Câu hỏi:
13/07/2024 484Quảng cáo
Trả lời:
Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hoặc quan niệm (mẫu 1)
Bên cạnh việc không làm bài tập ở nhà, không chuẩn bị bài mới cũng trở thành thói quen phổ biến và để lại nhiều hệ lụy đối với các bạn học sinh.
Nguyên nhân chủ yếu khiến các bạn trẻ không chuẩn bị bài mới xuất phát từ sự lười nhác, cảm thấy không hứng thú và không xác định được mục tiêu trong học tập. Tôi biết có rất nhiều bạn cho rằng việc chuẩn bị bài mới trước khi lên lớp là một việc thừa thãi, tốn thời gian. Thay vì ngồi vào bàn học, các bạn sẵn sàng thỏa mãn bản thân bằng những trò chơi vô bổ, không cần thiết. Chỉ đến khi bố mẹ nhắc nhở, các bạn mới tạm gác lại thú vui để chuyên tâm vào học. Để qua mắt phụ huynh và chống đối lại giáo viên, nhiều bạn tận dụng mạng internet để tìm lời giải rồi tải về và ngồi hì hục chép. Thậm chí, có bạn sát giờ lên lớp mới hốt hoảng nhận ra mình chưa chuẩn bị bài, vội vã mượn vở bạn rồi viết vài dòng nguệch ngoạc cho đủ chữ.
Rõ ràng những điều kể trên đều là những biểu hiện của thói quen không chuẩn bị bài mới. Đây là thói quen xấu cần phải từ bỏ. Không chuẩn bị bài trước khi lên lớp khiến chúng ta thụ động và không thể bắt kịp với tiến độ giảng dạy của thầy cô. Lâu dần, kiến thức trở nên bị "hổng" và gây ra tâm lí hoang mang, chán nản với việc học. Kết quả học tập từ đó cũng giảm sút một cách nghiêm trọng.
Chính vì vậy, bạn hãy thay đổi thói quen này ngay từ hôm nay. Việc từ bỏ thói quen không chuẩn bị bài mới đem lại nhiều ích lợi hơn bạn tưởng. Khi từ bỏ được thói quen này, bạn sẽ có phong thái ung dung, tự tin, sẵn sàng chiếm lĩnh và làm chủ tri thức. Việc chuẩn bị bài mới còn giúp bạn lĩnh hội kiến thức tốt hơn. Từ đó, đạt được nhiều điểm cao và thành tích xuất sắc trong học tập.
Tôi biết rằng, để từ bỏ một thói quen đã hình thành và in sâu vào nếp sống, suy nghĩ không phải là điều dễ dàng. Nhưng tôi tin chắc, bằng sự nỗ lực không ngừng, mỗi người chúng ta đều có thể vượt lên chính mình. Thay vì tiêu phí thời gian vào các công việc không cần thiết, các bạn có thể dành ra từ 1-2 tiếng mỗi tối để ôn lại bài cũ đã học và chuẩn bị cho những tiết học sau. Ngoài ra, bạn nên xây dựng thời gian biểu, chế độ sinh hoạt phù hợp, cân bằng giữa việc học với hoạt động vui chơi. Cố gắng giữ tinh thần thoải mái, không nên quá thúc ép vào bản thân vào việc học và chuẩn bị bài mới. Nếu gặp khó khăn trong quá trình tìm hiểu bài, bạn nên trao đổi với bạn bè, thầy cô để được giải đáp và giúp đỡ kịp thời.
Không thể phủ nhận soạn bài và chuẩn bị bài trước khi lên lớp là một công việc nhàm chán nhưng bạn hãy cố gắng vượt lên những rào cản cảm xúc để hướng tới chân trời tri thức đang rộng mở ở tương lai.
Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hoặc quan niệm (mẫu 2)
Người tàn tật là những người yếu thế trong xã hội. Tuy nhiên, họ lại bị một số người xung quanh hắt hủi, bỏ rơi. Kì thị người tàn tật là quan niệm xấu cần phải từ bỏ và loại trừ khỏi xã hội hiện nay.
Những người tàn tật phải chịu đựng nỗi đau và khiếm khuyết trên cơ thể. Điều này khiến họ rất khó để có thể hòa nhập với cộng đồng, bị kì thị và đối xử bất bình đẳng. Kì thị người khuyết tật chính là thái độ khinh thường, xa lánh người khuyết tật chỉ vì những khiếm khuyết trên cơ thể của người đó. Pháp luật của Việt Nam quy định rất rõ trong "Luật về người khuyết tật", người khuyết tật cũng giống như mọi người khác, đều bình đẳng trước xã hội và được nhà nước, pháp luật bảo vệ về quyền và lợi ích hợp pháp. Do đó, bất kì cá nhân, tổ chức nào có hành vi thiếu tôn trọng, xâm hại đến người tàn tật đều phải chịu hình phạt thích đáng tùy theo mức độ vi phạm của mình.
Ở ngoài cộng đồng, những người tàn tật bị xúc phạm, lăng mạ bởi những lời lẽ thiếu tôn trọng, bỗ bã. Khó khăn hơn nữa là họ bị đối xử bất công ngay trong chính ngôi nhà mình sinh sống. Họ bị hắt hủi, đánh đập, không nhận được tình yêu thương và sự chăm sóc của người khác.
Vậy lí do nào dẫn đến quan niệm kì thị người khuyết tật? Trước hết, điều này bắt nguồn từ quan niệm của người xưa về người khuyết tật. Một số người cho rằng người tàn tật là hiện thân của những điều xui xẻo, không may mắn. Họ tin vào thuyết nhân quả và nghĩ kiếp trước của người đó ở ác nên kiếp này mới bị trừng phạt. Với người lành lặn, người khuyết tật được xem như là những người không bình thường. Trong mắt mọi người, họ trở thành gánh nặng đối với gia đình, cộng đồng, xã hội.
Quan niệm kì thị người tàn tật chỉ cho thấy những yếu kém trong nhận thức của cá nhân đối với vấn đề xã hội và cuộc sống. Quan niệm ấy khiến người tàn tật ngày càng trở nên tự ti, không dám đối diện với đám đông. Đồng thời, cản trở họ tiếp cận với các dịch vụ y tế, hoạt động giáo dục, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,...
Vì vậy, chúng ta cần thay đổi và từ bỏ quan niệm này ngay từ hôm nay. Việc từ bỏ quan niệm kì thị người tàn tật sẽ cho ta cái nhìn cởi mở hơn về những người vốn dĩ đã yếu thế trong cuộc sống. Khi ta mở lòng đón nhận, giúp đỡ người có hoàn cảnh kém may mắn hơn mình, tự khắc cuộc đời sẽ trở nên tươi đẹp, đáng giá biết bao! Ngoài ra, thái độ đúng mực, tôn trọng người tàn tật khiến họ dễ dàng bước qua những rào cản của bản thân để vươn lên số phận và đóng góp vào sự phát triển chung của gia đình, xã hội. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, có rất nhiều những tấm gương người tàn tật vượt khó nổi tiếng trên Việt Nam và thế giới. Họ chính là những minh chứng sống của đóa hoa hướng dương luôn vươn đến ánh mặt trời: thầy Nguyễn Ngọc Kí với đôi chân viết chữ, giáo sư vật lý Stephen Hawking với những công trình nổi tiếng toàn nhân loại và còn rất nhiều tấm gương tiêu biểu khác vẫn đang từng ngày, từng giờ ghi tên mình lên đỉnh vinh quang.
Dù là trên phương diện pháp luật hay đạo đức thì chúng ta đều nên có cái nhìn yêu thương, tích cực đối với người tàn tật. Sinh ra với cơ thể không lành lặn đã là một thiệt thòi quá lớn. Do vậy, chúng ta cần đón nhận họ bằng đôi mắt cảm thông.
Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hoặc quan niệm (mẫu 3)
Những người có hoàn cảnh khó khăn là người phải chịu nhiều nỗi đau khổ và bất hạnh trong cuộc sống. Thay vì giúp đỡ họ, một bộ phận người lại tỏ ra kì thị, coi thường. Lâu dần, thái độ, suy nghĩ ấy phát triển thành quan niệm ăn sâu vào tiềm thức của không ít người trong xã hội hiện nay.
Coi thường người có hoàn cảnh khó khăn là thái độ thiếu tôn trọng, khinh mạt người có điều kiện và mức sống thấp hơn mình. Những người này thường đặt mình ở vị trí tối cao, thượng đẳng trong xã hội để nhìn cuộc đời bằng con mắt khinh bỉ, thiếu tôn trọng người khác. Thực tế cuộc sống không thiếu những câu chuyện đau lòng về cách con người đối xử với nhau. Cùng đi vào một cửa hàng, nhưng những người mặc quần áo tuềnh toàng, đi xe rẻ tiền lại không được săn đón và chăm sóc nhiệt tình bằng người đeo túi hiệu, ngồi xe hơi.
