Câu hỏi:
19/05/2022 2931. Nhận thấy thị trường đang vắng bóng các sản phẩm chế biến từ nấm, nhà cung ứng nấm tươi Công ty TNHH hai thành viên Thực phẩm lý tưởng Việt Nam đã kết hợp với Viện Công nghệ sinh học và Công nghệ thực phẩm (ĐH Bách Khoa Hà Nội) nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ chế biến nấm trên quy mô công nghiệp. Trong vòng 18 tháng, họ đã đưa ra thị trường 4 sản phẩm mới và chuẩn bị ra mắt sản phẩm thứ 5.
2. Vốn là doanh nghiệp sản xuất và phân phối nấm từ năm 2012, hiện nay công ty đã định vị được thương hiệu “Nấm lý tưởng” trong lòng người tiêu dùng, cũng như chiếm lĩnh thị phần không nhỏ trong hệ thống siêu thị ở miền Bắc và toàn quốc. Suốt một thời gian dài, họ kinh doanh các mặt hàng nấm tươi. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng sớm nhận ra những hạn chế bởi vòng đời sản phẩm khá ngắn và tính ổn định không cao. Vào thời điểm thu hoạch rộ, lượng nấm tạo ra có thể lên tới hàng chục tấn, nếu không được tiêu thụ hết trong vài ngày sẽ gây ra lãng phí khổng lồ. Trên thực tế, công ty đã vấp phải những lần nguồn cung bị dư thừa đến mức cần cấp đông khẩn cấp chờ xử lý.
3. “Chính vì vậy, chúng tôi muốn mở rộng sang hướng chế biến lấy nấm làm nguyên liệu chính để tạo ra các sản phẩm sơ chế hoặc ăn liền nhằm khai thác triệt để giá trị của nấm”, chị Vũ Hoài Thu, Giám đốc Công ty TNHH hai thành viên Thực phẩm lý tưởng Việt Nam chia sẻ.
4. Thị trường lúc đó hầu như chưa có các sản phẩm nấm chế biến kể cả từ doanh nghiệp trong nước hay nước ngoài. Nấm ăn lại được xem là sản phẩm giàu dinh dưỡng và hứa hẹn trở thành xu hướng tiêu dùng xanh cho tương lai. Mặc dù có thể nhìn thấy tiềm năng kinh doanh, những người đứng đầu công ty biết rằng họ không đủ kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực chế biến. Do vậy họ chủ động liên hệ với các chuyên gia ẩm thực và đầu bếp chuyên nghiệp để tìm cách biến nấm tươi thành thực phẩm ăn liền.
5. Những thử nghiệm đầu tiên bao gồm giò và pate được làm từ nhiều loại nấm. Mỗi công thức đưa ra đều được ban nội bộ của công ty đánh giá cảm quan và tìm cách điều chỉnh thành phần cốt liệu. Tuy nhiên, phần lớn sản phẩm mẫu đều chưa đáp ứng được màu sắc thị hiếu và chỉ có thể bảo quản trong thời gian ngắn 1 tuần, mà theo lời chị Thu là “chưa bán được đã bị quay hồi”. Chị chia sẻ để đưa được hàng vào chuỗi cung ứng hiện tại của đối tác, họ buộc phải đáp ứng tất cả những tiêu chuẩn khắt khe về hình thức lẫn chất lượng.
6. Thông qua giới thiệu, công ty tìm đến Viện Công nghệ sinh học và Công nghệ thực phẩm của trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Tại đây, Giám đốc Trung tâm đào tạo và phát triển sản phẩm thực phẩm TS. Đỗ Thị Yến và các cộng sự đã giúp họ chuẩn hóa công thức sản phẩm để ổn định chất lượng thực phẩm, cũng như kéo dài thời gian bảo quản lên tới một tháng.
7. “Chúng tôi đã dành 6 tháng nghiên cứu và thử nghiệm ở cả phòng thí nghiệm và dây chuyền sản xuất để kéo dài thời gian của sản phẩm. Nhóm nghiên cứu phân lập được 2 loại vi khuẩn và 2 loại nấm men là yếu tố gây hư hỏng chính, từ đó sử dụng các chất ức chế được cho phép ở nồng độ tối thiểu để kiềm chế những loại vi sinh vật này phát triển.” TS. Đỗ Thị Yến chia sẻ.
