Danh sách câu hỏi

Có 28,949 câu hỏi trên 579 trang
Từ nhân vật Xúy Vân trong văn bản trên, hãy cho biết điểm khác biệt giữa cách miêu tả, thể hiện tính cách nhân vật trong văn bản chèo với nhân vật trong văn bản truyện? Qua đó, bạn rút ra được những lưu ý gì về cách đọc một văn bản chèo? Kẻ mưu ma, người chước quỷ (trích vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến) Lớp 14 Đề hầu (Số là) Thương mụ Hến, mặt mày rất đẹp (Mà) Việc Huyện Trìa, giận chẳng hay nguôi (Vả người là quan lớn, tôi là viên thuộc, dầu tôi có làm chi đi nữa)   Đã rằng trên có đã đành Mà sứa nhảy qua đăng sao phải Bây giờ nghĩ lại, Dung thử chước này: Nói chung bà huyện ra tay, Thế mới bắt ông rối cẳng Đề hầu: (Vào mách bà Huyện)     (Dạ bẩm bà) (Vì hôm nọ) Bà Huyện:   (Là họ) (Nên ta)         Đề hầu:           Huyện Trìa:       Gia Đinh:       Huyện Trìa:       Hà Huyện (vào)                             Huyện Trìa (vào)                                 Hát Nam:             Bà Huyện (vào):                     Huyện Trìa (vào):         Bà Huyện:           (Nói thiệt)       Huyện Trìa (vào) Ông đã đi đâu vắng Bà ngồi chỉ một mình? Bên Thanh hà (quan) đi viếng ân tình Con mụ Hến tới đây hầu kiện. Nghe thổi nghẹn họng, Thấy nói căm gan Dối đạc điền mưu khéo lật lường, Ngồi tịnh thất dường như ủ dột Mụ phen này quyết phá tan hoang Ông đã đành bạc ngãi bạc tình, Mụ cũng quyết lột trần lột trụi (Hạ) Mưu thâm diệu! Mưu thâm diệu Ngã chí hoan! Ngã chí hoan Vểnh râu Trìa trụi lụi chớ van Cúi óc chỉ trơ trơ mà chịu (Hạ) Lớp 17 Giận mụ Huyện hay ghen quá bụng, Làm cho ta thương nhớ không chừng. Hễ đi thì mụ lại kéo lưng, Gẫm ngồi vậy ta đà túng cẳng Nha tiền tận mặt, Trướng hạ bày lời: Thím Hến tôi cho tới mời ngài, Đại quan tới hôm nay có việc. Vốn đây đã biết, Lựa phải nhiều lời, Để ta sẽ tới nơi, Về phân qua cho rõ. Thính thuyết tâm trung tĩnh nộ! Văn ngôn nhãn thượng sanh ba!   Say theo người mình ngọc vóc ngà Hầu nó mụ thân tàn ma dại, Lời thề thốt miệng ông bải bải, Mồm đãi đưa dối mụ liền liền. Ông bày láo địa láo thiên Mụ quyết lột trần lột lỗ! Đặng buồng này khuây buồng nọ Tham chỗ có bỏ chỗ không Làm cho ông hết vác mặt đánh bồng Tới nhà nó trương mồm (mà) nói khách. (Hạ)   Giận mụ nên quá ách, Hành mỗ đã hầu điên, Miệng nói rồi khăn áo lột liền, Chân đi lại y hài chẳng có. Lén đi chắc mụ ra kéo cổ, Ở lại thì mỗ quá buồn lòng. Mưu mụ đà cố lũy thâu công Kế ta dụng canh y cầu dáng. Nghĩ vợ con quá chán Nỗi duyên nợ băng xăng. Vào buồng kia ăn cắp cái khăn, Ra ngõ nọ sửa sang nhan sắc. Thói mụ thiệt hay ghen lặt vặt Nghĩ mình đà lắm việc lăng nhăng. Chỉ Thanh Hà nhẹ gót phăng phăng Mang nón ngựa chúc ba phơi phới   Nón ngựa chúc ba phơi phới Muốn ăn khoai nào ngại vác mai. Bôn ba cây cối dễ nài, Miễn là duyên hiệp trối ai chê cười. (Hạ)   Lớp 18 Ông huyện ơi! Ông huyện ơi! Chờ tôi với! Chờ tôi với! Trở lại thời tắt đuốc, Bằng đi ắt mang tai. Trời mịt mù chẳng thấy bàn tay, Đường tăm tối ỷ khôn dời bước. Dao phay nguyền xé ruột! Kéo sắ quyết xắp môi! (Ới ông ơi!) Chờ tôi với! CHờ tôi với! (Hạ)   Quả tình hay theo dõi, Kìa yêu động kêu vang. Sáng nẻo đường ắt mụ đuổi theo Tắt quách đuốc thời mày trở lại. (Tắt đuốc núp bên đường, miệng kêu tiếng cú) Bất ngãi! Chơn bất ngãi! Mưu thâm! Quả mưu thâm! Tắt đước đi đường sá chẳng thấy tăm, Trời tối quá bụi bờ không lướt tới. Tại ta hay ghen dại, Nên chồng phải làm ma Ông dầu ló cổ về nhà Mụ quyết ra tay xé lỗ! (Hạ)   Gan mụ nên quát ngố Mưu ta thiệt nên khôn Tại vì có phép thiên hôn Không mắc vào tay địa sát Mê mụ Hến phải toan mưu chước Việc mụ Trìa nói lại làm chi? Đuốc dong lên phơi phới ra đi, Chỉ nhà nọ lần lần tới đó (Hạ) (In trong Nghêu, Sò, Ốc, Hến – Khuyết daanh, tr.538 – 539; 541 – 544)
Đọc văn bản Xúy Vân giả dại (nếu bạn chọn đọc văn bản chèo), văn bản Kẻ mưu ma, người chước quỷ (nếu bạn chọn đọc văn bản tuồng) dưới đây và thực hiện yêu cầu đọc văn bản chèo hoặc đọc văn bản tuồng nêu phía dưới: Xúy Vân giả dại (trích vở chèo Kim Nham) Nội dung vở chèo Kim Nham Kim Nham là một học trò nghèo từ Nam Định lên Tràng An trọ học, được Huyện Tể gả con gái là Xúy Vân. Là một cô gái đảm đang, khéo léo, Xúy Vân chỉ ước mong có một gia đình đơn giản, đầm ấm, “Chờ cho lúa chín bông vàng/ Để anh đi gặt để nàng mang cơm”. Tuy nhiên, hôn nhân không hạnh phúc như nàng mong đợi. Ngay sau lễ cưới, Kim Nham quay lại Tràng An dùi mài kinh sử, bỏ Xúy Vân một mình ở quê, gánh vác việc nhà chồng và cô độc trong cảnh chờ đợi. Trần Phương, một gã Sở Khanh phong tình ở Bắc Ninh, tán tỉnh dụ dỗ Xúy Vân. Nàng xiêu lòng nghe lời hắn giả phát điên để Kim Nham viết giấy li hôn rồi cưới hắn. Kim Nham tìm thầy thuốc, cô đồng, thầy cúng khắp nơi về chạy chữa cho vợ nhưng không được, đành viết giấy li hôn. Nhưng Trần Phương đã bỏ Xúy Vân đi với một phụ nữ khác. Bẽ bàng đau khổ, Xúy Vân từ giả điên trở thành điên thật, lang thang ăn xin. Kim Nham đỗ đạt, được bổ làm quan. Một lần vô tình gặp vợ cũ, Kim Nham bỏ một nén bạc vào nắm cơm sai người đem cho nàng. Xúy Vân bẻ nắm cơm, thấy nén bạc, hỏi ra mới biết. Nhục nhã, đau đớn, nàng nhảy xuống sông tự vẫn. Trích đoạn Xúy Vân giả dại sử dụng nhiều làn điệu phổ biến trong chèo cổ như Con gà rừng, Lới lơ, Hát xuôi hát ngược, Quá giang, kết hợp với ngôn từ giàu chất ẩn dụ. Vũ đạo của Xúy Vân có tính ước lệ cao, thể hiện những hoạt động đời thường của nhân vật, như dệt vải, xe tơ, gặt lúa, khâu vá, thêu thùa, …   Xúy Vân (ra, nói lệch)               (hát xuôi)                 Tiếng đế Xúy Vân (xưng danh)                     (hát con gà rừng)             (nói)   (hát xe chỉ)           (nói)           (hát sắp cá rô)   (nói)   (hát ngược)   (nói) (hát ngược)                   (nói lệch)           (phong thư)   Đau thiết, thiệt van Than cùng bà Nguyệt Đánh cho lê liệt Chết mệt con đồng Bắt đò sang sông Bớ đò, bớ đò …! Tôi la đò, đò nỏ có thưa Tôi càng chờ, càng đợi, càng trưa chuyến đò. Bớ các chị nhiêu ơi, bớ các bạn tình ơi! Cách con sông nên tôi phải lụy đò Bởi chưng trời tối, phải lụy cô bán hàng Chẳng nên gia thất thì về, ở làm chi nữa, chúng chê bạn cười. Tôi chắp tay, lạy bạn đừng cười, Lòng tôi không giăng gió tôi gặp người gió giăng. Gió giăng thì mặc gió giăng Đôi ta chỉ quyết đạo hằng với nhau Chị em ơi, tôi ra đấy có phải xưng danh không nhỉ? Không xưng danh, ai biết là ai?   Tôi bước vào tôi ô rằng vậy: Chẳng giấu gì, tôi tên gọi Xúy Vân, Lấy Kim Nham nhà khó gian truân, Chồng học vắng chầy ngày mong mỏi Tôi ngồi từ tối Đợi khách tha nhang Gái phải nằm hàng Nghề dại dột … nhưng tài cao vô giá. Thiên hạ đồn tôi hát hay đã lạ, ai cũng gọi là cô ả Xúy Vân. Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương Nên đến nỗi điên cuồng rồ dại. Con gà rừng Ăn lẫn với công Đắng cay chẳng chịu được, láng giềng ai hay? Chờ cho cây lúa chín vàng, Để anh đi gặt lúa, để cô nàng mang cơm. Bông dắt, bông díu, xa lắc, xa líu, láng giềng ai hay, Úc bởi Thung Huyên Ơ, kìa con nhện, xuôi xuống đây vương tơ để đằng này xe chỉ đi! Ngồi rồi xem nhện xe tơ, Xem dăm sợi chỉ đợi chờ tình nhân. Nhác trông lên núi Thiên Thai Thấy hai con quạ ăn xoài trên cây Đôi ta dắt díu lên đây Áo trải làm chiếu, chăn quây làm mùng. Chị em ơi, tôi nhớ tình nhân, cho tôi than thở một câu nhá! Tôi thương nhân ngãi Tôi nhớ nhân tình Đêm năm canh trằn trọc hòa năm Than rằng nhân ngãi cựu tình đi đâu Con cá rô nằm vũng chân trâu Để cho năm nảy cần câu châu vào Chị em ơi, tôi hát xuôi cũng được, tôi hát ngược cũng hay, tôi hát câu này cho chị em nghe nhá. Chiếc trống cơm ai khéo vỗ nên vông Một đàn con gái lội sông té bèo. Tôi bắt chước chị em tôi té bào nhá! Chuột chạy bờ rào Muỗi ấp cánh dơi. Ông Bụt kia bẻ cổ con nai Cái trứng gà mày tha con quạ lên ngồi trên cây Ở trong đình có cái khua, cái nhôi Ở cái nón có cái kèo, cái cột Ở dưới sông có cái phố bán bát Lên trên biển đốn cây gỗ làm nhà Vâm kia ấp trứng ba ba Cưỡi con gà mà đi đánh giặc! Rồ rồ, dại dại, điên điên … Rồ này ai bán thì mua Dại này ai thấy không mơ mẩn tình Lúc thì giả dại ra hình làm điên Lúc thì tưởng đến nhân duyên Cho nên đến nỗi phát điên, phát rồ. Phong bức thư này, nhắn gửi Kim Nham Anh ở đâu cho chóng mà về Nghe lời tôi lập một đàn thề Nghe thời chớ, không nghe, để gái này tự vẫn (Hạ) (Kim Nham, chèo cổ, Hà Văn Cầu sưu tầm, chú thích; In trong Chèo cổ tuyển tập, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1976) Từ nhan đề, lời thoại trong văn bản và tóm tắt nội dung vở chèo, bạn hãy: a. Xác định vị trí của văn bản (trích) trên đây trong toàn thể vở chèo Kim Nham.