Nguyên nhân dẫn đến hành động, quan niệm này bắt nguồn từ nhận thức sai lệch và bản chất hẹp hòi, ích kỉ của một bộ phận người. Họ cho rằng bản thân không có nghĩa vụ phải chăm lo, trợ giúp mà công việc ấy thuộc về xã hội, nhà nước và chính phủ sẽ có trách nhiệm trợ cấp cho người có hoàn cảnh khó khăn. Lối sống thờ ơ, vô cảm đã khiến họ dửng dưng trước sự khổ cực của người khác.
Quan niệm coi thường người có hoàn cảnh khó khăn không chỉ cho thấy sự yếu kém và lối sống vị kỉ của một số người mà còn ngăn trở những người yếu thế này tiếp cận với điều tốt đẹp trong xã hội. Khi gặp những người kì thị, lăng mạ, sỉ nhục mình, họ luôn thấy mặc cảm, tự ti và mất đi niềm tin vào cuộc sống. Xã hội vì thế mà cũng dần trở nên xa cách.
Vì lẽ đó, chúng ta cần thay đổi và từ bỏ quan niệm coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn. Việc từ bỏ quan niệm coi thường người nghèo khổ sẽ cho ta cái nhìn cởi mở hơn về những người vốn dĩ đã "thấp cổ bé họng". Ta nên cảm thông, đồng cảm trước nỗi đau khổ của người khác. Thái độ tôn trọng người kém may mắn giúp họ dễ dàng vượt lên chính mình và nỗ lực không ngừng vào sự phát triển chung của xã hội, đất nước. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, có rất nhiều tấm gương nghèo vượt khó. Họ đã bỏ lại bóng tối sau lưng để tiến về ánh mặt trời. Đó là người nông dân Lâm Văn Chánh, ngụ ở ấp Mỹ Đức, xã Thiện Mỹ, huyện Châu Thành. Trước đây, ông từng thuộc diện hộ nghèo do xã quản lí. Đến năm 2016, được sự hỗ trợ của nhà nước, ông đã vay vốn và phát triển mô hình sản xuất theo Chương Trình 135. Sau hơn 3 năm làm việc chăm chỉ, cật lực, tính đến năm 2019, ông đã tự nguyện xin thoát nghèo và đóng góp vào công cuộc xây dựng nông thôn mới tại địa phương. Có thể nói, ông chính là tấm gương tiêu biểu của người nghèo vượt khó.
Rõ ràng, những người có hoàn cảnh khó khăn vẫn đang từng ngày từng giờ vươn lên khẳng định mình. Để từ bỏ quan niệm coi thường người có hoàn cảnh khó khăn, chúng ta cần hướng tới cái nhìn khách quan, công nhận nỗ lực của người khác. Ai cũng có quyền được sống và khát khao về một cuộc sống no ấm, đủ đầy. Chính vì thế, mỗi người hãy nâng cao nhận thức bản thân và san sẻ, trao đi yêu thương thông qua hành động thiết thực. Hàng năm, rất nhiều những chương trình thiện nguyện được tổ chức. Đây là cơ hội để mỗi người đóng góp nguồn lực nhỏ bé của mình để lan tỏa giá trị nhân văn và cải thiện chất lượng sống cho những người nghèo khổ trong xã hội.
Hi vọng qua bài viết này, các bạn có thể nhận thức được tầm quan trọng của việc từ bỏ quan niệm coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta hãy cùng nhau chung tay giúp đỡ cộng đồng và xây dựng một xã hội văn minh, giàu đẹp, hạnh phúc.
Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hoặc quan niệm (mẫu 4)
Có câu nói rằng khi khỏe người ta ước cả trăm điều nhưng khi ốm yếu, người ta chỉ ước một điều duy nhất là làm sao cho khỏe lại. Ai cũng mong muốn mình có một cơ thể khỏe mạnh nhưng không phải ai cũng được như vậy. Nhiều người chỉ vì bị khiếm khuyết một bộ phận trên cơ thể mà không thể hòa nhập được với cộng đồng, bị kì thị và đối xử bất bình đẳng trong cuộc sống. Những người khuyết tật, tàn tật cũng có quyền con người, họ xứng đáng có một cuộc sống như những người bình thường, và chúng ta cần từ bỏ quan niệm về việc kì thị người khuyết tật, tàn tật.
Kỳ thị người khuyết tật là thái độ khinh thường hoặc thiếu tôn trọng người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó. Phân biệt đối xử người khuyết tật là hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó. Người khuyết tật họ cũng giống như bao nhiêu người bình thường khác họ cũng được pháp luật quy định là có quyền con người, họ có những quyền cơ bản của công dân không chỉ có vậy mà người khuyết tật còn được pháp luật quy định là được bình đẳng tham gia vào các hoạt động xã hội mà không phải chịu bất kì sự kì thị và phân biệt đối xử nào của xã hội. Để bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật, pháp luật cũng quy định rõ ràng và chi tiết những nghiêm cấm hành vi kì thị và phân biệt đối xử với người khuyết tật. Do đó bất kì người nào có thái độ khinh thường, thiếu tôn trọng và có hành vi xa lánh, phỉ báng, có thành kiến, hoặc ngược đãi, hạn chế quyền của người khuyết tật thì đều vi phạm quy định pháp luật người khuyết tật và sẽ phải chịu hình phạt tùy theo mức độ vi phạm của mình.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến quan niệm kì thi người khuyết tật? Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người khuyết tật, trong đó cơ bản từ nhận thức khái niệm khuyết tật. Đầu tiên phải kể đến là do những quan niệm mê tín dị đoan cho rằng người bị khuyết tật là do thuyết nhân quả của người đó kiếp trước ở ác thì kiếp này gặp ác hay là cái quan niệm nếu bố mẹ làm điều xấu thì tội sẽ đến phần con cái gánh và họ sẽ bị khuyết tật xem như là một hình thức trừng phạt. Một số người cho rằng người khuyết tật là một phần hiện thân của điều đen đủi và không may mắn; họ sợ người khuyết tật sẽ đem lại sự đen đủi. Với những người không bị khuyết tật thì người khuyết tật được xem như là những người không bình thường và sự không lành lặn trên cơ thể sự khiếm khuyết đi một bộ phận nào đó chính vì điều này mà những người khuyết tật trong mắt họ luôn là người sống phụ thuộc và là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Chính vì những quan niệm đã khiến những người khuyết tật này khó có thể hòa nhập vào cộng cồng và sinh sống như những người bình thường khác được.
Trong cuộc sống, người khuyết tật phải gánh chịu nhiều thiệt thòi do tình trạng khuyết tật gây ra, từ việc thực hiện những công việc sinh hoạt hằng ngày, học tập, việc làm đến tiếp cận các dịch vụ y tế, kết hôn, sinh con và tham gia các hoạt động xã hội.... Kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người khuyết tật là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc người khuyết tật không được hòa nhập vào các hoạt động văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của cộng đồng. Tại cộng đồng, người khuyết tật thường bị chế nhạo, bị lăng mạ; người ta thường xa lánh, tránh gặp người khuyết tật trước khi làm việc gì đó quan trọng như đi công tác xa, đi du lịch, đi thi.... Càng khó khăn hơn nữa là người khuyết tật còn bị đối xử bất công ngay trong chính gia đình mình, họ bị bố mẹ, anh chị em trong nhà coi là gánh nặng nên thường xuyên bị lăng mạ, sỉ nhục, thậm chí còn bị bỏ rơi, không chăm sóc. Tuy gặp nhiều khó khăn, vất vả trong cuộc sống nhưng nhiều người khuyết tật vẫn vượt qua thử thách bằng chính nghị lực bản thân, đạt được thành công trên nhiều lĩnh vực: học tập, lao động sản xuất, thể thao, văn hóa nghệ thuật...
Pháp luật Việt Nam quy định cá nhân, tổ chức không được kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người khuyết tật dưới bất kì hình thức nào. Người khuyết tật khi được sinh ra không được bình thường như bao người khác, đây đã là một sự thiệt thòi lớn nhất đối với người khuyết tật khi bị khiếm khuyết đi một phần của cơ thể. Những người khuyết tật này họ đã phải rất mạnh mẽ để có thể vượt qua được mọi khó khăn trong sinh hoạt để hòa nhập với xã hội. Chính vì vậy mỗi chúng ta phải biết thông cảm, sẽ chia và giúp đỡ những người khuyết tật khi họ gặp khó khăn, cần từ bỏ quan niệm kì thị người khuyết tật ngay từ bây giờ.
Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hoặc quan niệm (mẫu 5)
Quản lý thời gian là một giải pháp để khắc phục tình trạng trễ và bao gồm đi ngủ sớm, bố trí đủ thời gian vào buổi sáng để sẵn sàng đi học, trì hoãn các công việc không cần thiết và dự đoán được các vấn đề về giao thông. Học sinh có thể ép mình di chuyển và hành động nhanh hơn bằng cách đặt đồng hồ của họ về phía trước, làm cho họ nghĩ rằng chúng đã hết thời gian.
Giáo viên cũng có thể giúp học sinh của họ trở nên đúng giờ. Họ có thể giải thích tầm quan trọng đa dạng của tính đúng giờ và khuyến khích hành vi tốt thông qua một hệ thống khen thưởng. Họ cũng có thể thêm ý nghĩa vào đầu lớp bằng cách đưa ra các câu đố sớm và thảo luận các tài liệu quan trọng ngay lập tức. Giáo viên phải là những mô hình hành vi tốt. Học sinh tôn trọng và tuân theo các giáo viên đến đúng giờ, dự án chuyên nghiệp và thẩm quyền, lập kế hoạch các bài học có giá trị và sa thải các lớp theo đúng tiến độ.
Học sinh thường đến muộn có thể phải chịu hậu quả. Họ có thể bị giam giữ hoặc làm công việc mà giáo viên yêu cầu. Họ cũng có thể bỏ lỡ các kỳ thi hoặc khiến học sinh khác thất bại trong các hoạt động nhóm đòi hỏi sự có mặt của mọi thành viên. Một số học sinh cũng có thể không hội đủ điều kiện cho một số hoạt động ngoại khóa nhất định vào ngày hôm đó. Có những học sinh mặc trên mình áo đồng phục đẹp nhưng chưa ý thức được những nguyên tắc cơ bản mình phải làm
Trong khi đa số sinh viên có trách nhiệm và trưởng thành, họ có thể làm tất cả mọi việc để không bao giờ có tình trạng đi học muộn như đặt một đồng hồ báo thức, cho phép đủ thời gian để sẵn sàng vào buổi sáng, lịch trình xe buýt để đến lớp đúng thời gian. Họ cũng không nhận ra trách nhiệm của mình khi giao tiếp với các giảng viên khi họ không thể thực hiện nghĩa vụ của mình
Khi học sinh đến lớp muộn, nó có thể làm gián đoạn dòng chảy của một bài giảng hoặc thảo luận, làm phân tâm học sinh khác, cản trở việc học, và thường ăn mòn tinh thần lớp học. Hơn nữa, nếu không kiểm soát, sự chậm trễ có thể trở thành mãn tính và lan rộng khắp lớp. Vì có nhiều lý do khiến học sinh đến lớp muộn, xem xét nguyên nhân nào gây ra vấn đề này có thể giúp hướng dẫn người hướng dẫn phản ứng và chiến lược phù hợp. Hiểu được lý do, tuy nhiên, không đòi hỏi phải chịu đựng hành vi.
Khi học sinh đến lớp muộn, nó có thể làm gián đoạn dòng chảy của một bài giảng hoặc thảo luận, làm phân tâm học sinh khác, cản trở việc học, và thường ảnh hưởng tinh thần lớp học. Hơn nữa, nếu không kiểm soát, sự chậm trễ có thể trở thành mãn tính và lan rộng khắp lớp. Vì có nhiều lý do khiến học sinh đến lớp muộn, xem xét nguyên nhân nào gây ra vấn đề này có thể giúp hướng dẫn người hướng dẫn phản ứng và biện pháp phù hợp để không ảnh hưởng đến việc học của các bạn trên lớp.
Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hoặc quan niệm (mẫu 6)
Có thể thấy được với sự phát triển của công nghệ, của internet như hiện nay mang đến rất nhiều lợi ích cho toàn cầu nhưng bên cạnh đó cũng để lại một số tác hại không tưởng. Một trong số đó chính là các trò chơi điện tử. Nó đang tạo ra với mục đích giải trí, thư giãn sau khoảng thời gian làm việc, học tập mệt mỏi. Nhưng nó đã bị giới trẻ hiện nay quá lạm dụng, trở thành những con nghiện game và mang đến những tác hại không ngờ đến.
Trò chơi điện tử đang được giới trẻ rất ưa chuộng và là giải pháp để giải trí khá tối ưu của giới trẻ. Đây là dạng trò chơi có thể chơi được bất cứ khi nào hay ở đâu, đó cũng là lí do nó được lựa chọn nhiều đến vậy. Trò chơi điện tử là một phát minh sinh ra không chỉ với mục đích giải trí, nó còn bắt người dùng sử dụng đầu óc để điều khiển khiến cho người chơi phát triển trí não, sự nhanh nhạy, rèn luyện được phản xạ nhanh nhẹn của cả bộ não và chân tay. Ngoài ra, điện tử còn giúp mọi người kết nối với nhau vì có chức năng kết bạn từ người lạ. Từ đó giúp thu ngắn lại khoảng cách giữa người với người, tạo thành một mạng xã hội đoàn kết, yêu thương.
Nếu được sử dụng với đúng mục đích của nó thì sẽ là người sử dụng thông minh và ngược lại nếu bạn quá lạm dụng dẫn đến nghiện điện tử thì nó chính là liều thuốc độc đối với bạn. Khi chúng ta không biết tự điều chỉnh bản thân mà để cho điện tử cuốn mình vào thế giới ảo sẽ khiến bản thân bị ảo giác, mất kiểm soát và ngày càng cuốn sâu vào nó. Có nhiều người vì quá mê điện tử khiến cho quên ăn, quên ngủ mà chơi thâu đêm suốt sáng. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe người dùng hoặc cũng có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống vì họ đã quá mải chơi mà quên đi nhiệm vụ hàng ngày của chính mình. Bên cạnh đó, gần như các trò chơi đều có thể nạp tiền vào để sở hữu những vật phẩm xịn trong game, điều đó dẫn đến việc mất rất nhiều tiền đối với các con nghiện điện tử. Đã có rất nhiều trường hợp vì nạp game mà lấy tiền bố mẹ hay trộm cắp. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề suy thoái đạo đức cho xã hội ngày nay.
Vì vậy, khi chơi chúng ta cần phải sắp xếp thời gian sao cho thật hợp lí và chỉ chơi với mục đích giải trí chứ không quá mê muội vào các trò chơi. Không để trò chơi điện tử thao túng tâm lí bản thân, không để nó kiểm soát cảm xúc hay hành động của chính mình. Và khi có dấu hiệu của nghiện điện tử, điều đầu tiên là phải tự điều chỉnh bản thân bằng cách dành ít thời gian cho các trò chơi đó hơn hoặc nếu có thể là nên quên lãng nó một thời gian. Sau đó tìm những cách khác để giải trí để thay thế các trò chơi điện tử.
Việc nghiện điện tử hay không là do chính bản thân mình quyết định vì vậy hãy luôn giữ vững lập trường, giữ vững tư tưởng cho mình. Hãy để trò chơi điện tử được sử dụng đúng với mục đích của nó, đúng với giá trị mà những nhà sáng tạo trò chơi muốn mang đến cho người dùng. Đừng để nó bị biến tính và làm cho chất lượng cuộc sống ngày càng đi xuống. Chúng ta hãy chung tay xây dựng một thế giới nói không với nghiện điện tử!
Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hoặc quan niệm (mẫu 7)
“Tôi xinh đẹp trên phong cách của mình, bởi vì Chúa đã tạo ra tôi như thế”
Quả đúng thế thật, mỗi người khi sinh ra đều mang trong mình một vẻ đẹp riêng, một nét khác biệt cũng như một phong cách sống khác nhau. Không ai khi sinh ra có quyền lựa chọn giới tính, cũng như lựa chọn tính cách của bản thân. Vì vậy đồng tính không phải là một vấn đề không tốt, mà ngược lại đó còn là một vấn đề cả xã hội cần quan tâm.
Trước hết đồng tính không phải là căn bệnh và cũng không có phương thuốc, cách đặc trị riêng nào như mọi người vẫn tưởng. “Đồng tính” là từ ghép của hai từ “đồng”, có nghĩa là “cùng, giống”. Con “tính” chính là tính hướng, giới tính của mỗi người. Nói cách khác, đồng tính là một thể loại giữa những người cùng giới.
Ngày nay trong cuộc sống, đồng tính dần trở thành một vấn đề “nóng” được cả xã hội chú trọng và quan tâm. Những người đồng tính, theo một cách nào đó, luôn cố gắng che giấu tính hướng thật của mình. Họ đa phần thường là những người thích sự lặng yên, sống lặng lẽ và đôi khi một trong số họ rất ngại giao tiếp với thế giới xung quanh.