8. Từ nguồn vốn nhà nước (chiếm khoảng 30%) này, các nhà nghiên cứu thuộc bộ môn Quản lý chất lượng của Viện Công nghệ sinh học và Công nghệ thực phẩm đã có thêm kinh phí cho việc nghiên cứu, phân tích. Họ lập ra các hội đồng đánh giá chuyên sâu, thực hiện những khảo sát quy mô rộng về thị hiếu người tiêu dùng và nhu cầu thị trường, đồng thời phân tích số liệu để quay lại hoàn thiện công thức chế biến cũng như định hướng phát triển kinh doanh cho công ty. Nấm lý tưởng cũng nâng cấp dây chuyền sản xuất của mình nhằm đảm bảo công suất 300kg - 1 tấn nguyên liệu/ngày.
9. Từ giữa năm 2019 đến nay, công ty đã làm thủ tục tự công bố sản phẩm, cho ra mắt 5 dòng sản phẩm mới bao gồm: pate nấm, giò nấm, ruốc nấm, các sản phẩm từ bột nấm (gồm bột canh nấm, bánh đa nem nấm, nem nấm, chả nấm,...) và sắp tới là nấm kim châm ăn liền.
10. “Sau nhiều chuẩn bị và điều chỉnh, chúng tôi đã tự tin hơn rất nhiều trong việc đưa các sản phẩm nấm chế biến lên kệ siêu thị lớn như Big C, Aeon hay BRG. Mặc dù chưa phải là sản phẩm chủ lực nhưng doanh thu phân khúc này đang tăng dần”, giám đốc công ty chia sẻ. Chị cho biết thêm công ty mới được chấp nhận hồ sơ đăng ký chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Theo quy định, doanh nghiệp có thể được hưởng các ưu đãi về thuế và hỗ trợ từ nhà nước nếu doanh thu của việc sản xuất, kinh doanh các sản phẩm công nghệ cao hình thành từ kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ đạt tỷ lệ tối thiểu 30% tổng doanh thu. Chị Thu tin rằng với kế hoạch trước mắt, đến năm sau các sản phẩm chế biến từ nấm sẽ đạt được mục tiêu này.
(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Hoàn thiện công nghệ chế biến nấm ăn quy mô công nghiệp, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 03/12/2020)
Ý nào sau đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?
Sách mới 2k7: Tổng ôn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa…. kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia 2025, đánh giá năng lực (chỉ từ 110k).
Quảng cáo
Trả lời:
Nội dung chính: Hoàn thiện công nghệ sản xuất sản phẩm từ nấm chế biến quy mô công nghiệp.
Đáp án cần chọn là: B
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 2:
1. Năm 2019, GS.TS. Nguyễn Huy Dân và các cộng sự thuộc Viện Khoa học Vật liệu,Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã chế tạo thành công loại hợp kim có khả năng nhớ hình dạng, có nghĩa dù bị uốn cong hay làm xoắn bao nhiêu lần, chỉ cần gặp tác nhân nhiệt độ, hợp kim này trong vài giây sẽ quay trở lại hình dạng thiết kế ban đầu.
2. “Việc chế tạo thành công loại hợp kim nhớ hình hỗ trợ rất nhiều trong lĩnh sinh (chỉnh hình răng, ống đỡ động mạch, neo xương, cảm biến nhiệt), vi điện cơ tự động, nhíp nano, robot) trong nước”, GS Dân nói.
3. Loại vật liệu này được nhóm nghiên cứu trên ba hệ hợp kim khác nhau, gồm hệ hợp kim nitinol (gồm nguyên tố Niken (Ni), Titan (Ti), Đồng (Cu), hệ hợp kim Heusler (gồm (Ni, Co)-Mn- (Ga, Al) và hệ hợp kim entropy cao (Ti-Zr-(Co,HF)-Ni-Cu). Tỉ lệ hợp phần trong mỗi hợp kim đều được nhóm tính toán để phù hợp với mục đích chế tạo. GS Dân cho biết, hệ hợp kim nitinol có tính dẫn điện và độ bền cao nên được sử dụng để gia công cơ khí rất tốt, còn loại hợp kim Heusler có thể ứng dụng trong kỹ thuật làm lạnh.
