Danh sách câu hỏi
Có 5,036 câu hỏi trên 101 trang
Đọc:
ƯỚC MƠ HỌC GIỎI TOÁN
Ký bị liệt hai cánh tay từ nhỏ. Thực hiện khát khao đến trường là cả một hành trình đầy gian nan thử thách. Học tập, sinh hoạt đều bằng đôi chân, nhưng Ký không ngừng chinh phục những ước mơ.
Ở trường, thấy giáo thường kế cho cả lớp nghe tiếu sử các nhà toán học thế giới. Ký vô cùng ấn tượng về ông Pôn-tơ-ra-i-ghin, dù bị mù hai mắt, chỉ tự học nhưng đã trở thành nhà toán học hiện đại nổi tiếng của nước Nga. Trong lòng Ký bồng bừng sáng ước mơ sẽ học giỏi Toán theo gương ông.
Những năm học cấp Một, Kỷ học toán rất dở. Mọi công thức, quy tắc, Ký đều thuộc lòng như cháo nhưng kết quả thì cứ đi đẹt mãi, không thể nào ngoi lên được. Ký nhận ra nguyên nhân chính là do Ký viết các con số không rõ ràng. Số 6 nhìn như số 0, số 5 như số 3. Nên khi làm toán, Ký thường vì thế mà lầm lẫn.
Ký để ra một chiến dịch tấn công bắt đầu từ việc tập viết thật rõ ràng những con số từ 0 đến 9. Sau đó, Ký làm nhiều lần các phép tính nhân chia cộng trừ thật lớn, có thử đi thử lại kĩ lưỡng. Sau một thời gian, Ký đã tiến bộ rõ rệt.
Lên cấp Hai, hình học là môn đáng ngại nhất vì phải vẽ hình, song vẫn là môn Ký thích nhất. Ban đầu, Ký phải tập giữ thước bằng ngón chân trái. Nhưng không ồn, vì thước hay bị chệch. Về sau, Ký tập giữ thước bằng gót chân thì khó khăn mới lại nảy ra. Vì chiếc thước nhỏ bản, nên gót chân lại che mất hình. Cuối cùng, Ký nghĩ ra cách làm một chiếc thước rộng bản, có chuôi cầm bên trên. Với sáng kiến này, Kỳ đã vẽ được những hình khá chuẩn xác.
Cứ thế, môn Toán đã trở thành niềm đam mê của Ký. Ký được dự thi kì thi học sinh giỏi Toán cấp Hai toàn miền Bắc tại thành Nam. Ký được nhận Giấy khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục về thành tích thi học sinh giỏi toán năm học 1962-1963.
(Theo tập hồi ki Tôi đi học của Nguyễn Ngọc Ký)
Nguyễn Ngọc Ký (1947 – 2022): sinh ra tại huyện Hải Thanh, tỉnh Nam Định, bị liệt hai cánh tay từ khi 4 tuổi, ông đã rèn luyện đôi chân thay cho bàn tay, vươn lên học tập, trở thành Nhà giáo ưu tú, “Nhà văn Việt Nam viết bằng chân”.
Thành Nam: danh xưng của tỉnh Nam Định, bắt đầu từ khi nhà Nguyễn cho xây dựng thành Nam Định và cột cờ Nam Định vào khoảng năm 1812.
Đọc đoạn văn giới thiệu nhân vật Rô-bin-xơn Cru-xô và thực hiện các yêu cầu:
Rô-bin-xơn Cru-xô – tác phẩm của nhà văn Anh Đa-ni-en Đi-phô (1660-1731) – thuật lại cuộc đời phiêu lưu đầy gian khó, hiểm nguy của Rô-bin-xơn. Cuộc phiêu lưu gồm bốn chặng: (1) Những đợt đi biển đầu tiên bất thành (bảy năm đầu); (2) Chuyến đi xa quy mô nhất và tàu bị bão đánh đắm, Rô-bin-xơn sống sót nhưng phải một mình sống trên đảo hoang; (3) Vào năm thứ mười tám, Rô-bin-xơn chiến đấu chống những thổ dân dã man, cứu được Thứ Sáu, từ đó có thêm bạn; (4) Rô-bin-xơn và Thứ Sáu phá tan một cuộc hành hình tù binh, cứu được cha của Thứ Sáu, và ít lâu sau, lại đánh dẹp một cuộc nổi loạn của thuỷ thủ trên một chiếc tàu Anh, cứu được viên thuyền trưởng và đoạt lại tàu, Rô-bin-xơn (khi ấy đã 55 tuổi) cùng Thứ Sáu và viên thuyền trưởng trở về quê hương. Rô-bin-xơn đã kể lại chặng đường đầy thử thách của mình trong hơn ba thập kỉ sống cô đơn giữa đảo hoang. Trong suốt thời gian đó, anh đã phải đối mặt với cô đơn, thú dữ, bệnh tật và thiếu thốn, nhưng anh không bao giờ từ bỏ hi vọng sống. Qua hành trình phiêu lưu kì thú, Rô-bin-xơn thể hiện là một người ưa hoạt động, ham thích phiêu lưu và đặc biệt vô cùng lạc quan. Với niềm đam mê khám phá, Rô-bin-xơn đã rất dũng cảm bất chấp sóng to gió lớn để được đến những miền đất lạ.
