Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích, đánh giá chủ đề của bài thơ.
Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích, đánh giá chủ đề của bài thơ.
Quảng cáo
Trả lời:
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích, đánh giá chủ đề của bài thơ.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm: “Sở kiến hành” là bài thơ bằng chữ Hán được tác giả viết về những điều mắt thấy tai nghe trong đợt đi sứ sang Trung Quốc. Bài thơ chứa đựng những giá trị tư tưởng sâu sắc, qua đó cho thấy được tấm lòng nhân đạo cao đẹp của Nguyễn Du.
- Nêu nội dung khái quát cần phân tích, đánh giá: Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng đi vào phân tích, đánh giá chủ đề của bài thơ.
* Thân bài:
1. Xác định chủ đề:
Bài thơ là bức tranh hiện thực của xã hội Trung Quốc: nhân dân đói khổ lầm than trong khi đó bọn quan lại thì sống xa hoa lãng phí. Qua bài thơ, tác giả thể hiện nỗi lòng đồng cảm đối với nhân dân đói khổ, lên án bọn quan lại ăn chơi sa đọa, đồng thời thể hiện sự mong ước về một xã hội tốt đẹp hơn.
2. Phân tích, đánh giá chủ đề:
Bài thơ đã vẽ lên trước mắt người đọc hai hình ảnh đối lập:
2.1. Hình ảnh mẹ con người ăn xin:
- Một gia đình đông người, nheo nhóc: một mẹ cùng ba con, có đứa còn bé phải ẵm bồng.
- Họ đang lâm vào cảnh bi đát: rách rưới, đói khát và có nguy cơ chết đói.
- Tình cảnh ấy khiến người mẹ vô cùng đau xót khi nghĩ đến đàn con của mình: Nỗi đau như xé lòng/ Trời xanh có thấu nổi => Câu thơ vừa là tiếng kêu đứt ruột, vừa là nỗi oán hận với số kiếp, với cuộc đời, cũng là một cách gián tiếp bộc lộ nỗi oán trách đối với chế độ.
2.2. Hình ảnh quan lại:
Trong khi ba mẹ con người ăn xin đang lâm vào cảnh đói rách, cận kề bên cái chết thì cuộc sống của bọn quan lại lại thật thừa mứa, xa hoa, lãng phí:
- Tác giả miêu tả kĩ hình ảnh mâm cỗ: Vây cá hầm gân hươu/ Lợn dê mâm đầy ngút. Một mâm cỗ quá sang trọng với đầy những sơn hào hải vị, đối lập hoàn toàn với những thức ăn của mẹ con người ăn mày: Mớ rau lẫn tấm cám.
- Mâm cỗ ngon lành ấy lại bị các quan lại thờ ơ: Quan lớn không gắp qua/ Các thầy chỉ nếm chút. Cuộc sống của họ quá no đủ, quá dư thừa, nên họ không còn thiết đến những món ăn ấy nữa. Thế nhưng vì tiếp đãi các quan, vì yến tiệc, người ta vẫn phải dọn lên.
- Nhức nhối nhất là hình ảnh những thức ăn ngon lành ấy bị đổ đi, làm thức ăn cho đàn chó. Hình ảnh đàn chó thì no bụng với những sơn hào hải vị, trong khi đó có những con người thì lại đang đói khát, sắp chết đói đến nơi vừa gợi sự đau xót, vừa khiến người đọc oán giận vô cùng.
2.3. Thái độ của tác giả:
- Bằng việc vẽ lên hai hình ảnh cuộc sống đối lập nhau, Nguyễn Du đã bày tỏ thái độ thương cảm, đau xót đối với ba mẹ con người ăn xin nói riêng và những kiếp người cơ cực nói chung; đồng thời tỏ thái độ phê phán, phẫn nộ trước sự vô cảm, tàn nhẫn, xa hoa lãng phí của giai cấp thống trị.