4. Loại hợp kim nàycó đặc tính "thông minh" như vậy là nhờ sự linh hoạt trong cấu trúc nguyên tử của các thành phần hợp kim. Không giống với hợp kim thông thường, hợp kim nhớ hình có thể tự sắp xếp nguyên tử và tồn tại ở hai dạng khác nhau, cấu trúc tinh thể biến dạng và cấu trúc tinh thể ban đầu. Nhờ vậy, hợp kim vẫn giữ được hình dạng mới cho đến khi được nhắc nhở" trở lại trạng thái nguyên gốc bằng cách cho nhiệt hoặc dòng điện tác động vào.
5. Để tạo ra loại hợp kim này, đầu tiên, nhóm nghiên cứu áp dụng phương pháp luyện kim hồ quang để tạo ra loại hợp kim này ở dạng khối. Để làm vật liệu mỏng và nhỏ hơn, nhóm sử dụng phương pháp phun băng nguội nhanh. Sau đó, phương pháp phun xạ được áp dụng giúp tạo ra vật liệu ở dạng nano. Các cấu trúc của vật liệu được khảo sát bằng phương pháp nhiễu xạ tia X và kính hiển vi điện tử.
6. GS Dân chia sẻ, yếu tố quan trọng quyết định thành công của loại hợp kim nhớ hình là tỉ lệ từng nguyên tố kim loại trong vật liệu đó. Bởi một hợp kim có nhiều thành phần kim loại khác nhau, việc tìm ra khối lượng phù hợp của từng hợp phần có thể ảnh hưởng cấu trúc và tính chất nhớ hình của vật liệu. "Một số kim loại như Mangan trong quá trình nấu luyện rất dễ bay hơi, vì vậy phải điều chỉnh và thử nghiệm nhiều tỉ lệ khác nhau, đảm bảo quá trình tản nhiệt mà không ảnh hưởng tới tính chất hợp kim", ông nói.
7. Sau hai năm nghiên cứu, vật liệu hợp kim do nhóm chế tạo có đặc điểm cơ học phù hợp ứng dụng thực tế. Vật liệu có khả năng biến dạng và hiệu ứng nhớ hình tốt. Mặc dù trên thế giới, hợp kim nhớ hình đã được nghiên cứu và ứng dụng từ lâu, tuy nhiên tại Việt Nam, loại vật liệu này mới dừng lại ở mức độ tìm hiểu, thăm dò. "Việc xây dựng được quy trình công nghệ để chế tạo các hợp kim nhớ hình dạng khối, băng và màng có thể mở ra những ứng dụng mới cho vật liệu thông minh nhiều lĩnh vực trong nước, đặc biệt trong y sinh", GS Dân nói.
8. Bước đầu chế tạo thành công hợp kim nhớ hình, nhóm nghiên cứu đang trong quá trình phát triển vật liệu này để chế tạo loại nhíp micro có chức năng gắp các hạt, mẫu thí nghiệm kích thước micro cho độ chuẩn xác cao. Đồng thời, tiếp tục cải tiến và tối ưu hóa tính chất hợp kim, như chức năng biến đổi hai chiều, qua lại giữa hai trạng thái.
(Theo Nguyễn Xuân, Nhà khoa học Việt chế tạo hợp kim biết nhớ hình dạng, Báo VnExpress, ngày 21/2/2021)
Nội dung chính của bài đọc trên là?
