Từ văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo được Nguyễn Du thể hiện trong đoạn trích trên.
Từ văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo được Nguyễn Du thể hiện trong đoạn trích trên.
Quảng cáo
Trả lời:
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo được Nguyễn Du thể hiện trong đoạn trích.
- Hệ thống ý:
+ Giá trị hiện thực:
• Số phận đầy nghiệt ngã của người phụ nữ khi bị bán vào lầu xanh, không thể quyết định được số phận của mình
• Xã hội trọng nam khinh nữ, người phụ nữ bị bán rẻ, coi khinh và chỉ là thú vui cho những tay làng chơi chà đạp
+ Giá trị nhân đạo:
• Thương cảm, xót xa cho số phận của Thúy Kiều
• Trân trọng vẻ đẹp đức hạnh của nàng (vẫn luôn hiếu thảo, chung tình và hướng về gia đình)
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Phân tích rõ giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo được Nguyễn Du thể hiện trong đoạn trích.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Đoạn trích “Những nỗi lòng tê tái” đã thể hiện sâu sắc cả giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của Truyện Kiều, qua đó cho thấy tấm lòng nhân ái và tài năng của Nguyễn Du. Trước hết, đoạn thơ phản ánh chân thực thực trạng xã hội phong kiến bất công và tàn nhẫn, nơi người phụ nữ bị coi rẻ, chà đạp, không có quyền định đoạt cuộc đời mình. Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn, hiếu thảo và giàu đức hạnh – phải rơi vào cảnh “lầu xanh mới rủ trướng đào”, trở thành món hàng mua vui cho những “bướm lả ong lơi”. Nguyễn Du đã phơi bày một xã hội trọng nam khinh nữ, vô nhân đạo, nơi đồng tiền và dục vọng dẫm đạp lên nhân phẩm con người. Tuy vậy, trong nỗi ê chề tủi nhục, Kiều vẫn hiện lên với tâm hồn trong sáng, đầy tự ý thức và biết đau nỗi đau của chính mình: “Giật mình, mình lại thương mình xót xa”. Đó là tiếng khóc cho thân phận, đồng thời là lời tố cáo xã hội đày đọa con người. Qua những vần thơ chan chứa cảm thương, Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng nhân đạo sâu sắc: xót thương cho số phận bị tổn thương, trân trọng phẩm giá và khát vọng sống lương thiện của người phụ nữ. Chính tình thương ấy đã làm nên vẻ đẹp vĩnh hằng của Truyện Kiều và nhân cách nhân đạo của Nguyễn Du.
Hot: 1000+ Đề thi cuối kì 1 file word cấu trúc mới 2025 Toán, Văn, Anh... lớp 1-12 (chỉ từ 60k). Tải ngay
- Trọng tâm Sử, Địa, GD KTPL 11 cho cả 3 bộ Kết nối, Chân trời, Cánh diều VietJack - Sách 2025 ( 38.000₫ )
- Trọng tâm Hóa học 11 dùng cho cả 3 bộ sách Kết nối, Cánh diều, Chân trời sáng tạo VietJack - Sách 2025 ( 58.000₫ )
- Sách lớp 11 - Trọng tâm Toán, Lý, Hóa, Sử, Địa lớp 11 3 bộ sách KNTT, CTST, CD VietJack ( 52.000₫ )
- Sách lớp 10 - Combo Trọng tâm Toán, Văn, Anh và Lí, Hóa, Sinh cho cả 3 bộ KNTT, CD, CTST VietJack ( 75.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích, đánh giá đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Những nỗi lòng tê tái trên.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Phân tích, đánh giá đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Những nỗi lòng tê tái trên.
* Thân bài: - Sau đây là một hướng gợi ý (Tham khảo bài viết của GS.TS Trần Đình Sử)
1. Hoàn cảnh, không khí nơi Kiều bị bán gả vào lầu xanh:
- Kiều là một cô gái đẹp, cho nên ngày tiếp khách của nàng trở thành ngày hội của lầu xanh đối với mọi khách làng chơi:
Lầu xanh mới rủ trướng đào,
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.