Trong hiểm nguy, ý chí và nghị lực phi thường cùng tinh thần không bao giờ bỏ cuộc đã giúp anh vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Không chịu bị khuất phục bởi hoàn cảnh, Rô-bin-xơn đã tận dụng trí tuệ, đôi bàn tay và ý chí để xây dựng cuộc sống nơi đảo hoang. Thành quả vĩ đại của những nỗ lực không ngừng đó là sữa tươi, bánh mì, pho mát, bơ, áo da,... Thật tuyệt vời!
a. Đoạn văn giới nhân vật nào, trong tác phẩm gì, tác giả là ai?
Tên nhân vật:………………………………………………………………………………
Tên tác phẩm: ……………………………………………………………………………...
Tác giả: ……………………………………………………………………………………
b. Hãy đặt một vài tên cho đoạn văn.
c. Tìm các ý nhỏ trong đoạn văn (giới thiệu chung về nhân vật, hoàn cảnh cụ thể của nhân vật, tính cách của nhân vật).
Đọc.
GIẢ TRAI ĐI THI
Mới mười tuổi Nguyễn Thị Duệ đã nổi tiếng hay chữ. Để việc học hành, thi cử không bị cản trở, nhân một lần chuyển chỗ ở, Duệ cải trang làm con trai, lấy tên là Nguyễn Ngọc Du.
Thời ấy đất nước có nội chiến Nam - Bắc triều, loạn lạc triền miên. Khi nhà Mạc (Bắc triều) thất thế phải rút lên Cao Bằng, Du cũng theo lên. Năm 20 tuổi, "cậu" Du thi đỗ tiến sĩ nhưng bị phát hiện là gái giả trai. Tuy vậy, vua Mạc mến tài nên tha tội, sau đó lấy làm cung phi và bổ dụng chức cung trung giáo tập để dạy các phi tần.
Năm 1625, vua Mạc thua trận, bà Duệ bị quân Trịnh bắt. Bà cầm thanh gươm bình thản nói: “Các ngươi bắt được ta thì phải đưa ta đến nộp cho chúa của các ngươi, nếu các ngươi vô lễ thì ta sẽ chết với lưỡi gươm này". Quân lính giải bà về Thăng Long. Chúa Trịnh cảm mến tài năng và khí tiết của bà nên không giết mà còn phong làm lễ nghi học sĩ, chuyên trông coi việc học hành trong phủ chúa.
Truyền rằng trong một bài thi, có người chỉ làm được bốn câu trong khi quy định phải là 12 câu, lẽ ra bị loại, nhưng thấy bốn câu hay nên các quan chấm bài trình lên vua. Vua xem cũng phân vân, liền đem hỏi ý kiến bà. Bà nói: “Bài văn chỉ làm được bốn câu nhưng là bốn câu hay, còn hơn làm đủ 12 câu mà không hay". Vua liền y theo.
Ngoài dạy học ở Thăng Long, bà Duệ còn soạn ra các bộ đề thi gửi về giúp các địa phương tổ chức thi và bài làm lại gửi lên để bà chấm. Có thể coi bà là người khởi đầu hình thức "giáo dục từ xa" của nước ta.
(Đào Tiến Thi tổng hợp)
Nguyễn Thị Duệ (1574 0 1654): nữ tiến sĩ thời nhà Mạc, quê làng Kiệt Đặc, nay thuộc xã Văn An, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Hay chữ: đọc rộng biết nhiều, giỏi giang về văn chương, khoa học.
Nội chiến Nam – Bắc triều: chiến tranh giữa nhà Mạc với nhà lê – Trịnh hồi thế kỷ XVI – XVII.
Cung phi, cung tần: vợ lẽ của vua chúa ngày xưa (cung phỉ là hàng sau hoàng hậu, cung tấn là hàng sau cung phi). Phi tần: chỉ chung cung phi và cung tần.
Đọc:
Núi Bạch Mã
Núi Bạch Mã (thuộc địa phận huyện Phú Lộc), cách Huế 60km về phía Nam, cao 1. 444m so với mực nước biển, là nơi nghỉ mát nổi tiếng ở Việt Nam. Trên đỉnh núi hùng vĩ bốn mùa xanh tươi với thác nước, suối rừng, là cả một vùng khí hậu ôn đới như Sa Pa, Tam Đảo, Đà lạt,…
Núi Bạch Mã nổi tiếng bởi có những con suối và nhiều ngọn thác ngoạn mục. Thác Đỗ Quyên cao 400m, rộng 20m, những ngày hè, hai bên bờ thác, hoa đỗ quyên nở rộ như hai thảm lụa hoa khổng lồ.