Đọc các đoạn trích văn bản Nghiên cứu mức độ quan tâm của học sinh khối 10 trường Đ.K. với hò Nam Bộ và thực hiện các yêu cầu nêu phía dưới: NGHIÊN CỨU MỨC ĐỘ QUAN TÂM CỦA HỌC SINH KHỐI 10 TRƯỜNG Đ.K. VỚI HÒ NAM BỘ (Trích, in trong SGK Ngữ văn 10, tập một, tr.97 – 98) Phương pháp nghiên cứu của bài viết chủ yếu là điều tra, phỏng vấn các học sinh khối 10 trường Đ.K. bằng phiếu hỏi, với tổng phiếu khảo sát là 263 phiếu. Hò là loại hình nghệ thuật thân thuộc với người dân Nam Bộ. Từ đó, nhóm nghiên cứu đặt ra câu hỏi: liệu các bạn học sinh có nghe đến điệu hò Nam Bộ hay chưa? Trước khi yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi, nhóm nghiên cứu cho các bạn nghe và xem một đoạn clip ngắn về hò để thuận tiện trong quá trình đặt câu hỏi. Nhóm thu được kết quả như sau: Ý kiến trả lời Số trả lời (lượt) Tỉ lệ (%) Chưa bao giờ biết đến 51 19,39 Đã từng nghe 211 80,61     Bảng: Mức độ quan tâm của học sinh khối 10 trường Đ.K. với hò Nam bộ 211 học sinh (chiếm 80,61%) đã chọn câu trả lời “Đã từng nghe” và 51 học sinh (chiếm 19,39%) trả lời rằng “Chưa bao giờ nghe đến”. Kết quả này cho thấy điệu hò Nam Bộ tương đối quen thuộc đối với các bạn học sinh khối 10 trường Đ.K.   Để khảo sát sự hứng thú và mong muốn tìm hiểu của các bạn học sinh về hò Nam Bộ, chúng tôi đặt ra câu hỏi: “Bạn có ý định tìm hiểu về hò Nam Bộ không”? Kết quả như sau: Câu trả lời Số trả lời Tỉ lệ (%) Rất quan tâm 72 27.38 Không quan tâm 55 20.91 Còn phân vân 136 51.71   Bảng: Sự hứng thú và mức độ mong muốn tìm hiểu về hò Nam Bộ của học sinh khối 10 trường Đ.K 27,38% các bạn học sinh chọn phương án “Rất quan tâm”, đây là nhóm học sinh có sự hứng thú với hò Nam Bộ. Hơn một nửa số học sinh tham gia khảo sát chọn câu trả lời là “Còn phân vân” cho thấy sự lưỡng lự của các bạn khi tiếp xúc với hò Nam Bộ. Liệt kê và lấy ví dụ về các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được sử dụng trong phần văn bản trích báo cáo kết quả Nghiên cứu mức độ quan tâm của học sinh khối 10 trường Đ.K. với hò Nam Bộ theo mẫu bảng sau (làm vào vở) Loại phương tiện Có/Không Ví dụ về phương tiện (tên biểu bảng/biểu đồ) Bảng số liệu … … - … - … Biểu đồ số liệu … … - … - … Phương tiện khác … … - … - …
Đọc văn bản Bảo tồn nghệ thuật mua rối và vấn đề xã hội hóa hoạt động văn hóa nghệ thuật và thực hiện các yêu cầu nêu phía dưới. BẢO TỒN NGHỆ THUẬT MUA RỐI VÀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI HÓA HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA NGHỆ THUẬT           Trong một nhà hát ở khu vực trung tâm Hà Nội, một con rồng bằng gỗ từ dưới mặt hồ nổi lên trong tiếng chũm chọe vang rền. Đó là một vở múa rối nước truyền thống, mỗi ngày cuốn hút hàng trăm lượt du khách ghé thăm, nhưng dân địa phương thì hấu hết rất thờ ơ.           