Một thoáng chèo quê tôi
(Vũ Hữu Sự)
Khi tôi lớn lên, chèo sân đình đã vắng bóng. Các đoàn chèo từ Trung ương đến hàng xã đều diễn chèo trên sân khấu ba mặt (vốn là sản phẩm của kịch phương Tây) và những kịch bản chèo cổ đã được chỉnh lí, biên soạn lại khá công phu dưới ngòi bút của những nhà viết chèo tầm cỡ như Trần Huyền Trân, Lưu Quang Thuận, Bùi Đức Hạnh,... nhưng vẫn còn lưu dấu trong những buổi đội chèo làng luyện tập,... Cơm tối xong, tiếng trống vừa nổi lên cùng với điệu “vỡ nước” náo nức, là chúng tôi ùa ra sân hợp tác. Già trẻ, gái trai đã vây kín thành vòng tròn quanh các diễn viên (toàn là người làng cả).
Hồi ấy chưa có điện, ánh sáng của những buổi tập ấy chủ yếu là ánh trăng hay đèn “hoa kì” (đèn “măng sông” chỉ hôm diễn chính mới được thắp). Ông chủ nhiệm hợp tác xã chĩnh chện trên chiếc ghế đẩu, chân kẹp trống, tay lăm lăm dùi. Ông ngồi cầm chầu, trực tiếp chấm... cộng điểm cho các diễn viên – xã viên của mình. Diễn viên lúc ấy có người mới tất tả chạy ra, mặt còn đỏ lựng vì đun mải cho xong nồi cám lợn. Diễn viên tập, còn “đạo diễn”? Ngoài ông đội trường vốn là một trùm hát ngày trước, còn là... toàn thể người xem. [...]
Người hát chèo hay nhất ở quê tôi hồi ấy là chị Thuyên (bây giờ, dẫu đã teo tóp ở tuổi 55 do gánh gia đình quá nặng, chị hát vẫn rất nền(1). Chị chuyên đóng vai nữ lệch(2). Hôm nào đi tập chị cũng đi muộn nhất. Có lần ra đến sân kho, quần còn vo quá gối. [...]
Chị Thuyên nghèo lắm. Năm ngoài hai mươi, chị đã ba con. Vợ chồng tất bật, lam lũ. Những lúc vất vả quá, chị hay thở dài, bảo tôi:
– Em này, ước gì mà cuộc đời nó cũng như là... chiếu chèo ấy nhỉ?
Tôi chỉ biết ngẩn ngơ. Vâng! Ước gì... Bao nhiêu là nhân tình thế thái. Bao nhiêu là số phận đã diễn ra trên những chiếu chèo quê tôi... Ở đó, người nghèo khổ được gặp Tiên, gặp Phật. Cô gái mò cua trở thành hoàng hậu, còn chàng trai nghèo dắt mẹ đi ăn mày thì đỗ trạng nguyên. Ở đó ân oán phân minh, nghĩa tình trọn vẹn... [...]
Vùng tôi là quê hương của những “chiếng”(3) chèo Nam. Thời trước, mỗi tỉnh có một hay nhiều “chiếng” chèo riêng: “Chiếng” chèo Đông của Hải Dương, “chiếng” chèo Đoài của Sơn Tây, “chiếng” chèo Bắc của Bắc Ninh. Mỗi “chiếng” có sở trường riêng, có những “ngón nghề” riêng, người sành chèo chỉ cần nhìn qua lối diễn là có thể gọi ngay ra được tên “chiếng”. Diễn viên bình thường chỉ diễn được trong “chiếng” của mình. Những người nhập vào “chiếng” nào cũng diễn được, lại diễn hay, được gọi là “nghệ nhân Tứ “Chiếng”. Số nghệ nhân đó thật hiếm hoi. Ở những “chiếng” chèo Nam, cho đến giờ, người ta vẫn kể chuyện về cô đào Đào Sương Nguyệt. Cô nhập vào “chiếng” nào là “chiếng” đó khởi sắc hẳn lên. Đào Nguyệt nổi danh với những vai “nữ chính” Thị Kính, Thị Phương,... và còn nổi danh với cả vai... Trương Phi trong tuồng Bắc. [...]