Một không khí thật là náo nhiệt, ồn ào, bận rộn, đúng như một cảnh làm ăn rất thịnh vượng nơi thị thành. Nhưng đó chỉ là bề ngoài, nó hoàn toàn tương phản với những nỗi lòng tê tái của nhân vật. Nguyễn Du rất biết khai thác các tương phản để miêu tả nỗi lòng, biết phân tích sự khác biệt bề ngoài và bề trong. Phải hiểu cái bề trong tâm hồn mới hiểu được phẩm giá của Kiều.
Cả đoạn thơ này tác giả không miêu tả cảm xúc của Thúy Kiều trong một thời điểm nào, một buổi nào, một ngày nào, mà miêu tả một tâm trạng triền miên trong chuỗi ngày tiếp khách. Ngày tháng chỉ là một sự chồng chất và kéo dài. Nỗi lòng Kiều hiện lên những lúc vắng vẻ, khi xong việc tự đối diện với chính mình. Đó là nỗi đau thầm kín đằng sau các hoạt động tiếp khách. Ở đây sự miêu tả kết hợp với thuật theo bút pháp tự (kể) tình. Tác giả lần lượt kể và tả những nỗi lòng tê tái.
2. Diễn biến tâm trạng của Kiều
- Thứ nhất là nỗi thương thân, xót thân, tiếc thân
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?
Mặc người mưa Sở, mây Tần,
Riêng mình nào biết có xuân là gì?
Hai tiếng “giật mình” rất hay, nó nói lên cái thần của con người những lúc ngẫm lại những thay đổi quá lớn. Ba chữ “mình” trong một câu nói lên sự cùng cực cô đơn: mụ chủ chỉ biết tiền, khách chơi chỉ biết sắc, ai biết cho một con người tan nát ?! Nổi lên trên hết là sự nuối tiếc một phẩm giá bị giày xéo. Hình ảnh “phong gấm rủ là” nói lên hình ảnh của tấm thân vàng ngọc, được khoác áo gấm, rủ bức là, tức tấm thân bọc trong nhung lụa, quý báu, thế mà nay như hoa giữa đường, ai qua lại cũng xéo lên tàn nhẫn!
- Thứ hai là ghê tởm chính bản thân mình: con người khuê các vốn kín đáo, e thẹn, nay đã thành “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường”. “Bướm chán ong chường” không phải là nói khách chơi chán chường Kiều, mà nói chính Kiều chán chường bản thân mình, sao lại trở thành con người tiếp khách trơ trẽn, vô liêm sỉ như thế được? Từ đây Kiều chỉ sống như một món hàng, một thứ đồ chơi, không sống như một con người nữa. Nhiều sách chép câu “Riêng mình nào biết có xuân là gì” thành “Những mình nào biết có xuân là gì”. Chữ “những” có lẽ đúng hơn, hợp hơn. Đó là “những như mình”, như loại mình… bao hàm cái ý chán mình ở trong ấy.
- Thứ ba là nỗi buồn và bẽ bàng:
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu.
Cảnh quả là rất nên thơ, mà lòng nàng ủ dột:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa.
Cảnh quả là vui thú, tao nhã, phong lưu, nhưng đối với Kiều chỉ là vui gượng : “Ai tri âm đó, mặn mà với ai” ? Đó chẳng qua là các trò chơi để giết thì giờ, không mảy may ý nghĩa.
- Thứ tư là sự cô đơn, đau đớn một mình:
Thờ ơ gió trúc mưa mai,
Ngẩn ngơ trăm nỗi, dùi mài một thân.
Những nỗi lòng thương thân, xót thân, chán mình, buồn khổ cô đơn, vui gượng gạo như thế đã chứng tỏ mạnh mẽ Kiều là một con người có phẩm giá, không phải người tà dâm, lấy việc tiếp khách làm vui.
- Nhưng Kiều không chỉ đau cho mình. Nàng đau đớn thương xót người thân. Nàng là người con có hiếu, có nghĩa, có tình, cho nên:
Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau!
Trước hết là nàng nhớ cha mẹ ngày một già, thương cha mẹ không có người chăm nom. Nhưng thương nhất là câu này :
Dặm nghìn nước thẳm non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.