Đồng tính được chia làm hai giới: đó là đồng tính nam (gay) và đồng tính nữ (les). Một số nhà nghiên cứu nhận định rằng xu hướng giới tính của xã hội đang ngày một thay đổi. Phần lớn những người đồng tính nam (gay) có chiều hướng sống công khai hơn đồng tính nữ (les). Ho cho rằng, đó là bởi vì nam là những con người mạnh mẽ, gánh chịu dám đương đầu với dư luận và thách thức nên việc công khai có lẽ sẽ dễ dàng hơn.
Tuy là nam, nhưng gay, tự sâu thẳm vẫn tồn tại một phần mềm yếu cũng như gay thường sẽ nhạy cảm và thận trọng với thế giới trước mắt họ hơn những người khác. Les cũng vậy, họ cũng là những người đồng tính như gay nhưng phải mất một khoảng thời gian khá lâu để chúng ta gặp gỡ và tiếp xúc mới có thể nhận ra. Họ phần lớn thích sự tĩnh lặng và tình cảm, sự nhận thức mọi người, mọi vật xung quanh cũng rất lặng lẽ. Vì vậy les ít khi nào dám nói lên tính hướng thật của mình.
Đồng tính nói chung, cả les và gay cũng chỉ là những con người vô cùng bình thường như chúng ta, cùng đứng chung một bầu trời, cùng hít chung một bầu không khí. Vậy thì vì sao chúng ta phải kì thị, miệt thị họ bằng những từ ngữ cay đắng? Tại sao chúng ta lại dùng hai từ “ghê tởm, dơ bẩn” để gán cho họ? Chúng ta có chắc rằng, mỗi lời ta thốt ra chỉ là một câu nói bình thường? Chúng ta có chắc rằng họ sẽ không đau khổ, buồn tủi thậm chí là nhục nhã? Chúng ta có bao giờ chắc rằng họ sẽ không cảm thấy chán nản với thế giới đầy rẫy những người miệt thị họ?
Và liệu chúng ta, đang làm những việc kỳ thi, xúc phạm này, khi nói ra hai từ “ghê tởm, dơ bẩn” có nên nhìn lại bản thân mình trước khi nói không. Người với người sống để yêu nhau nhưng ta lại đang cố tách biệt họ khỏi vòng tròn tình thương, cố dìm họ trong vực thẳm, cố đẩy họ xuống vực thẳm sâu khôn cùng. Như vậy mà gọi là nhân đạo? Như vậy mà gọi là thương yêu? Phải chăng những tình cảm mà ta tưởng là tốt đẹp, hằng ngày vẫn được bồi đắp, vun vén kia rốt cuộc chỉ là những bằng chứng để phản pháo lại người ta mà thôi. Những người rũ bỏ tình thương yêu, giả vờ tỏ ra nhân đạo cao thượng kia thậm chí còn “ghê tởm” hơn cả những les và gay.
Mỗi lời chúng ta, dù vô tình hay cố ý cũng đều tựa như một nhát dao đâm xuyên qua trái tim họ. Sau này dù đã nguôi ngoai cơn đau nhưng vết thương trong tâm hồn và trái tim ấy vẫn sẽ là một cơn đau âm ỉ. Nó sẽ bám lấy tâm hồn họ dai dẳng, ám ảnh lấy tâm trí họ và trở thành những vết cứa trong hồi ức.
Vì vậy ta hãy dang rộng vòng tay đón nhận lấy những đồng tình nữ, nam, yêu thương cảm thông, chia sẻ với họ. Dù là les hay gay chung quy cũng chỉ là những người bình thường nhưng bị xã hội kì thị. Vì vậy, chúng ta những người có học thức, hiểu biết rõ ràng hãy dũng cảm đứng lên bảo vệ họ. Bởi vì người đi nói người khác quái dị, từ sâu thẳm họ cũng chỉ là mong muốn có được sự dũng cảm, dám nói lên sự thật như họ. Les, gay đúng là những con người sống thật với giới tính của mình, không trốn tránh hay lừa dối bản thân.
Tuy tôi không thể hiểu rõ hết thế giới của những người đồng tính nhưng tôi tin chắc sẽ luôn ủng hộ họ vì họ xứng đáng được bảo vệ. Họ chính là những thiên thần bị ngã, cần chúng ta che chở.
Đúng như câu hát của Lady Gaga: “Tôi xinh đẹp trên phong cách của mình, bởi vì Chúa đã tạo ta tôi như thế”. Chúng ta hãy tự tin sống với giới tính thật của mình và tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng.
Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hoặc quan niệm (mẫu 8)
Xăm mình không còn lạ lẫm trong thế giới hiện đại ngày nay, nhất là với giới trẻ nhưng nó không được cái nhìn thiện cảm từ những người lớn tuổi. Bởi lẽ, xăm mình luôn được gắn với hình ảnh dân chơi, dân anh chị, xăm mình là hư hỏng, là xấu,...
Xét cái nhìn chung, rõ ràng xăm mình đã có từ rất lâu, từ thời xa xưa. Về nguồn gốc của hình xăm thì ngay từ thời nguyên thủy, tục xăm hình ra đời với ý nghĩa chống thủy quái hay trong cuộc chiến Mông - Nguyên, những người lính đất Việt đã xăm chữ Sát Thát để khẳng định quyết tâm chống giặc, đánh đuổi ngoại xâm. Nhưng đến hiện nay, xăm mình lại không được hoan nghênh vì một số người cho rằng những ai xăm mình là "đầu trộm đuôi cướp", có quá khứ bất hảo, xăm những hình nhạy cảm hoặc xăm tại chỗ nhạy cảm trên cơ thể, rồi cố tình phô ra nên khiến số đông hiểu lầm về xăm mình, có cái nhìn không tốt về xăm mình.
Nhưng rõ ràng, việc có hình xăm trên người chưa bao giờ là tiêu chí đánh giá đạo đức, nhân cách một con người. Nhất là trong cuộc sống hiện đại và sự phát triển tri thức nhân loại cũng như sự khẳng định về giá trị cá nhân ngày càng tăng cao, chúng ta phải có cái nhìn toàn diện, đa chiều để hiểu rằng xăm mình không phải là xấu, không phải hư hỏng. Xăm mình lên cơ thể là quyền tự do cá nhân. Mục đích của việc xăm mình rất đa dạng và có nhiều hình xăm nghệ thuật, thể hiện gu thẩm mỹ cá nhân, thể hiện tinh thần của mỗi người tinh tế.
Nhiều người nổi tiếng, có nhiều cống hiến cho xã hội mà bản thân họ có rất nhiều hình xăm như Angelina Jolie. Cô cũng thúc đẩy các hoạt động bảo tồn, giáo dục, quyền phụ nữ và đã ủng hộ người tị nạn với tư cách là Đặc phái viên của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn (UNHCR). Cô đã thực hiện nhiều nhiệm vụ thực địa trên toàn cầu tại các trại tị nạn và vùng chiến sự; các quốc gia cô đến thăm bao gồm Sierra Leone, Tanzania, Pakistan, Afghanistan, Syria và Sudan.
Do đó, cần phải có cái nhìn khách quan, cởi mở, không nên "nhìn mặt mà bắt hình dong", đánh giá một người tốt xấu chỉ dựa vào những hình xăm không phù hợp với thẩm mỹ của mình.
Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hoặc quan niệm (mẫu 9)
Không khó để bắt gặp cảnh tượng học sinh đi muộn phải đứng bên ngoài cổng trường, báo danh họ tên và lớp học. Đây là minh chứng rõ nét cho thói quen xấu - đi học muộn ở người học hiện nay.
Thỉnh thoảng, bởi một vài sự cố xảy ra nên chúng ta có thể tới trường lớp trễ. Nhưng, để việc đi học muộn trở thành thói quen thì mỗi người cần tự xem lại bản thân mình. Thay vì nghỉ ngơi sớm, rất nhiều bạn dành thì giờ để lướt mạng, xem phim, nhắn tin hay chơi game thâu đêm suốt sáng. Những bạn học sinh này thường có suy nghĩ "cố chơi nốt ván này", "cố xem hết tập này", "cố đọc hết chương này"... Cứ cố mãi mà không để ý thời gian, dẫn đến trời gần sáng mới bắt đầu chợp mắt đi ngủ. Và dĩ nhiên, sáng hôm sau, đồng hồ báo thức cũng chẳng thể gọi dậy. Ngoài ra, vài cá nhân khác lại có tác phong lề mề, chậm chạp. Họ cho rằng vẫn còn sớm nên không cần vội, đủng đỉnh ở nhà nghịch điện thoại, gần sát giờ mới bắt đầu tới trường.