Nhưng rồi về sau, chẳng ai biết kết cục của cô đào tài danh ấy ra sao? Vốn là người mê chèo, từ ngày trở thành một nhà báo chuyên nghiệp, tôi đã cố công đi tìm tung tích cô, nhưng tôi đã hoài công... Tên của cô chỉ còn lưu lại trong kí ức của những nghệ nhân dân gian lớp trước...
Chèo, đó chính là đặc trưng cho tính cách tâm hồn của người quê tôi. Những làn điệu, những vai chèo bất chấp mọi biển thiên, thăng trầm của xã hội, vẫn cứ màu mỡ, cứ xanh tươi như đồng đất Thái Bình.
(Vũ Hữu Sự, Một thoáng chèo quê tôi, in trong tập phóng sự Muôn mặt đời thường (Nhiều tác giả), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2001, tr. 109 – 116)
(1) Nền: chỉ tiếng đệm được xử lí tinh tế, tạo mặt bằng giai điệu nhằm tôn lên lời chính của hát chèo.
(2) Nữ lệch (hay đào lệch): chỉ nhân vật nữ táo bạo, dám phá bỏ mọi ràng buộc của lễ giáo phong kiến đi tìm tự do yêu đương.
(3) Chiếng: chỉ những phường chèo hoạt động trong một vùng văn hóa nhất định.
Một thoáng chèo quê tôi
(Vũ Hữu Sự)
Khi tôi lớn lên, chèo sân đình đã vắng bóng. Các đoàn chèo từ Trung ương đến hàng xã đều diễn chèo trên sân khấu ba mặt (vốn là sản phẩm của kịch phương Tây) và những kịch bản chèo cổ đã được chỉnh lí, biên soạn lại khá công phu dưới ngòi bút của những nhà viết chèo tầm cỡ như Trần Huyền Trân, Lưu Quang Thuận, Bùi Đức Hạnh,... nhưng vẫn còn lưu dấu trong những buổi đội chèo làng luyện tập,... Cơm tối xong, tiếng trống vừa nổi lên cùng với điệu “vỡ nước” náo nức, là chúng tôi ùa ra sân hợp tác. Già trẻ, gái trai đã vây kín thành vòng tròn quanh các diễn viên (toàn là người làng cả).
Hồi ấy chưa có điện, ánh sáng của những buổi tập ấy chủ yếu là ánh trăng hay đèn “hoa kì” (đèn “măng sông” chỉ hôm diễn chính mới được thắp). Ông chủ nhiệm hợp tác xã chĩnh chện trên chiếc ghế đẩu, chân kẹp trống, tay lăm lăm dùi. Ông ngồi cầm chầu, trực tiếp chấm... cộng điểm cho các diễn viên – xã viên của mình. Diễn viên lúc ấy có người mới tất tả chạy ra, mặt còn đỏ lựng vì đun mải cho xong nồi cám lợn. Diễn viên tập, còn “đạo diễn”? Ngoài ông đội trường vốn là một trùm hát ngày trước, còn là... toàn thể người xem. [...]
Người hát chèo hay nhất ở quê tôi hồi ấy là chị Thuyên (bây giờ, dẫu đã teo tóp ở tuổi 55 do gánh gia đình quá nặng, chị hát vẫn rất nền(1). Chị chuyên đóng vai nữ lệch(2). Hôm nào đi tập chị cũng đi muộn nhất. Có lần ra đến sân kho, quần còn vo quá gối. [...]
Chị Thuyên nghèo lắm. Năm ngoài hai mươi, chị đã ba con. Vợ chồng tất bật, lam lũ. Những lúc vất vả quá, chị hay thở dài, bảo tôi:
– Em này, ước gì mà cuộc đời nó cũng như là... chiếu chèo ấy nhỉ?
Tôi chỉ biết ngẩn ngơ. Vâng! Ước gì... Bao nhiêu là nhân tình thế thái. Bao nhiêu là số phận đã diễn ra trên những chiếu chèo quê tôi... Ở đó, người nghèo khổ được gặp Tiên, gặp Phật. Cô gái mò cua trở thành hoàng hậu, còn chàng trai nghèo dắt mẹ đi ăn mày thì đỗ trạng nguyên. Ở đó ân oán phân minh, nghĩa tình trọn vẹn... [...]