- Qua bài thơ, ta thấy được tấm lòng nhân đạo rộng lớn của Nguyễn Du: ông không chỉ nói về một xã hội cụ thể với những con người cụ thể, mà đó là tấm lòng đối với con người, đối với mọi xã hội nói chung. Ông luôn ước mơ một xã hội tốt đẹp, công bằng, ở đó mọi người đều được no ấm, hạnh phúc.
* Kết bài:
- Khẳng định khái quát những nét đặc sắc về chủ đề của bài thơ: Bài thơ vừa mang giá trị hiện thực, vừa mang giá trị nhân đạo sâu sắc.
- Nêu tác động của tác phẩm đối với bản thân hoặc cảm nghĩ sau khi đọc, thưởng thức bài thơ: Bài thơ không chỉ cho ta hiểu hơn về xã hội phong kiến Trung Quốc đương thời, mà còn giúp ta thấy được tấm lòng nhân ái bao la của Nguyễn Du, con người có “con mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt ngàn năm”.
Bài viết tham khảo
Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc, không chỉ là tác giả của Truyện Kiều mà còn là người để lại nhiều tác phẩm chữ Hán mang giá trị nhân văn sâu sắc. Sở kiến hành là một trong những bài thơ tiêu biểu được ông sáng tác trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc. Từ những điều “sở kiến” – tức là tận mắt chứng kiến, Nguyễn Du đã ghi lại bằng thơ một bức tranh hiện thực đầy đối lập giữa người nghèo đói khổ và bọn quan lại xa hoa, qua đó thể hiện sâu sắc tấm lòng nhân đạo và tinh thần phê phán xã hội bất công của ông.
Bài thơ khắc họa hai hình ảnh đối lập: một bên là người mẹ cùng ba đứa con ăn xin bên đường, và bên kia là cảnh yến tiệc xa hoa của bọn quan lại. Cảnh nghèo đói của mẹ con người ăn xin hiện lên thật thảm thương: “một mẹ cùng ba con”, “đứa bé ôm trong lòng”, “mớ rau lẫn tấm cám”, “nửa ngày bụng vẫn không”. Từng chi tiết nhỏ bé đều gợi nên nỗi cơ cực đến cùng cực, không chỉ đói ăn mà còn đói cả niềm tin sống. Nguyễn Du đau xót trước cảnh “mẹ chết có tiếc gì, thương đàn con vô tội”, thấu hiểu nỗi tuyệt vọng của người mẹ nghèo khi chứng kiến các con mình sắp chết đói. Câu thơ “Trời cao có thấu nổi” là tiếng kêu thương đến xé lòng, cũng là lời tố cáo sự thờ ơ, tàn nhẫn của xã hội phong kiến đối với những kiếp người dưới đáy.
Đối lập với cảnh đói khổ ấy là cảnh ăn uống xa hoa, phung phí của bọn quan lại: “mâm cổ sang vô kể”, “vây cá hầm gân hươu, lợn dê mâm đầy ngút”. Những hình ảnh ấy gợi nên một thế giới khác hẳn – thế giới của sự dư thừa, của kẻ thống trị vô cảm. Thậm chí, “quan lớn không gắp qua, các thầy chỉ nếm chút”, và “thức ăn thừa đổ đi quanh xóm no đàn chó”. Cảnh tượng ấy đầy nghịch lý và phi nhân tính: con người thì đói đến chết, trong khi chó lại no nê vì đồ ăn thừa của quan lại. Sự đối lập ấy đã khiến bài thơ trở thành một bản cáo trạng đanh thép lên án chế độ phong kiến mục ruỗng và vô đạo.