Nhà hát rối nước: nghệ thuật truyền thống, nghệ sĩ và công chúng. Ở hậu trường, sau một bức mành tre mỏng, khoảng 20 nghệ sĩ múa rối mặc bộ đồ bảo hộ bằng cao su, đầm mình trong mực nước cao đến hông, điều khiển những con rối bằng những cây sào dài. Sau mỗi sô (show) diễn chật kín khán giả, nghệ sĩ rối nước Nguyễn Thu Hoài lại thay ủng cao su ra để mang dép kẹp. Chị cho biết: “Những con rối này đều khá nặng, lại còn thêm lực cản của nước nữa. Nhưng chúng tôi đã trải qua nhiều năm đào tạo và kinh nghiệm thực tế, nên có thể điều khiển được”. Cũng như nhiều đồng nghiệp, chị tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sân khấu – Điện ảnh Hà Nội.           Các sô diễn ở nhà hát Thăng Long (Hà Nội) đã trở thành một điểm đến thu hút du lịch, hấp dẫn hàng nghìn du khách mỗi tuần, trong đó có nhiều người mới đến xem lần đầu tiên. Sau một vở diễn, du khách Mỹ Caroline Thomoff nói với phóng viên AFP: “Tôi chưa bao giờ thấy vở diễn múa rối nào sử dụng hồ nước như thế này. Thật sự tôi có thể chứng kiến người ta đang câu cá, nhảy múa, và rất nhiều hoạt động đang diễn ra”           Việt Nam là nơi ra đời của múa rối nước – bộ môn nghệ thuật có tuổi đời nhiều thế kỉ. Xuất hiện ở vùng đồng bằng lúa nước phía Bắc, rối nước là một hình thức giải trí của nông dân. Dấu tích cổ xưa nhất của những màn trình diễn múa rối nước là những ghi chép trên một bia đá có niên đại từ thế kỉ XII, nay vẫn còn được lưu giữ ở một ngôi chùa cổ ở phía Bắc tỉnh Hà Nam, tuy nhiên, nhiều sử gia cho rằng múa rối nước có khả năng khởi đầu từ sớm hơn thế nữa.           Theo truyền thống, các vở diễn kể lại những câu chuyện ngụ ngôn hay truyền thuyết cổ, chẳng hạn truyền thuyết về thanh bảo kiếm mà một vị vua đã dùng để chiến thắng quân xâm lược phương Bắc Sức hấp dẫn đối với nước ngoài. Theo Giám đốc nhà hát Thăng Long, lời thoại trong các vở diễn vẫn không thay đổi nhiều qua thời gian, và những bức tượng khắc thủ công hình thú, hình thuyền, hình người nông dân hay hình cá thếp vàng và sơn xanh đỏ rực rỡ, cũng không thay đổi nhiều. Ông nói với phóng viên AFP: “Đến thế hệ con cái chúng ta và những thế hệ sau nữa, cấc vở diễn vẫn sẽ được bảo lưu như nguyên gốc”.           Mặc dù rối nước có nguồn gốc cổ xưa như vậy – hay có lẽ chính vì rối nước có nguồn gốc cổ xưa như vậy – khán giả Việt Nam ở địa phương không mấy đoái hoài đến các vở diễn này, đặc biệt là giới trẻ. Hơn một nửa trong số 93 triệu dân Việt Nam thuộc lớp trẻ dưới 30 tuổi, họ thường ưa chuộng các hình thức giải trí kĩ thuật số hơn. Ông Phạm Đình Viêm, truyền nhân thế hệ thứ ba trong một gia đình có truyền thống điêu khắc búp bê rối ở một làng nghề ở Thái Bình, chia sẻ: “Bây giờ có nhiều loại hình giải trí, nhiều thiết bị điện tử và có mạng internet. Nên ngoài những kì lễ hội ra, chúng tôi không thể diễn quanh năm được, bởi vì người ta không đến xem nhiều”. Cũng như nhiều thợ làm búp bê rối khác trong làng, ông Viêm không thể lo cho gia đình bằng nghề này, vì thế, ông phải làm thêm công việc lao động chân tay. Tuy nhiên, người nghệ nhân này vẫn kiên tâm theo đuổi nghề làm búp bê, và luôn nuôi hi vọng thế hệ sau có thể tiếp tục theo đuổi niềm đam mê mà ông cho rằng sẽ mãi mãi luôn chảy trong huyết quản của mình.           