Vùng tôi là quê hương của những “chiếng”(3) chèo Nam. Thời trước, mỗi tỉnh có một hay nhiều “chiếng” chèo riêng: “Chiếng” chèo Đông của Hải Dương, “chiếng” chèo Đoài của Sơn Tây, “chiếng” chèo Bắc của Bắc Ninh. Mỗi “chiếng” có sở trường riêng, có những “ngón nghề” riêng, người sành chèo chỉ cần nhìn qua lối diễn là có thể gọi ngay ra được tên “chiếng”. Diễn viên bình thường chỉ diễn được trong “chiếng” của mình. Những người nhập vào “chiếng” nào cũng diễn được, lại diễn hay, được gọi là “nghệ nhân Tứ “Chiếng”. Số nghệ nhân đó thật hiếm hoi. Ở những “chiếng” chèo Nam, cho đến giờ, người ta vẫn kể chuyện về cô đào Đào Sương Nguyệt. Cô nhập vào “chiếng” nào là “chiếng” đó khởi sắc hẳn lên. Đào Nguyệt nổi danh với những vai “nữ chính” Thị Kính, Thị Phương,... và còn nổi danh với cả vai... Trương Phi trong tuồng Bắc. [...]
Nhưng rồi về sau, chẳng ai biết kết cục của cô đào tài danh ấy ra sao? Vốn là người mê chèo, từ ngày trở thành một nhà báo chuyên nghiệp, tôi đã cố công đi tìm tung tích cô, nhưng tôi đã hoài công... Tên của cô chỉ còn lưu lại trong kí ức của những nghệ nhân dân gian lớp trước...
Chèo, đó chính là đặc trưng cho tính cách tâm hồn của người quê tôi. Những làn điệu, những vai chèo bất chấp mọi biển thiên, thăng trầm của xã hội, vẫn cứ màu mỡ, cứ xanh tươi như đồng đất Thái Bình.
(Vũ Hữu Sự, Một thoáng chèo quê tôi, in trong tập phóng sự Muôn mặt đời thường (Nhiều tác giả), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2001, tr. 109 – 116)
(1) Nền: chỉ tiếng đệm được xử lí tinh tế, tạo mặt bằng giai điệu nhằm tôn lên lời chính của hát chèo.
(2) Nữ lệch (hay đào lệch): chỉ nhân vật nữ táo bạo, dám phá bỏ mọi ràng buộc của lễ giáo phong kiến đi tìm tự do yêu đương.
(3) Chiếng: chỉ những phường chèo hoạt động trong một vùng văn hóa nhất định.
Văn bản trên viết về đề tài gì?
Câu hỏi trong đề: 30 Ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 phần Kí !!
Quảng cáo
Trả lời:
Văn bản viết về đề tài nghệ thuật sân khấu truyền thống (chèo) của dân tộc.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Xác định hai dấu hiệu đặc trưng của thể ký thể hiện trong đoạn trích “Một thoáng chèo quê tôi”.
Đoạn trích mang đặc điểm của ký:
(1) Tính phi hư cấu – kể lại kỉ niệm, sự kiện, nhân vật có thật (làng quê, đội chèo, nghệ nhân, chị Thuyên…);
(2) Sự kết hợp giữa ghi chép sự kiện và cảm xúc cá nhân, gợi tình yêu quê hương, nghệ thuật chèo.
Câu 3:
Văn bản có sự kết hợp của những phương thức biểu đạt chủ yếu nào?
Văn bản có sự kết hợp của các phương thức biểu đạt chủ yếu: tự sự, miêu tả, biểu cảm.
Câu 4:
Chỉ ra một chi tiết trong đoạn trích thể hiện rõ phong cách ghi chép sự kiện chân thực của thể ký.
Chi tiết “Cơm tối xong, tiếng trống vừa nổi lên cùng với điệu ‘vỡ nước’ náo nức, là chúng tôi ùa ra sân hợp tác. Già trẻ, gái trai đã vây kín thành vòng tròn quanh các diễn viên” cho thấy cảnh sinh hoạt làng quê được ghi chép trung thực, cụ thể.