Từ hai hình ảnh đối lập, Nguyễn Du bộc lộ rõ thái độ của mình: đau xót, xót thương cho những phận người khốn cùng, đồng thời phẫn nộ trước thói xa hoa, vô cảm của tầng lớp thống trị. Bài thơ không chỉ phản ánh hiện thực xã hội Trung Quốc mà còn gián tiếp phản ánh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ – nơi người dân thấp cổ bé họng cũng chịu cảnh lầm than tương tự. Ẩn sau từng vần thơ là tấm lòng nhân đạo bao la của Nguyễn Du – người luôn trăn trở với nỗi khổ của nhân sinh, với “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Sở kiến hành là một bài thơ giàu giá trị hiện thực và nhân đạo. Nó không chỉ phơi bày bộ mặt thật của xã hội phong kiến thối nát mà còn thể hiện tấm lòng yêu thương con người sâu sắc của Nguyễn Du – một tấm lòng vượt thời đại, luôn hướng về sự công bằng và nhân ái. Đọc bài thơ, ta càng thấm thía hơn giá trị nhân văn trong thơ Nguyễn Du, càng thấy trân trọng người nghệ sĩ có “con mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn năm”.
Hot: 1000+ Đề thi cuối kì 1 file word cấu trúc mới 2025 Toán, Văn, Anh... lớp 1-12 (chỉ từ 60k). Tải ngay
- Trọng tâm Sử, Địa, GD KTPL 11 cho cả 3 bộ Kết nối, Chân trời, Cánh diều VietJack - Sách 2025 ( 38.000₫ )
- Trọng tâm Hóa học 11 dùng cho cả 3 bộ sách Kết nối, Cánh diều, Chân trời sáng tạo VietJack - Sách 2025 ( 58.000₫ )
- Sách lớp 11 - Trọng tâm Toán, Lý, Hóa, Sử, Địa lớp 11 3 bộ sách KNTT, CTST, CD VietJack ( 52.000₫ )
- Sách lớp 10 - Combo Trọng tâm Toán, Văn, Anh và Lí, Hóa, Sinh cho cả 3 bộ KNTT, CD, CTST VietJack ( 75.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ Nhận xét về tấm lòng nhân đạo của tác giả được thể hiện qua bài thơ.
- Hệ thống ý: Tấm lòng nhân đạo của tác giả được thể hiện qua bài thơ:
+ Đồng cảm, xót thương với những phận đời cơ cực
+ Lên án giai cấp thống trị sống xa hoa, lãng phí
+ Mong ước về một xã hội công bằng, tốt đẹp
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Thể hiện rõ suy nghĩ, nhận xét về tấm lòng nhân đạo của tác giả được thể hiện qua bài thơ.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Bài thơ Sở kiến hành của Nguyễn Du thể hiện sâu sắc tấm lòng nhân đạo cao cả của một người nghệ sĩ luôn hướng về con người, đặc biệt là những thân phận nhỏ bé, khổ đau trong xã hội cũ. Tác giả xót thương cho người mẹ cùng ba đứa con “lê la bên đường”, đói khát, rách rưới, sống lay lắt trong cảnh cùng quẫn. Nỗi đau ấy không chỉ là nỗi đau thể xác mà còn là bi kịch của những kiếp người bị bỏ rơi, không nơi nương tựa. Nguyễn Du không chỉ cảm thương mà còn căm phẫn, lên án gay gắt cảnh sống xa hoa, phung phí của tầng lớp quan lại – những kẻ “vây cá hầm gân hươu”, “thức ăn thừa đổ đi quanh xóm no đàn chó”, trong khi dân nghèo phải chết đói bên đường. Qua đó, ta thấy rõ cái nhìn đầy nhân tình, nhân ái của Nguyễn Du – ông đau cùng nỗi đau của người dân và khao khát một xã hội công bằng, nơi con người được sống no ấm, nhân ái hơn. Tấm lòng nhân đạo ấy vừa là tiếng khóc, vừa là lời cảnh tỉnh sâu sắc cho thời đại, khiến Sở kiến hành trở thành một minh chứng tiêu biểu cho tư tưởng “thương người như thể thương thân” trong văn học trung đại Việt Nam.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.