Tuy nhiên, trong khi mối quan tâm đối với rối nước hầu như đã tắt trên chính mảnh đất quê hương của nó, thì lại xuất hiện những dấu hiệu cho thấy loại hình nghệ thuật này đang thu hút sự chú ý từ nước ngoài. Năm nay, đạo diễn người Canada, Robert Lepage, đã đưa đến cho khán giả Toronto một bản phóng tác từ tác phẩm opera kinh điểm Chim họa mi của Stravinsky. Trong vở diễn này, khu vực dàn nhạc được biến thành một hồ nước cho các ca sĩ kiêm nghệ sĩ múa rối điều khiển con rối.           Theo ông Viêm, những cách tiếp cận đầy sáng tạo như thế này rất có thể sẽ là bí quyết để làm hồi sinh lại truyền thống lâu đời hàng thế kỉ của Việt Nam. Ông nói: “Nếu kịch bản và các màn trình diễn không thay đổi, thì về lâu dài sẽ không thể nào phục vụ khans giả được nữa”. Giải pháp xã hội hóa           Bài học về bảo tồn nghệ thuật múa rối nước Việt Nam qua hoạt động của ngành du lịch là một sáng kiến xã hội hóa đáng khích lệ. Tuy nhiên, cần có những giải pháp căn cơ đồng bộ hơn đối với vấn đề xã hội hóa hoạt động văn hóa nghệ thuật dưa trên giải pháp chung. Theo ông Nguyễn Ngọc Thiện, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, “xã hội hóa chính là huy động nguồn lực từ trong nhân dân và sự tham gia của người dân vài việc giải quyết các vấn đề xã hội của Nhà nước, nhưng không làm giảm vai trò, trách nhiệm của Nhà nước”. Cách hiểu này cũng được phổ biến rộng rãi thành cách hiểu chung khi nói đến hoạt động xã hội hóa. Xã hội hóa bằng cách các địa phương tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng cho hoạt động văn hóa nghệ thuật đồng thời khuyến khích các đơn vị gia tăng hoạt động xã hội hóa.           Ông Thiện cũng chi biết, cho đến năm 2018, có 12 đơn vị nghệ thuật biểu diễn công lập do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trực tiếp quản lí đã và đang tiến hành thực hiện cơ chế tự chủ ở mức tự bảo đảm kinh phí thường xuyên. Năm 2011, Nhà hát nghệ thuật đương đại tự chủ 100% kinh phí thường xuyên, năm 2015 Nhà hát ca múa nhạc nhẹ Việt Nam tự chủ 100% kinh phí thường xuyên. Năm 2016, các đơn vị còn lại, như Nhà hát chèo Việt Nam, Dàn nhạc giao hưởng, Nhà hát tuồng Việt Nam, … tiến hành tự chủ theo hướng mỗi năm cắt giảm 30% kinh phí thường xuyên. Thành công bước đầu của những đơn vị, như Nhà hát nghệ thuật đương đại, Nhà hát ca múa nhạc Việt Nam, Nhà hát múa rối Việt Nam, Nhà hát múa rối Thăng Long, … đã cho thấy hướng đi đúng đắn và sự cần thiết tiến hành cơ chế tự chủ. (Nhóm biên soạn tổng hợp theo AFP và Nguyễn Ngọc Thiện) Tóm tắt các ý chính và vẽ sơ đồ về các thông tin cơ bản, thông tin chi tiết của bài báo.