lại người chồng cho bà ấy, trong khi nhiều người khác, thậm chí cảnh sát, đều cho rằng ông ấy đã chết. Ôi, ông Hôm, khẩn cầu ông giúp tôi càng nhiều càng tốt. Tôi chẳng giàu có gì, song cũng có lợi tức khoảng một trăm bảng mỗi năm. Ngoài ra, tôi còn có chút thù lao đánh máy nữa. Tôi sẽ chi hết, miễn là tìm được ông Hót-mơ En-giô.” (Đoi-lơ, trích Sơ-lốc Hôm, tập 1, Bùi Liên Thảo – Vũ Thu Hà – Vũ Quế Anh dịch, NXB Văn học, Hà Nội, 2016) a) Đoạn trích trên kể về cuộc gặp gỡ giữa ai với ai? Vì sao có cuộc gặp gỡ này? b) Hãy xác định người kể chuyện trong đoạn trích trên (chú ý kết nối với văn bản Vụ cải trang bất thành trong SGK) và tìm một ví dụ để phân biệt lời người kể chuyện và lời nhân vật. c) Nhân vật Hôm đã được khắc hoạ như thế nào trong đoạn trích trên? d) Tìm các chi tiết trong đoạn trích cho thấy những đặc điểm phổ biến về tính cách hoặc năng lực ở nhân vật thám tử.