Câu 5:
Trong đoạn trích, hình ảnh chị Thuyên có ý nghĩa gì?
Chị Thuyên là biểu tượng của người phụ nữ nông dân nghèo khổ nhưng say mê nghệ thuật chèo. Qua hình ảnh chị, tác giả vừa phản ánh đời sống lam lũ, vừa bày tỏ niềm trân trọng đối với tình yêu nghệ thuật của người dân quê.
Câu 6:
Phân tích tác dụng của chi tiết đối thoại: “– Em này, ước gì mà cuộc đời nó cũng như là... chiếu chèo ấy nhỉ?”
Lời tâm sự mộc mạc thể hiện khát vọng công bằng, ước mong cuộc đời tươi sáng hơn. Đồng thời, nó nhấn mạnh sức mạnh nhân văn của nghệ thuật chèo – nơi cái thiện chiến thắng, ân oán phân minh.
Câu 7:
Chỉ ra và nêu tác dụng của những câu văn miêu tả trong văn bản.
– Có thể dẫn ra một số câu văn miêu tả trong văn bản như:
+ Cơm tối xong, tiếng trống vừa nổi lên cùng với điệu “vỡ nước” nao nức, là chúng tôi ùa ra sân hợp tác. Già trẻ, gái trai đã vây kin thành vòng tròn quanh các diễn viên (toàn là người làng cá).
+ Ông chủ nhiệm hợp tác xã chĩnh chện trên chiếc ghế đẩu, chân kẹp trống, tay lăm lăm dùi.
+ Diễn viên lúc ấy có người mới tất tả chạy ra, mặt còn đỏ lựng vì đun mải cho xong nồi cám lợn.
– Những câu văn trên nhằm khắc họa và tái hiện một cách sống động, hình ảnh về những đêm hát chèo của làng quê trước đây.
Câu 8:
Hãy chỉ ra một biểu hiện của chất trữ tình trong đoạn trích.
Chất trữ tình thể hiện ở cảm xúc bồi hồi, man mác của tác giả khi nhớ về chiếu chèo xưa: “Bao nhiêu là nhân tình thế thái. Bao nhiêu là số phận đã diễn ra trên những chiếu chèo quê tôi...”. Đây không chỉ là hồi ức, mà còn là rung động tâm hồn.
Câu 9:
Hình ảnh các “chiếng chèo” trong đoạn trích gợi cho em suy nghĩ gì về nghệ thuật dân gian?
Các “chiếng chèo” thể hiện sự phong phú, đa dạng, bản sắc vùng miền của nghệ thuật dân gian. Chúng minh chứng cho sức sống bền bỉ, sáng tạo và niềm tự hào văn hóa của cộng đồng làng xã.
Câu 10:
Phân tích tác dụng của yếu tố phi hư cấu trong văn bản trên.
– Những yếu tố phi hư cấu của văn bản là sự việc, con người, địa danh, thời gian, không gian, số liệu,... Ví dụ: những buổi tối tập hát chèo ở làng quê của tỉnh Thái Bình; tên các nhà viết chèo nổi tiếng Trần Huyền Trân, Lưu Quang Thuận, Bùi Đức Hạnh; diễn viên là ông chủ nhiệm hợp tác xã và các xã viên; những chiếng chèo riêng của mỗi vùng quê,...
– Tác dụng của những yêu tô phi hư câu nhằm cung cấp những cứ liệu xác thực cụ thể để có sức thuyết phục và giúp người đọc hình dung đầy đủ về nghệ thuật chèo truyền thống từng phát triển rực rỡ, gắn bó máu thịt với mỗi người dân ở làng quê, nhưng giờ đây chỉ còn “vang bóng một thời”.
Câu 11:
Chỉ ra giá trị nhân văn nổi bật của đoạn trích.
Đoạn trích ca ngợi tình yêu nghệ thuật trong đời sống nhân dân, khẳng định sức mạnh bền vững của văn hóa dân gian, đồng thời gửi gắm khát vọng về cuộc sống công bằng, tươi đẹp hơn.
Câu 12:
Qua đoạn trích, em nhận xét thế nào về vai trò của nghệ thuật chèo trong đời sống tinh thần của người dân quê tác giả?