Cha mẹ bao giờ cũng mong con hạnh phúc, gửi gắm hy vọng vào con, thế mà thân phận con đã thay đổi ô nhục, cha mẹ xa xôi không biết mà đau lòng !
- Thứ hai là thương người tình và mong em gái thay mình lấy chàng:
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
- Cuối cùng là nỗi lòng nhớ về quê hương của người con lưu lạc:
Mối tình đòi đoạn vò tơ,
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài.
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.
Nhà thơ đã hai lần nhắc đến từ “đòi đoạn” – nỗi đau tan nát. Có lẽ nói những nỗi lòng tan nát hợp hơn là những nỗi lòng tê tái chăng ? Trong nỗi lòng Kiều, nổi lên tình cảm đau đớn vì tha hương lưu lạc và cảm giác thời gian kéo dài nặng nề vô nghĩa.
- Cuối cùng, kết thúc đoạn thơ này là một tình cảm đay nghiến số phận, oán trách số phận, bề ngoài có vẻ cam chịu, mà bên trong là một sự lên án bất công của tạo hóa :
Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân.
Đã đày vào kiếp phong trần,
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!
Sao lại có cái thứ cân bằng lạ lùng như vậy? Sao lại phải chịu sỉ nhục một lần như vậy? Đó chẳng phải là sự bất công vô lý của tạo hóa, của số phận hay sao?
Đoạn thơ này độc đáo nhất là việc sử dụng ngôn ngữ trong miêu tả. Nhà thơ đã dùng nhiều phép sóng đôi, nhiều tiểu đối để miêu tả thời gian kéo dài và sự việc lặp lại: cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm, sớm đưa, tối tìm, khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, khi sao, giờ sao, đòi phen, đòi phen… Hay nhất là câu :
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
Hết hoàng hôn này lại tiếp đến hoàng hôn khác. Chữ “đã” nói lên rằng ngày tháng của Kiều chỉ là hoàng hôn nối tiếp hoàng hôn, cơ hồ không có ban ngày. Một sự thay đổi nhỏ, “hoàng hôn” thành “hôn hoàng”, có vẻ như là khác, nhưng thực ra là giống hệt nhau! Một chuỗi dài của những ban đêm!
3. Nghệ thuật đặc sắc
- Sử dụng từ ngữ:
• Để miêu tả những cảnh tầm thường, dung tục, tác giả chỉ gợi qua các cụm từ được cấu tạo đặc biệt:
+ bướm lả ong lơi
+ lá gió cành chim
+ bướm chán, ong chường
+ mưa Sở, mây Tần
+ gió tựa, hoa kề
Nếu nói ong bướm lả lơi thì có thể chỉ việc xảy ra một lần. Đảo lại thành ra nhiều lần. Bướm chán, ong chường cũng thế. Lá gió cành chim, gió tựa hoa kề đều chỉ các sự trăng gió, nhưng cách nói mới lạ và đa dạng, lại tao nhã.
• Để thể hiện cảm thức lưu lạc nhà thơ cực tả sự xa xôi:
+ Dặm nghìn, nước thẳm, non xa…
+ Xa xôi ai có thấu tình chăng ai.
+ Song sa vò võ phương trời…
Nguyễn Du không chỉ kể, tả mà còn gợi, tạo cảm giác cho người đọc. Đây là đoạn văn tài hoa, tiêu biểu cho nghệ thuật tả tâm trạng của Truyện Kiều.
* Kết bài:
- Khái quát vấn đề nghị luận.
Bài văn tham khảo
Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới – đã để lại cho đời kiệt tác Truyện Kiều, một đỉnh cao của văn học trung đại Việt Nam. Trong thiên truyện ấy, đoạn trích “Những nỗi lòng tê tái” là một trong những phần đặc sắc nhất, miêu tả sâu sắc tâm trạng đau đớn, ê chề của Thúy Kiều sau khi bị đẩy vào chốn lầu xanh. Qua đó, người đọc cảm nhận được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc cùng bút pháp nghệ thuật tài hoa của Nguyễn Du.