Núi Bạch Mã Huế nằm trong khu vực Vườn Quốc Gia Bạch Mã, nơi giáp ranh giữa thành phố Huế và Đà Nẵng. Nơi đây có thảm động – thực vật đa dạng với hàng trăm loại sinh vật quý hiếm, trong đó có những loại đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng.
Với cảnh quan thiên nhiên cùng khí hậu mát mẻ, núi Bạch Mã Huế là điểm du lịch rất nhiều du khách. Đứng trên đỉnh núi Bạch Mã, du khách có thể thu vào tầm mắt toàn cảnh lộng lẫy của đèo Hải Vân, núi Túy Vân, đầm Cầu Hai và ánh điện lung linh của thành phố Huế vào ban đêm.
(Theo www. thuathienhue. gov. vn)
Đọc từng trích đoạn sau đây và thực hiện yêu cầu.
a. Gạch dưới những từ ngữ miêu tả cảnh thiên nhiên thơ mộng, êm đềm.
Đêm trăng sáng
Ngày chưa tắt hẳn, trăng đã lên rồi. Mặt trăng tròn, to và đỏ từ từ lên ở chân trời, sau rặng tre đen của làng xa. Mấy sợi mây còn vắt ngang qua, mỗi lúc một mảnh dần, rồi đứt hẳn. Trên quãng đồng ruộng, cơn gió nhẹ hiu hiu đưa lại, thoang thoảng những hương thơm ngát.
Sau tiếng chuông của ngôi chùa độ một giờ, thì thật là sáng trăng hẳn: trời bây giờ trong thăm thẳm và cao; mặt trăng đã nhỏ lại, sáng vằng vặc ở trên không và du du như sáo diều; ánh trăng trong chảy khắp cả trên nhành cây, kẽ lá, tràn ngập trên con đường trắng xóa.
(Thạch Lam)
b. Gạch dưới những từ ngữ miêu tả cảnh thiên nhiên dữ dội, nguy hiểm.
Thác nước trên sông Đà
Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Tiếng thác nghe như oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu dã cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.
(Theo Nguyễn Tuân)
Đọc.
Ong bắt dế
Trời nắng gắt. Một con ong xanh biếc, to bằng quả ớt nhỡ, lướt nhanh trên nền đất.
Bụng nó tròn, thon, bóng loáng, mặt trời chiếu vào óng ánh lóe xanh như hạt ngọc. Nó dừng lại, bay lên, đậu xuống, thoăn thoắt rà khắp mảnh vườn để tìm kiếm. Nó đến trước một tổ dế, đảo quanh một lượt, rồi nhanh nhẹn xông vào cửa tổ, lao nhanh xuống. Có tiếng ong kêu văng vẳng “i… i…” và tiếng đôi càng dế bật “pách… pách…” ở tận sâu, sâu lắm. Đột nhiên con dế cụ húc toang vỏ đất mỏng, từ cái ngách bí mật vọt ra, nhảy rúc vào đám cỏ.
Ong xanh đuổi theo. Nó giương đôi răng rộng riết chặt lấy cái gáy cứng như áo giáp của con dế. Con dế nhe răng, bật càng đá hậu “tách… tách…” Ong dán mình trên lưng dế. Dế cứ thế cõng ong chạy!
Dế đã thấm mệt. Ong cong người rít lên “i… i…” rồi thò cái nọc dài, nhắm trúng cổ họng dế chích một phát. Con dế hung dữ bỗng chốc mềm nhũn ra, đầu gục, râu cụp, đôi càng oải xuống. Bấy giờ ong mới buông dế ra, đứng rũ bụi, vuốt râu và thở.
Ong cất cánh bay là là tìm lại cái lỗ dế ban nãy. Rồi nó ra sức vỗ cánh kéo sền sệt con mồi trên mặt đất. Đến cái tổ cũ, nó kéo dễ xuống. Ong ở dưới đó một lúc lâu, đẻ trứng lên mình dế, tiêm thêm nọc bắt dế “ngủ” cho đến ngày ấu trùng ông nở ra là có thức ăn ngay. Trở lên, ong cào đất lấp lỗ lại, lấy đầu nén đất cửa tổ nhiều lần rồi bay đi.
Nó bay dưới ánh mặt trời xanh loang loáng như một đường đạn lửa. Nó không biết là nó đã góp phần bảo vệ những vườn rau.
(Thep Vũ Tú Nam)
Dế cụ: dến lớn, cường tráng và khôn ngoan.
Ấu trùng: giai đoạn mới nở từ trứng của một số loài (ong bướm, ruồi muỗi, ếch nhái,…) có hình dáng và đời sống khác hẳn lúc trưởng thành.