Thói quen đi học muộn để lại rất nhiều tác hại cho các bạn học sinh. Đầu tiên, nếu thói quen này tiếp diễn thường xuyên, với tần suất dày, người học dễ bỏ lỡ các kiến thức. Giáo viên không thể vì một cá nhân mà giảng lại kiến thức trước đó. Không chỉ vậy, đi học muộn còn biến bản thân thành kẻ dối trá. Chúng ta thường bịa ra vô vàn lí do nhằm thuyết phục người khác thông cảm, đồng tình cho mình. Bên cạnh đó, không ít trường hợp xảy ra sự cố vì vội vã tới trường. Đi học muộn còn đồng nghĩa với vi phạm nội quy nhà trường. Từ đây, nền nếp, kỉ luật của lớp sẽ là đánh giá rất thấp.
Việc từ bỏ một thói quen xấu sẽ giúp cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Đi học đúng giờ, chúng ta không bị bỏ lỡ kiến thức bài học. Cũng chẳng có cảnh tượng tiết học diễn ra được một nửa thì học sinh mới xuất hiện ở của lớp. Đi học đúng giờ giúp mỗi người thêm chủ động, tự tin trong mọi tình huống. Đến lớp sớm, chúng ta sẽ có thời gian chuẩn bị bài hoặc trò chuyện, giao lưu với bạn bè.
Chắc hẳn, các bạn đã đọc rất nhiều bài viết, tin tức nói về việc thí sinh không được thi THPTQG vì đến trễ đúng không? Vậy nên, từ bỏ thói quen đi học muộn là cần thiết hơn bao giờ hết. Để làm được điều này, mỗi người hãy tự sắp xếp thời gian biểu một cách linh hoạt, hợp lí. Chúng ta nên giải trí vừa đủ, đừng sa đà quá mà ngủ muộn. Chúng ta cũng cần rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, cẩn thận. Thay vì ngủ nướng buổi sáng, các bạn thử dậy sớm khoảng 30 phút, luyện tập thể thao để tinh thần, cơ thể thêm sảng khoái. Đồng thời, chúng ta không nên sát giờ mới bắt đầu tới trường, hãy dự bị một chút thời gian, đề phòng các tình huống bất ngờ.
Có thể nói, đi học muộn mang lại rất nhiều tác hại cho người học. Như vậy, mỗi người cần có cái nhìn đúng đắn về thói quen đi học muộn. Hãy nhanh chóng thay đổi và hành động để loại bỏ thói quen xấu này, bạn nhé!
Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hoặc quan niệm (mẫu 10)
Muốn trở thành người có nhân cách tốt đẹp và thành công trong cuộc sống, con người phải rèn luyện được những thói quen tốt, loại bỏ được những thói quen xấu. Thói quen tốt dẫn ta đến thành công. Thói quen xấu đưa ta đến thất bại. Thói quen xấu, thói quen không lành mạnh có thể dẫn đến những tác hại, hậu quả mà chúng ta không thể dự đoán được. Một thói quen không tốt mà không chỉ người lớn cần từ bỏ mà cả những em học sinh, sinh viên cần phải lưu ý khi ra đường, đó là thói quen không đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp điện, xe gắn máy.
Khi tham gia giao thông, đặc biệt là ở người lớn và trẻ nhỏ, rất nhiều người không đội mũ bảo hiểm hoặc có đội mũ nhưng đội mũ không đảm bảo chất lượng được khuyên dùng. Chính phủ và Nhà nước đã nhiều lần đưa ra những hình phạt nghiêm khắc, xử phạt những trường hợp không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông. Nhưng nhìn chung thói quen ấy vẫn còn ảnh hưởng khá nhiều đến cuộc sống của người dân đặc biệt là những em học sinh khi đi xe đạp điện thường đội những chiếc mũ bán ở vỉa hè, không đảm bảo chất lượng. Hay một số bậc phụ huynh coi nhẹ sự an toàn của con em mình khi tham gia giao thông, thiếu trách nhiệm trong việc dạy bảo các em phải đội mũ bảo hiểm để đảm bảo an toàn tính mạng bản thân.
Qua việc tìm hiểu và khảo sát cho thấy, thói quen không đội mũ bảo hiểm ở người lớn được hình thành là do mũ bảo hiểm khiến họ cảm thấy khó chịu nhất là vào những ngày hè việc đội mũ dễ ra mồ hôi, gây khó chịu cho da đầu. Hay đôi lúc do quá vội mà họ quên đội mũ rồi dần dần hình thành thói quen không đội mũ khi tham gia giao thông. Còn ở lứa tuổi học sinh như chúng ta, việc không đội mũ bảo hiểm là vì nó không hợp thẩm mỹ, cảm thấy khó chịu khi đội,… Đây chính là một số lý do dẫn đến tình trạng không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông của mọi người hiện nay, cũng là nguyên nhân trực tiếp của việc gia tăng các vụ tai nạn giao thông gây thiệt hại tính mạng con người.
Việc không đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp điện hay xe gắn máy là một thói quen không tốt, cần phải được từ bỏ ngay từ bây giờ. Thói quen này không chỉ gây ảnh hưởng đến tính mạng bản thân mà còn có thể dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng hơn nữa. Cá nhân tôi đã từng có thói quen không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông và sau một vụ tai nạn ngoài ý muốn, tôi đã ý thức được sự nghiêm trọng của thói quen này, và tôi đã quyết tâm từ bỏ nó để giữ an toàn cho tính mạng của bản thân. Hay đã có rất nhiều vụ tai nạn giao thông liên quan đến xe đạp điện, xe gắn máy, dẫn đến thiệt mạng về tính mạng con người được đưa tin trên báo là do việc nạn nhân không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông. Đặc biệt là những vụ tai nạn đâm xe có nạn nhân là những học sinh không đội mũ bảo hiểm, lái xe với tốc độ nhanh khi đi trên đường. Đội mũ bảo hiểm là biện pháp hiệu quả nhất để phòng tránh chấn thương đầu và tử vong do tai nạn giao thông gây ra, cần hình thành thói quen đội mũ bảo hiểm mỗi khi ra đường.
Vậy để từ bỏ thói quen không đội mũ bảo hiểm thì cần phải làm như thế nào? Chính phủ và Nhà nước ta cũng đã đưa ra những điều luật, hình phạt cho những ai tham gia giao thông mà không đội mũ bảo hiểm, phạt tiền hoặc tịch thu xe, bằng lái xe. Nhưng nếu chỉ đưa ra bộ luật mà người dân không tự ý thức về thói quen, hành vì của mình thì tình trạng không đội mũ bảo hiểm vẫn sẽ diễn ra. Đầu tiên, mũ bảo hiểm đạt chuẩn thường không phù hợp với thẩm mỹ của một số người đặc biệt là ở lứa tuổi thanh, thiếu niên, do đó các bậc phụ huynh có thể trang trí thêm một số hình dán lên mũ bảo hiểm cho đẹp hơn. Ngoài việc trang trí mũ cho hợp thẩm mỹ thì chúng ta cần phải luôn ghi nhớ việc đội mũ bảo hiểm khi ra đường, có thể luôn treo mũ ở xe hoặc để mũ ở trên tủ giày hay treo ở gần cửa, … để mỗi khi ra ngoài chúng ta sẽ nhìn thấy và không bị quên phải đội mũ nữa. Việc để mũ ở những nơi dễ thấy, dễ cầm sẽ giúp ta hình thành thói quen đội mũ dễ dàng hơn, sẽ không còn tình trạng quên không đội mũ mỗi khi ra ngoài nữa. Một khi người lớn đã có thói quen đội mũ bảo hiểm thì việc hình thành thói quen đội mũ cho trẻ em cũng sẽ đơn giản hơn, vì trẻ em thường hay học theo những việc làm của người lớn.
Mỗi chúng ta đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp điện, xe mô tô, xe máy có thể giảm được 42% nguy cơ tử vong với xác suất tùy thuộc vào tốc độ của từng xe. Vì vậy, để hạn chế chấn thương ở đầu, mỗi người dân cần có ý thức thực hiện nghiêm quy định đội mũ bảo hiểm khi điều khiển hoặc ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện khi tham gia giao thông. Tôi và các bạn những học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường cũng cần có ý thức, tự hình thành thói quen đội mũ bảo hiểm và tuyên truyền thói quen tốt đến với mọi người xung quanh ta để bảo vệ an toàn tính mạng của bản thân mình.
Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hoặc quan niệm (mẫu 11)
Ngày nay, đi trên đường phố, ta bắt gặp rất nhiều người nhuộm tóc. Tôi cho rằng đó là một chuyện làm đẹp hết sức chính đáng và bình thường của con người. Tuy nhiên, vẫn có những quan điểm cho rằng, việc nhuộm tóc là hư hỏng. Đây là một quan niệm chưa có sự cởi mở nếu nói là sai lầm. Để lí giải cụ thể, tôi xin được trình bày trong bài viết này.