Chèo không chỉ là hình thức giải trí, mà còn là chỗ dựa tinh thần, nơi gửi gắm khát vọng, niềm tin và tình cảm. Nó trở thành biểu tượng cho tâm hồn người dân quê: hồn hậu, nhân ái, giàu ước mơ.
Hot: 1000+ Đề thi giữa kì 1 file word cấu trúc mới 2025 Toán, Văn, Anh... lớp 1-12 (chỉ từ 60k). Tải ngay
- Sổ tay Ngữ Văn 12 (chương trình mới) ( 18.000₫ )
- 30 đề thi tốt nghiệp môn Ngữ Văn (có đáp án chi tiết) ( 38.000₫ )
- Sổ tay lớp 12 các môn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa, KTPL (chương trình mới) ( 36.000₫ )
- Tuyển tập 30 đề thi đánh giá năng lực Đại học Quốc gia Hà Nội, TP Hồ Chí Minh (2 cuốn) ( 150.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: làm rõ vẻ đẹp của nghệ thuật chèo và tình yêu quê hương tha thiết của tác giả.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Vũ Hữu Sự và tác phẩm.
- Khẳng định: đoạn trích vừa ghi chép sự thật, vừa thấm đẫm tình yêu quê hương và nghệ thuật dân gian.
* Thân bài:
1. Vẻ đẹp nghệ thuật chèo qua đoạn trích:
- Chèo gắn liền với đời sống làng quê (cảnh tập chèo, người xem, diễn viên).
- Chèo phản ánh nhân tình thế thái, đề cao công lý, tình nghĩa → sức mạnh nhân văn.
- Hình ảnh các “chiếng chèo”, nghệ nhân tài hoa cho thấy sự phong phú, độc đáo.
2. Tình yêu quê hương của tác giả:
- Tình cảm trân trọng dành cho những con người bình dị (chị Thuyên, nghệ nhân dân gian).
- Sự tiếc nuối, hoài niệm khi nghệ thuật truyền thống dần mai một.
- Cái nhìn tự hào: “Chèo, đó chính là đặc trưng cho tính cách tâm hồn của người quê tôi”.
3. Nghệ thuật thể hiện:
- Đặc trưng thể ký: ghi chép sự kiện thực, kết hợp cảm xúc, hồi ức.
- Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giọng điệu trữ tình, gợi nhớ gợi thương.
* Kết bài:
-Khẳng định: Đoạn trích vừa là tư liệu văn hóa quý, vừa là bản tình ca tha thiết về quê hương và nghệ thuật chèo.
- Liên hệ: nhắc nhở thế hệ hôm nay biết trân trọng và giữ gìn di sản dân gian.
Bài văn tham khảo
Trong kho tàng ký sự viết về văn hóa dân gian, “Một thoáng chèo quê tôi” của Vũ Hữu Sự là một tác phẩm đặc sắc. Bằng những hồi ức chân thực và cảm xúc tha thiết, tác giả đã dựng lại bức tranh nghệ thuật chèo gắn bó mật thiết với đời sống người dân quê, đồng thời bộc lộ tình yêu sâu nặng với quê hương và truyền thống.
Trước hết, đoạn trích cho thấy vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật chèo. Chèo hiện lên không phải trong ánh đèn sân khấu lộng lẫy, mà giữa sân hợp tác xã, dưới ánh trăng hay đèn “hoa kì”. Người xem là toàn thể dân làng, diễn viên là nông dân lam lũ, vừa đun cám cho lợn vừa vội chạy ra chiếu diễn. Chính sự gắn bó ấy đã làm nên sức sống đặc biệt: chèo trở thành một phần của đời sống, của nhịp thở quê hương. Trên chiếu chèo, mọi phận đời đều được phản ánh: kẻ nghèo khổ có thể thành công, ân oán được phân minh, nghĩa tình trọn vẹn. Nghệ thuật ấy không chỉ giải trí mà còn gieo niềm tin vào công lý, cái thiện, giá trị nhân văn sâu xa. Đoạn trích còn tái hiện sự phong phú của các “chiếng chèo” Đông, Đoài, Bắc, Nam – mỗi nơi có sở trường, ngón nghề riêng, minh chứng cho sự đa dạng và sáng tạo của nghệ thuật dân gian.