Câu 3:
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Bảo tồn và phát triển nguồn gen tại Nghệ An
(1) Là một trong những địa phương có đa dạng sinh học cao ở Việt Nam, với nhiều kiểu hệ sinh thái, nguồn tài nguyên sinh vật phong phú, đa dạng và đặc hữu, Nghệ An sớm nhận thấy tầm quan trọng của nguồn gen trong việc bảo tồn các giống cây trồng, vật nuôi bản địa quý hiếm, coi việc bảo tồn và lưu giữ nguồn gen là nhiệm vụ quan trọng. Đặc biệt, từ khi Đề án khung các nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen cấp tỉnh giai đoạn 2014-2020 được UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt đã giúp công tác này ở địa phương càng được chú trọng và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
(2) Để bảo tồn và phát triển nguồn gen, trong thời gian qua Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nghệ An đã triển khai nhiều nhiệm vụ nghiên cứu về nguồn gen như: Bảo tồn nguồn gen vật nuôi Việt Nam; Điều tra cây con đặc sản, quý hiếm ở Nghệ An; Đa dạng sinh học đảo Mắt, đảo Ngư và biển ven bờ; Đa dạng sinh học khu Puxailaileng; Đa dạng sinh học Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An; Khảo sát, đánh giá, đề xuất hình thức đăng ký bảo hộ các sản phẩm mang địa danh của Nghệ An... Ngoài ra, các viện nghiên cứu, trường đại học đóng trên địa bàn tỉnh cũng huy động kinh phí từ các nguồn khác để triển khai nhiều đề tài khảo sát, thu thập các nguồn gen, như: Trung tâm Nghiên cứu cây ăn quả và cây công nghiệp Phủ Quỳ đã xây dựng được các tập đoàn cây ăn quả gồm: Tập đoàn cây ăn quả có múi, tập đoàn vải, nhãn, xoài, hồng, thanh long, lạc tiên... Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp bộ, Trường Đại học Vinh đã thu thập, lưu giữ và đánh giá nguồn gen của các giống lúa nương ở các huyện miền núi của 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh... Các nhiệm vụ KH&CN đã điều tra, khảo sát và tổng hợp được số lượng khá phong phú các giống cây trồng, vật nuôi của tỉnh. Cụ thể:
Về tài nguyên thực vật: Trên địa bàn tỉnh có 31 loài quý hiếm có trong sách Đỏ Việt Nam.Các kết quả điều tra, khảo sát cho thấy, Nghệ An là địa phương rất đa dạng về nguồn gen cây lúa, đậu, cây có củ, rau. Trung tâm Tài nguyên thực vật (Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam) đã thu thập được 960 nguồn gen trên địa bàn tỉnh (nhóm cây lúa có 440 mẫu giống, nhóm cây đậu có 151 mẫu giống, cây có củ có 149 mẫu giống, cây rau có 220 mẫu giống); Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung Bộ đã thu thập được 122 nguồn gen (cây có hạt có 110 mẫu giống, cây có củ có 12 mẫu giống); Trường Đại học Vinh đã thu thập được 79 giống (4 giống lúa và 75 giống nếp địa phương). Về cây ăn quả, Trung tâm Tài nguyên thực vật đã thu thập được 185 nguồn gen cây ăn quả trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Đây cũng là cơ sở để Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung Bộ thực hiện thành công đề tài “Nghiên cứu và phục hồi giống cam Xã Đoài ở vùng nguyên sản”, giúp bảo tồn và phát triển loài cam đặc sản này. Về cây dược liệu, trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã thu thập được 962 loài cây thuốc và nấm làm thuốc, thuộc 365 chi, 183 họ của 5 ngành thực vật bậc cao có mạch khác nhau, trong đó có 769 loài mọc tự nhiên và 193 loài cây trồng làm thuốc. Hiện có 41 loài cây dược liệu mọc trong tự nhiên có giá trị cao, đã được khai thác và thương mại hóa rộng rãi.
Về nguồn gen vật nuôi:Trong những năm qua, Viện Chăn nuôi đã phối hợp với nhiều đơn vị trong tỉnh, trong đó có Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN (Sở KH&CN Nghệ An), Khoa Nông lâm ngư (Trường Đại học Vinh) tiến hành điều tra, phát hiện và nghiên cứu bảo tồn kịp thời nhiều nguồn gen vật nuôi như: Trâu Thanh Chương, trâu Phủ Quỳ, trâu Na Hỷ, bò U đầu rìu, bò H’mông (bò Mèo), bò vàng Nghệ An, ngựa Mường Lống, dê cỏ Nghệ An, hươu sao, lợn Mẹo, lợn Xao Va; gà tây Kỳ Sơn, gà ác, vịt bầu Quỳ, ngỗng cỏ Nghệ An, ngan trâu Nghệ An...