Các cụ ta vẫn có câu: “Cái răng, cái tóc là góc con người”. Thật vậy, nhìn vào hàm răng, mái tóc của một người có thể biết đó là người chăm chỉ, gọn gàng hay không. Nhìn vào hàm răng, mái tóc của một người, ta cũng có thể biết người đó có để ý đến vẻ bề ngoài của bản thân hay không. Vậy là, từ xa xưa, chuyện “tóc tai”, làm đẹp cũng đã được các cụ nhà ta để ý. Quan niệm cho rằng nhuộm tóc là hư hỏng một phần đến từ quan niệm về thẩm mỹ. Màu tóc của người Việt Nam vốn là màu đen. Đến khi cao tuổi, tóc từ màu đen sẽ đổi sang màu trắng. Quan niệm về cái tự nhiên, về cái quen mắt là đẹp vốn đã có hàng nghìn năm. Thời ấy, chưa có công nghệ hiện đại và sự phát triển như bây giờ. Thế nên, chắc chắn con người ta chỉ có thể để màu của tóc theo tự nhiên và dần hình thành quan niệm về cái đẹp của mái tóc. Ngày nay, con người ta vẫn giống như ngày trước, vẫn có nhu cầu làm đẹp, vẫn biết để ý đến hình thức của bản thân. Chỉ có điều, quan niệm về thẩm mỹ đã có sự đổi khác, mái tóc không nhất thiết phải là màu đen. Nói đến quan niệm thẩm mỹ, ta có thể chỉ ra một ví dụ, trước kia, ở nước ta có tục nhuộm răng đen. Nhưng thời đại ngày nay, chẳng còn mấy người nhuộm răng như vậy nữa.
Tôi cho rằng, việc nhuộm tóc chỉ cần phù hợp với điều kiện kinh tế, phù hợp với bản thân và không gây hấn với xã hội là được. Chúng ta sẽ khó thể nào mà chấp nhận một người khỏa thân đi ở ngoài đường. Điều đó vẫn nằm ngoài sức tưởng tượng và mức độ chịu đựng của tôi. Nhưng với mái tóc, tôi thấy không có vấn đề gì cả. Con người có quyền lựa chọn màu tóc là một cách để thể hiện cá tính, để làm đẹp và để tự tin hơn.
Nhuộm tóc chưa chắc đã là hư hỏng và không nhuộm tóc chưa chắc đã là không hư hỏng. Tôi đã được biết đến một tội phạm giết người ở Việt Nam vào khoảng năm 2011. Anh ta là một người có mái tóc màu đen. Tôi cũng được biết đến hoa hậu Nguyễn Thúc Thùy Tiên, một cô gái biết sử dụng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Thái, tràn đầy tự tin và cống hiến, có mái tóc nhuộm màu nâu. Và chính bản thân tôi, một học sinh có thể coi là ưu tú, con ngoan trò giỏi trong lớp, cũng đã từng nhuộm tóc.
Tôi chỉ mong rằng chúng ta sẽ nhìn nhận một cách đúng đắn, bao dung, bớt khắt khe hơn về việc nhuộm tóc. Vì chỉ khi cố gắng tìm hiểu một điều gì đó, ta mới có cơ hội để hiểu được tận gốc của vấn đề.
Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hoặc quan niệm (mẫu 12)
Cuộc sống là một chuỗi những hành trình, để thực hiện những mục tiêu, dự định con người cần lên kế hoạch và thực hiện tốt những công việc. Thời gian để hiện thực hóa mục tiêu của mỗi người lại không giống nhau, có người thực hiện một cách nhanh chóng trong một khoảng thời gian xác định, cũng có người phải mất khoảng thời gian rất dài mới có thể thực hiện được. Có sự khác nhau này không chỉ do định hướng, cách thức thực hiện của con người mà còn bị chi phối bởi thói quen trì hoãn công việc.
“Công việc” là những mục tiêu, dự định trước mắt mà chúng ta cần thực hiện. “Trì hoãn” là kéo dài, làm gián đoạn tiến độ công việc. Thói quen trì hoãn công việc đang là một trong những thói quen chưa tốt của con người trong việc thực hiện những mục tiêu công việc.
Cuộc sống có rất nhiều biến động, trong đó có nhiều điều bất thường có thể xảy ra ngoài ý muốn của con người. Những thay đổi đó có thể làm gián đoạn buộc con người phải trì hoãn công việc đang thực hiện để giải quyết những vấn đề trước mắt. Chẳng hạn, công việc hàng ngày của người học sinh là học tập, nhưng vì những lí do bất ngờ: thời tiết, sức khỏe, phương tiện đi lại, người học có thể phải trì hoãn công việc học để giải quyết những vấn đề phát sinh trước mắt ấy.
Tuy nhiên, đó chỉ là việc trì hoãn tạm thời, còn thói quen trì hoãn công việc lại là thói quen được lặp đi lặp lại nhiều lần ở con người. Thói quen trì hoãn có thể mang đến nhiều hậu quả tiêu cực đối với cuộc sống, trước hết nó hình thành tâm lí ỷ lại, lười biếng, đứng trước một công việc cần phải giải quyết nhưng mãi ngần ngừ không chịu thực hiện và trì hoãn cho đến ngày hôm sau, ngày sau nữa hoặc một khoảng thời gian không xác định nào đó.
Trì hoãn công việc ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ và kết quả của công việc, trì hoãn khiến ta không hoàn thành nhiệm vụ đúng thời hạn, thậm chí thói quen trì hoãn khiến cho con người bỏ lỡ những cơ hội, những điều kiện tốt để phát triển và khẳng định giá trị của bản thân.
Thói quen trì hoãn công việc còn làm nảy sinh tính bê trễ, thiếu kỉ luật, trách nhiệm với bản thân cũng như với công việc được giao. Nếu duy trì thói quen xấu này, con người không chỉ khó khăn trong việc thực hiện những mục tiêu, bỏ lỡ cơ hội để phát triển, thăng tiến mà còn đánh mất đi uy tín, làm giảm đi giá trị của bản thân trong mắt đối tác cũng như mọi người xung quanh.
Trì hoãn làm cho con người trở nên lười biếng, không phát huy được sự cố gắng, nỗ lực, kĩ năng giải quyết, xử lí mọi việc cũng bị giảm sút đáng kể.
Trì hoãn công việc là thói quen không tốt cần được nhận thức và thay đổi nếu như muốn phát triển và hoàn thiện bản thân, đừng tạo điều kiện cho sự lười biếng và những suy nghĩ thiếu quyết đoán phát triển, đừng để thói quen trì hoãn trở thành vật cản đường trong hành trình đến với thành công các bạn nhé!
Hot: Học hè online Toán, Văn, Anh...lớp 1-12 tại Vietjack với hơn 1 triệu bài tập có đáp án. Học ngay
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Dàn ý
1. Mở bài:
- Giới thiệu thói quen mà người viết chuẩn bị thuyết phục người khác từ bỏ: quan niệm coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn.
2. Thân bài:
- Nêu ra biểu hiện:
Thiếu tôn trọng, nhìn người nghèo khổ bằng đôi mắt khinh thường.
Đối xử phân biệt.
- Nguyên nhân:
Nhận thức sai lệch và bản chất hẹp hòi, ích kỉ.
Cho rằng việc giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn không phải là nghĩa vụ và trách nhiệm của bản thân mình.
- Tác hại của quan niệm coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn:
Khiến họ tự ti, mất niềm tin vào cuộc sống.
Tạo khoảng cách trong xã hội.
- Nêu lên lợi ích khi từ tỏ quan niệm này:
Sống bao dung hơn, biết chia sẻ với người khác.
Đem đến cho chúng ta nhiều bài học và suy ngẫm về cuộc sống.
- Giải pháp để từ bỏ quan niệm coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn.
3. Kết bài:
- Khẳng định ý nghĩa của việc từ bỏ quan coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn.
Mẫu 1
Những người có hoàn cảnh khó khăn là người phải chịu nhiều nỗi đau khổ và bất hạnh trong cuộc sống. Thay vì giúp đỡ họ, một bộ phận người lại tỏ ra kì thị, coi thường. Lâu dần, thái độ, suy nghĩ ấy phát triển thành quan niệm ăn sâu vào tiềm thức của không ít người trong xã hội hiện nay.
Coi thường người có hoàn cảnh khó khăn là thái độ thiếu tôn trọng, khinh mạt người có điều kiện và mức sống thấp hơn mình. Những người này thường đặt mình ở vị trí tối cao, thượng đẳng trong xã hội để nhìn cuộc đời bằng con mắt khinh bỉ, thiếu tôn trọng người khác. Thực tế cuộc sống không thiếu những câu chuyện đau lòng về cách con người đối xử với nhau. Cùng đi vào một cửa hàng, nhưng những người mặc quần áo tuềnh toàng, đi xe rẻ tiền lại không được săn đón và chăm sóc nhiệt tình bằng người đeo túi hiệu, ngồi xe hơi.