Không chỉ miêu tả chèo, tác giả còn bày tỏ tình yêu quê hương tha thiết. Qua nhân vật chị Thuyên, hình ảnh người phụ nữ nghèo lam lũ mà say mê nghệ thuật, tác giả đã gửi gắm sự trân trọng với những con người bình dị. Nỗi tiếc nuối về tài danh Đào Sương Nguyệt thất lạc trong dòng đời càng gợi nỗi xót xa khi giá trị truyền thống dần bị lãng quên. Và sau tất cả, Vũ Hữu Sự khẳng định: “Chèo, đó chính là đặc trưng cho tính cách tâm hồn của người quê tôi”. Đó là lời tự hào của một người con gắn bó máu thịt với quê hương, cũng là thông điệp gửi đến thế hệ sau: hãy biết trân trọng di sản cha ông.
Đoạn trích thành công nhờ bút pháp ký đặc sắc. Tác giả vừa ghi chép sự kiện, nhân vật, vừa để cảm xúc tuôn trào. Hồi ức cá nhân hòa cùng tư liệu văn hóa tạo nên một văn bản vừa chân thực, vừa trữ tình. Giọng văn giản dị mà giàu sức gợi, làm sống dậy không khí một thời và khơi dậy trong lòng người đọc niềm thương nhớ, tự hào.
Tóm lại, “Một thoáng chèo quê tôi” không chỉ là một thiên ký sự về nghệ thuật dân gian, mà còn là bản tình ca thấm đượm tình yêu quê hương. Tác phẩm giúp ta hiểu rằng, văn hóa truyền thống chính là cội nguồn nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc. Đọc đoạn trích, mỗi chúng ta càng thêm tự hào, đồng thời thấy rõ trách nhiệm giữ gìn, tiếp nối những giá trị quý báu ấy cho hôm nay và mai sau.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: ý nghĩa của chi tiết chị Thuyên ước: “Ước gì mà cuộc đời nó cũng như là... chiếu chèo ấy nhỉ?” trong Một thoáng chèo quê tôi.
- Hệ thống ý
+ Giới thiệu ngắn gọn đoạn trích, nhân vật chị Thuyên.
+ Ý nghĩa chi tiết: phản ánh đời sống vất vả, khát vọng công bằng.
+ Thể hiện giá trị nhân văn của nghệ thuật chèo.
+ Tình cảm trân trọng của tác giả với người dân quê.
+ Kết đoạn: khẳng định sức sống của ước mơ trong đời thường.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Phân tích rõ ý nghĩa của chi tiết chị Thuyên ước: “Ước gì mà cuộc đời nó cũng như là... chiếu chèo ấy nhỉ?” trong văn bản.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Trong đoạn trích “Một thoáng chèo quê tôi”, chi tiết chị Thuyên thở dài “Ước gì mà cuộc đời nó cũng như là... chiếu chèo ấy nhỉ?” đã để lại ấn tượng sâu sắc. Đây là lời tâm sự giản dị nhưng chất chứa cả một nỗi niềm. Chị Thuyên là người phụ nữ nghèo, vất vả vì gánh nặng mưu sinh, nhưng vẫn tha thiết với nghệ thuật. Trong chiếu chèo, người nghèo khổ có thể gặp Tiên, gặp Phật, cô gái mò cua hóa hoàng hậu, chàng trai nghèo đỗ trạng nguyên… Ở đó, công lý được thực thi, cái thiện được tôn vinh. Vì thế, ước mơ của chị chính là khát vọng một cuộc sống công bằng, nhân văn, điều mà hiện thực đời thường chưa thể mang lại. Lời nói ấy cũng khẳng định sức mạnh của nghệ thuật chèo: không chỉ giải trí mà còn nuôi dưỡng hi vọng, nâng đỡ tinh thần con người. Qua chi tiết này, ta càng thêm trân trọng những con người lam lũ nhưng giàu mơ ước, đồng thời cảm nhận được tình yêu tha thiết của tác giả dành cho quê hương và văn hóa dân gian. Ước mơ nhỏ bé ấy chính là ánh sáng nhân văn làm ấm lòng người đọc hôm nay.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.