Về nguồn gen thủy, hải sản:Nguồn gen cá nước ngọt của Nghệ An được đánh giá là rất phong phú về thành phần loài (280 loài thuộc 14 bộ, 60 họ, 230 giống), đa dạng về chủng loại, với các nhóm: Cá nước ngọt, cá nước lợ, cá di cư từ biển vào sông và ngược lại. Thông qua điều tra, khảo sát đã xác định được 19 loài có giá trị cao gồm: Cá bống bớp, diêu hồng, lóc bông, cá lệch, cá lũ, cá mè kẽ, cá mòi, cá mú, cá ngứa, cá nhớ, cá sứt môi, cua đá, cua lông, hải sâm, ốc hương, tôm đá, tôm tít, cá mát, cá lăng.
(3) Từ năm 2014 đến 2016, thực hiện Đề án khung các nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen cấp tỉnh, Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Nghệ An đã điều tra, thu thập, bổ sung một số nguồn gen trên địa bàn tỉnh. Cụ thể, năm 2015 qua điều tra tại các huyện Quế Phong, Quỳ Châu và Quỳ Hợp đã ghi nhận, thu mẫu và xác định vị trí phân bố được 9 loài cây thuốc quý, hiếm được ghi trong sách Đỏ Việt Nam gồm: Drynaria fortunei (Mett) - Cốt toái bổ; Stemona tuberosa Lour - Bách bộ; Dis-porosis Longifolia Craib - Hoàng tinh cách; Goniothanl Goniothanlamus Vietnamensis Ban - Bổ béo đen; Tacca Subflabellta P.P.Ling & C.T.Ting - Phá lửa (Râu hùm Việt); Fibraurea tinctoria Lour - Hoằng đằng; Smilax glabra Roxb - Thổ phục linh; Morinda officilalis Haw - Ba kích; Gynostemma - Giảo cổ lam. Đặc biệt, trong năm 2016, kết quả điều tra, khảo sát trên địa bàn 3 huyện Con Cuông, Tương Dương và Kỳ Sơn đã thu được 12 loài cây trồng bản địa và cây thuốc quý, hiếm được ghi trong sách Đỏ Việt Nam, gồm: Stephnia brachyandra Diels - Bình vôi núi cao; Celastrus hindsii Benth - Xạ đen; Ampelopsis cantoniensis (Hook et Arn) Planch - Chè dây; Polygonatum kingianum Coll. et Hemsl. 1890 - Hoàng tinh vòng; Achillea millefolium L., 1735 - Cỏ thi; Talinum paniculatum (Jacp.) Gaertn., 1791 - Thổ nhân sâm; Aristolochia lwangsiensis Chun et How ex Liang - Mã đậu linh Quảng Tây; Zingiber ottensii Valeton - Gừng tím; Stahlianthus thorelli Gagnep - Tam thất nam; Copis chinensis Franch, 1897 - Hoàng liên; Zea mays L - Ngô nếp tím; Oryza sativa L - Lúa nếp Khẩu hin.
(4) Bên cạnh các nhiệm vụ thu thập, bảo tồn thì nhiều nhiệm vụ về khai thác và phát triển nguồn gen, ứng dụng công nghệ sinh học trong đánh giá di truyền nguồn gen đã được triển khai. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến các dự án do Trung tâm Tài nguyên thực vật chủ trì thực hiện (Khai thác phát triển nguồn gen lúa đặc sản Khẩu cẩm xẳng, Khẩu cẩm ngâu Nghệ An; Khai thác và phát triển nguồn gen bí đá trái dài và mướp đắng xanh tại Nghệ An; Khai thác và phát triển nguồn gen đậu xanh hạt nhỏ tại Nam Đàn, Nghệ An...) đã góp phần bảo tồn nhiều nguồn gen cây trồng quý, giúp giữ nhiều đặc tính tốt, phù hợp với điều kiện sinh thái địa phương. Đặc biệt, một số nguồn gen đã được khai thác, sử dụng và phát triển thành sản phẩm có giá trị thương mại cao như rượu Mú từn, trà hoa vàng hòa tan và viên nang cứng trà hoa vàng... bước đầu được thị trường đón nhận.