Nguyên nhân dẫn đến hành động, quan niệm này bắt nguồn từ nhận thức sai lệch và bản chất hẹp hòi, ích kỉ của một bộ phận người. Họ cho rằng bản thân không có nghĩa vụ phải chăm lo, trợ giúp mà công việc ấy thuộc về xã hội, nhà nước và chính phủ sẽ có trách nhiệm trợ cấp cho người có hoàn cảnh khó khăn. Lối sống thờ ơ, vô cảm đã khiến họ dửng dưng trước sự khổ cực của người khác.
Quan niệm coi thường người có hoàn cảnh khó khăn không chỉ cho thấy sự yếu kém và lối sống vị kỉ của một số người mà còn ngăn trở những người yếu thế này tiếp cận với điều tốt đẹp trong xã hội. Khi gặp những người kì thị, lăng mạ, sỉ nhục mình, họ luôn thấy mặc cảm, tự ti và mất đi niềm tin vào cuộc sống. Xã hội vì thế mà cũng dần trở nên xa cách.
Vì lẽ đó, chúng ta cần thay đổi và từ bỏ quan niệm coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn. Việc từ bỏ quan niệm coi thường người nghèo khổ sẽ cho ta cái nhìn cởi mở hơn về những người vốn dĩ đã "thấp cổ bé họng". Ta nên cảm thông, đồng cảm trước nỗi đau khổ của người khác. Thái độ tôn trọng người kém may mắn giúp họ dễ dàng vượt lên chính mình và nỗ lực không ngừng vào sự phát triển chung của xã hội, đất nước. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, có rất nhiều tấm gương nghèo vượt khó. Họ đã bỏ lại bóng tối sau lưng để tiến về ánh mặt trời. Đó là người nông dân Lâm Văn Chánh, ngụ ở ấp Mỹ Đức, xã Thiện Mỹ, huyện Châu Thành. Trước đây, ông từng thuộc diện hộ nghèo do xã quản lí. Đến năm 2016, được sự hỗ trợ của nhà nước, ông đã vay vốn và phát triển mô hình sản xuất theo Chương Trình 135. Sau hơn 3 năm làm việc chăm chỉ, cật lực, tính đến năm 2019, ông đã tự nguyện xin thoát nghèo và đóng góp vào công cuộc xây dựng nông thôn mới tại địa phương. Có thể nói, ông chính là tấm gương tiêu biểu của người nghèo vượt khó.
Rõ ràng, những người có hoàn cảnh khó khăn vẫn đang từng ngày từng giờ vươn lên khẳng định mình. Để từ bỏ quan niệm coi thường người có hoàn cảnh khó khăn, chúng ta cần hướng tới cái nhìn khách quan, công nhận nỗ lực của người khác. Ai cũng có quyền được sống và khát khao về một cuộc sống no ấm, đủ đầy. Chính vì thế, mỗi người hãy nâng cao nhận thức bản thân và san sẻ, trao đi yêu thương thông qua hành động thiết thực. Hàng năm, rất nhiều những chương trình thiện nguyện được tổ chức. Đây là cơ hội để mỗi người đóng góp nguồn lực nhỏ bé của mình để lan tỏa giá trị nhân văn và cải thiện chất lượng sống cho những người nghèo khổ trong xã hội.
Mẫu 2
Từ xa xưa, ông cha ta đã dạy rằng:
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng"
Bên cạnh những con người nhân hậu, sẵn sàng giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn thì vẫn còn không ít cá nhân tỏ ra kỳ thị, coi thường họ. Suy nghĩ, hành động ấy đã tạo thành một quan niệm xấu xí trong cuộc sống hiện nay.
Ngoài xã hội, có vô vàn những mảnh đời bất hạnh, éo le. Thay vì đưa tay giúp đỡ, một bộ phận không nhỏ lại tỏ thái độ coi thường, kỳ thị. Họ sẵn sàng buông lời cay nghiệt, hành động thiếu tôn trọng với người có hoàn cảnh khó khăn. Những cá nhân này luôn ở trong tâm thế "cao cao tại thượng", coi mình là nhất, nhìn mọi thứ bằng con mắt khinh khỉnh. Khi thấy người vô gia cư ở trước nhà, vài người còn nhẫn tâm xua đuổi, chửi bới. Từ đây, người với người dần trở nên xa cách, bệnh vô cảm, ích kỉ sẽ bao trùm cả cộng đồng.
Nguyên nhân dẫn đến quan niệm này xuất phát từ chính bản thân một số người. Họ mang trong mình suy nghĩ phiến diện, sai lệch. Họ cho rằng xã hội, nhà nước hay chính phủ phải thực hiện trách nhiệm với người có hoàn cảnh khó khăn. Thậm chí, họ thấy việc giúp đỡ người khác là tốn kém, không đem tới lợi ích. Lối sống ích kỉ, nhỏ nhen in sâu trong máu đã biến các cá nhân này thành kẻ vô cảm, lạnh lùng.
Những người có hoàn cảnh khó khăn cũng là người bình thường giống chúng ta. Đứng trước lời lăng mạ, xúc phạm hay ánh mắt khinh bỉ, họ dễ dàng bị tổn thương. Họ sẽ cảm thấy mặc cảm, tự ti với chính bản thân mình. Niềm tin vào cuộc sống của họ chưa kịp thắp sáng thì đã vụt tắt bởi lời nói, hành động "vô duyên".
Từ bỏ quan niệm coi thường người có hoàn cảnh khó khăn sẽ mang đến rất nhiều lợi ích tốt đẹp. Trước hết, không ai bị bỏ lại phía sau. Khoảng cách giữa người với người được rút ngắn. Tình trạng kỳ thị, coi thường hay khinh rẻ được thay thế bởi các hành động nhân văn, tích cực. Đặc biệt, chúng ta sẽ rèn luyện và bồi dưỡng nên tấm lòng yêu thương, nhân hậu, biết cho đi nhiều hơn. Người có số phận bất hạnh cũng trở nên tự tin, biến động lực thành sức mạnh để vươn lên trong cuộc sống. Theo dõi chương trình "Việc tử tế", bạn sẽ thấy rất nhiều em nhỏ được tiếp tục đến trường, đời sống cải thiện rõ rệt. Tất cả những điều đó đều đến từ sự quan tâm, giúp đỡ của các cá nhân trong cộng đồng, của vô số mạnh thường quân.
Mẫu 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.". Chúng ta hay những người có hoàn cảnh khó khăn để xứng đáng được sống hạnh phúc, êm ấm. Bởi vậy, chúng ta cần lên án và gạt bỏ quan niệm này ngay từ bây giờ. Để làm được việc này, mỗi người phải nhìn nhận mọi chuyện một cách khách quan, toàn diện. Chúng ta nên đặt mình vào vị trí của họ để lắng nghe, thấu hiểu nhiều hơn. Đừng nóng vội mà đưa ra phán xét sai lầm. Ngoài ra, hãy học cách yêu thương, biết lan tỏa những điều tốt đẹp. Ngày nay, có rất nhiều bạn trẻ tổ chức hoạt động thiện nguyện nhằm giúp đỡ trẻ em vùng cao. Hay đó còn là nhóm các bạn sinh viên nấu và tặng cơm cho người vô gia cư trong thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh,...
Có thể thấy, quan niệm coi thường người có hoàn cảnh khó khăn là quan niệm sai lầm, tiêu cực. Chúng ta hãy chung tay xóa bỏ quan niệm này để xã hội trở nên hạnh phúc, tươi đẹp và tiến bộ.
Mỗi chúng ta phải biết thông cảm, sẽ chia và giúp đỡ những người khuyết tật khi họ gặp khó khăn, cần từ bỏ quan niệm kì thị người khuyết tật ngay từ bây giờ.
Thuyết phục người khác từ bỏ quan niệm kỳ thị người khuyết tật
Có câu nói rằng khi khỏe người ta ước cả trăm điều nhưng khi ốm yếu, người ta chỉ ước một điều duy nhất là làm sao cho khỏe lại. Ai cũng mong muốn mình có một cơ thể khỏe mạnh nhưng không phải ai cũng được như vậy. Nhiều người chỉ vì bị khiếm khuyết một bộ phận trên cơ thể mà không thể hòa nhập được với cộng đồng, bị kì thị và đối xử bất bình đẳng trong cuộc sống. Những người khuyết tật, tàn tật cũng có quyền con người, họ xứng đáng có một cuộc sống như những người bình thường, và chúng ta cần từ bỏ quan niệm về việc kì thị người khuyết tật, tàn tật.