Trước hết, đoạn trích mở ra không khí phồn hoa giả tạo nơi lầu xanh – nơi Kiều bị buộc tiếp khách. Những câu thơ đầu miêu tả cảnh náo nhiệt, xô bồ:
“Lầu xanh mới rủ trướng đào,
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.”
Cảnh tiếp khách tấp nập “bướm lả ong lơi”, “cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” khiến nơi lầu xanh như một “ngày hội” của bọn làng chơi. Bề ngoài là sự xa hoa, rộn rã, nhưng ẩn sâu trong đó là một địa ngục tinh thần. Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng nghệ thuật tương phản giữa cảnh náo nhiệt bên ngoài và nỗi tê tái bên trong để làm nổi bật bi kịch của Kiều – thân em bị đày đọa, phẩm giá bị chà đạp. Tác giả không miêu tả trong một khoảnh khắc cụ thể mà dựng nên tâm trạng triền miên, kéo dài trong chuỗi ngày nhục nhã.
Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều được Nguyễn Du khắc họa qua nhiều cung bậc. Trước hết là nỗi thương thân, xót thân:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.”
Ba chữ “mình” liên tiếp diễn tả sự cô đơn cùng cực, khi không ai thấu hiểu, chỉ còn tự thương lấy chính mình. Kiều tiếc cho một kiếp người từng “phong gấm rủ là” nay “tan tác như hoa giữa đường”. Nàng ghê tởm chính thân phận bị vấy bẩn, chán chường trước cảnh “bướm chán, ong chường”. Hình ảnh “hoa giữa đường” – biểu tượng cho sự dập vùi, phũ phàng của số phận – là lời tố cáo xã hội tàn nhẫn đã chôn vùi phẩm giá người phụ nữ.
Nỗi đau trong Kiều không chỉ dừng lại ở thân phận cá nhân mà còn mở rộng thành nỗi nhớ thương gia đình, người yêu, quê hương:
“Dặm nghìn nước thẳm non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.”
Nỗi nhớ nhà, nhớ người thân, cùng cảm giác xa xôi cách trở khiến Kiều thêm vò võ, cô độc. Hai câu thơ “Song sa vò võ phương trời / Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng” gợi cảm giác thời gian triền miên trong mỏi mệt, ngày tháng như chỉ còn là chuỗi hoàng hôn kéo dài vô tận. Cuối đoạn, tiếng oán than bật lên:
“Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân.”
Đó không chỉ là lời than thân mà còn là tiếng nói phản kháng, tố cáo sự bất công của định mệnh và xã hội đã biến “chữ hồng nhan” thành lời nguyền nghiệt ngã.
Về nghệ thuật, Nguyễn Du đã vận dụng bút pháp bậc thầy trong miêu tả nội tâm. Các hình ảnh ước lệ, ẩn dụ như “bướm lả ong lơi”, “lá gió cành chim”, “gió tựa hoa kề”, “mưa Sở mây Tần” vừa gợi cảnh trăng hoa, vừa giữ được sự tế nhị, tao nhã, không dung tục. Việc dùng nhiều phép sóng đôi, tiểu đối (“khi tỉnh rượu, lúc tàn canh”; “đòi phen gió tựa hoa kề”; “nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”) đã diễn tả sự lặp lại tẻ nhạt, triền miên của kiếp sống lầu xanh. Cách vận dụng ngôn ngữ tinh luyện, nhịp thơ linh hoạt, giọng điệu trầm buồn, thấm thía làm nên sức gợi cảm mãnh liệt của đoạn trích.
Tóm lại, “Những nỗi lòng tê tái” là một đoạn thơ đặc sắc bậc nhất của Truyện Kiều, thể hiện sâu sắc nỗi đau thân phận và khát vọng phẩm giá của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm tinh tế và ngôn từ tài hoa, Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng Thúy Kiều – người con gái đẹp, tài hoa nhưng bất hạnh, đồng thời gửi gắm tư tưởng nhân đạo lớn lao: thương người, trân trọng con người và lên án mọi thế lực chà đạp nhân phẩm con người.
Lời giải
Thể thơ: lục bát
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.