(5) Có thể nói, công tác bảo tồn, khai thác và phát triển các nguồn gen cây trồng, vật nuôi trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã thu được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, so với con số về giống cây trồng, vật nuôi quý hiện có trên địa bàn, số lượng nguồn gen được lưu giữ, bảo tồn và phát triển còn rất khiêm tốn. Trong khi đó, các cây con đặc sản khác đang hàng ngày, hàng giờ bị khai thác quá mức, khiến chúng có nguy cơ tuyệt chủng cao hơn các cây con thông thường. Xa hơn nữa, nếu để mất các giống cây con đặc sản thì các giá trị tri thức, văn hóa gắn liền với các tài nguyên này cũng sẽ bị mất theo. Để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới, Nghệ An cần tiếp tục triển khai thực hiện công tác bảo tồn, khai thác sử dụng bền vững, có hiệu quả các nguồn gen với định hướng rõ ràng thông qua các giải pháp:
Một là, ứng dụng KH&CN hiện đại kết hợp hài hòa với tri thức truyền thống trong bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen; bảo tồn và lưu giữ an toàn các nguồn gen hiện có, khai thác sử dụng bền vững, có hiệu quả nguồn gen động vật, thực vật và vi sinh vật; tìm kiếm, điều tra thu thập và đưa vào bảo tồn các nguồn gen bản địa mới được phát hiện.
Hai là, đánh giá, xác định giá trị nguồn gen, mức độ đe dọa tới các giống, loài bản địa đặc hữu, quý hiếm hiện có và mới được thu thập; có các phương án bảo tồn hiệu quả nguồn gen: Xác định và giới thiệu được những nguồn gen đặc hữu, giá trị kinh tế cao vào sản xuất và đời sống; tư liệu hóa nguồn gen, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về nguồn gen trên địa bàn tỉnh, phục vụ quản lý nhà nước và nghiên cứu khoa học, trao đổi thông tin với mạng lưới quỹ gen quốc gia; khai thác và phát triển nhanh các nguồn gen thành sản phẩm thương mại; tập trung khai thác các nguồn gen quý, có giá trị kinh tế thành các giống bổ sung vào cơ cấu giống của tỉnh, tạo ra một số sản phẩm đặc thù, chủ lực của từng địa phương phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.
Ba là, để bảo tồn, khai thác nguồn gen bản địa rất cần sự quan tâm sát sao của các cấp, ngành trong tỉnh và sự góp sức, ủng hộ của người dân, cũng như toàn xã hội. Bên cạnh đó, cần triển khai xây dựng bộ máy, hệ thống tổ chức bảo tồn nguồn gen cây trồng, vật nuôi ở địa phương để giúp tăng cường hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn và đánh giá nguồn gen cây trồng, vật nuôi bản địa. Trên cơ sở đó, sẽ tổ chức xây dựng cơ sở dữ liệu và thông tin nguồn gen, phục vụ bảo vệ, khai thác và sử dụng nguồn gen cây trồng, vật nuôi một cách hợp lý, hiệu quả.
(Nguồn: “Bảo tồn và phát triển nguồn gen tại Nghệ An”, Ngô Hoàng Linh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 7, năm 2017)
Đâu là nội dung chính của bài đọc trên?
Câu 4:
Theo văn bản, để bảo tồn và phát triển nguồn gen, trong thời gian qua Sở Khoa học và Công nghệ Nghệ An không triển khai nhiệm vụ nào dưới đây?
Câu 5:
Tài nguyên thực vật của Nghệ An có bao nhiêu loài quý hiếm có trong sách Đỏ Việt Nam?
Câu 6:
Theo văn bản, Sở KH&CN đã điều tra, khảo sát và tổng hợp được những nguồn nào dưới đây?
Câu 7:
Vì sao sản phẩm nấm chế biến của Thực phẩm lý tưởng “chưa bán được đã bị quay hồi”?
về câu hỏi!