Kỳ thị người khuyết tật là thái độ khinh thường hoặc thiếu tôn trọng người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó. Phân biệt đối xử người khuyết tật là hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó. Người khuyết tật họ cũng giống như bao nhiêu người bình thường khác họ cũng được pháp luật quy định là có quyền con người, họ có những quyền cơ bản của công dân không chỉ có vậy mà người khuyết tật còn được pháp luật quy định là được bình đẳng tham gia vào các hoạt động xã hội mà không phải chịu bất kì sự kì thị và phân biệt đối xử nào của xã hội. Để bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật, pháp luật cũng quy định rõ ràng và chi tiết những nghiêm cấm hành vi kì thị và phân biệt đối xử với người khuyết tật. Do đó bất kì người nào có thái độ khinh thường, thiếu tôn trọng và có hành vi xa lánh, phỉ báng, có thành kiến, hoặc ngược đãi, hạn chế quyền của người khuyết tật thì đều vi phạm quy định pháp luật người khuyết tật và sẽ phải chịu hình phạt tùy theo mức độ vi phạm của mình.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến quan niệm kì thi người khuyết tật? Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người khuyết tật, trong đó cơ bản từ nhận thức khái niệm khuyết tật. Đầu tiên phải kể đến là do những quan niệm mê tín dị đoan cho rằng người bị khuyết tật là do thuyết nhân quả của người đó kiếp trước ở ác thì kiếp này gặp ác hay là cái quan niệm nếu bố mẹ làm điều xấu thì tội sẽ đến phần con cái gánh và họ sẽ bị khuyết tật xem như là một hình thức trừng phạt. Một số người cho rằng người khuyết tật là một phần hiện thân của điều đen đủi và không may mắn; họ sợ người khuyết tật sẽ đem lại sự đen đủi. Với những người không bị khuyết tật thì người khuyết tật được xem như là những người không bình thường và sự không lành lặn trên cơ thể sự khiếm khuyết đi một bộ phận nào đó chính vì điều này mà những người khuyết tật trong mắt họ luôn là người sống phụ thuộc và là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Chính vì những quan niệm đã khiến những người khuyết tật này khó có thể hòa nhập vào cộng cồng và sinh sống như những người bình thường khác được.
Mẫu 4
Trong cuộc sống, người khuyết tật phải gánh chịu nhiều thiệt thòi do tình trạng khuyết tật gây ra, từ việc thực hiện những công việc sinh hoạt hằng ngày, học tập, việc làm đến tiếp cận các dịch vụ y tế, kết hôn, sinh con và tham gia các hoạt động xã hội.... Kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người khuyết tật là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc người khuyết tật không được hòa nhập vào các hoạt động văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của cộng đồng. Tại cộng đồng, người khuyết tật thường bị chế nhạo, bị lăng mạ; người ta thường xa lánh, tránh gặp người khuyết tật trước khi làm việc gì đó quan trọng như đi công tác xa, đi du lịch, đi thi.... Càng khó khăn hơn nữa là người khuyết tật còn bị đối xử bất công ngay trong chính gia đình mình, họ bị bố mẹ, anh chị em trong nhà coi là gánh nặng nên thường xuyên bị lăng mạ, sỉ nhục, thậm chí còn bị bỏ rơi, không chăm sóc. Tuy gặp nhiều khó khăn, vất vả trong cuộc sống nhưng nhiều người khuyết tật vẫn vượt qua thử thách bằng chính nghị lực bản thân, đạt được thành công trên nhiều lĩnh vực: học tập, lao động sản xuất, thể thao, văn hóa nghệ thuật...
Pháp luật Việt Nam quy định cá nhân, tổ chức không được kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người khuyết tật dưới bất kì hình thức nào. Người khuyết tật khi được sinh ra không được bình thường như bao người khác, đây đã là một sự thiệt thòi lớn nhất đối với người khuyết tật khi bị khiếm khuyết đi một phần của cơ thể. Những người khuyết tật này họ đã phải rất mạnh mẽ để có thể vượt qua được mọi khó khăn trong sinh hoạt để hòa nhập với xã hội. Chính vì vậy mỗi chúng ta phải biết thông cảm, sẽ chia và giúp đỡ những người khuyết tật khi họ gặp khó khăn, cần từ bỏ quan niệm kì thị người khuyết tật ngay từ bây giờ.
Mẫu 5
Người tàn tật là những người yếu thế trong xã hội. Tuy nhiên, họ lại bị một số người xung quanh hắt hủi, bỏ rơi. Kì thị người tàn tật là quan niệm xấu cần phải từ bỏ và loại trừ khỏi xã hội hiện nay.
Những người tàn tật phải chịu đựng nỗi đau và khiếm khuyết trên cơ thể. Điều này khiến họ rất khó để có thể hòa nhập với cộng đồng, bị kì thị và đối xử bất bình đẳng. Kì thị người khuyết tật chính là thái độ khinh thường, xa lánh người khuyết tật chỉ vì những khiếm khuyết trên cơ thể của người đó. Pháp luật của Việt Nam quy định rất rõ trong "Luật về người khuyết tật", người khuyết tật cũng giống như mọi người khác, đều bình đẳng trước xã hội và được nhà nước, pháp luật bảo vệ về quyền và lợi ích hợp pháp. Do đó, bất kì cá nhân, tổ chức nào có hành vi thiếu tôn trọng, xâm hại đến người tàn tật đều phải chịu hình phạt thích đáng tùy theo mức độ vi phạm của mình.
Ở ngoài cộng đồng, những người tàn tật bị xúc phạm, lăng mạ bởi những lời lẽ thiếu tôn trọng, bỗ bã. Khó khăn hơn nữa là họ bị đối xử bất công ngay trong chính ngôi nhà mình sinh sống. Họ bị hắt hủi, đánh đập, không nhận được tình yêu thương và sự chăm sóc của người khác.
Vậy lí do nào dẫn đến quan niệm kì thị người khuyết tật? Trước hết, điều này bắt nguồn từ quan niệm của người xưa về người khuyết tật. Một số người cho rằng người tàn tật là hiện thân của những điều xui xẻo, không may mắn. Họ tin vào thuyết nhân quả và nghĩ kiếp trước của người đó ở ác nên kiếp này mới bị trừng phạt. Với người lành lặn, người khuyết tật được xem như là những người không bình thường. Trong mắt mọi người, họ trở thành gánh nặng đối với gia đình, cộng đồng, xã hội.
Quan niệm kì thị người tàn tật chỉ cho thấy những yếu kém trong nhận thức của cá nhân đối với vấn đề xã hội và cuộc sống. Quan niệm ấy khiến người tàn tật ngày càng trở nên tự ti, không dám đối diện với đám đông. Đồng thời, cản trở họ tiếp cận với các dịch vụ y tế, hoạt động giáo dục, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,...
Vì vậy, chúng ta cần thay đổi và từ bỏ quan niệm này ngay từ hôm nay. Việc từ bỏ quan niệm kì thị người tàn tật sẽ cho ta cái nhìn cởi mở hơn về những người vốn dĩ đã yếu thế trong cuộc sống. Khi ta mở lòng đón nhận, giúp đỡ người có hoàn cảnh kém may mắn hơn mình, tự khắc cuộc đời sẽ trở nên tươi đẹp, đáng giá biết bao! Ngoài ra, thái độ đúng mực, tôn trọng người tàn tật khiến họ dễ dàng bước qua những rào cản của bản thân để vươn lên số phận và đóng góp vào sự phát triển chung của gia đình, xã hội. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, có rất nhiều những tấm gương người tàn tật vượt khó nổi tiếng trên Việt Nam và thế giới. Họ chính là những minh chứng sống của đóa hoa hướng dương luôn vươn đến ánh mặt trời: thầy Nguyễn Ngọc Kí với đôi chân viết chữ, giáo sư vật lý Stephen Hawking với những công trình nổi tiếng toàn nhân loại và còn rất nhiều tấm gương tiêu biểu khác vẫn đang từng ngày, từng giờ ghi tên mình lên đỉnh vinh quang.
Dù là trên phương diện pháp luật hay đạo đức thì chúng ta đều nên có cái nhìn yêu thương, tích cực đối với người tàn tật. Sinh ra với cơ thể không lành lặn đã là một thiệt thòi quá lớn. Do vậy, chúng ta cần đón nhận họ bằng đôi mắt cảm thông.
Mẫu 6
Chẳng ai mong muốn mình sinh ra lại bị thiếu thốn, thiệt thòi về thể xác cả. Chúng ta may mắn thì được lành lặn như bao người. Nhưng cũng có biết bao nhiêu người sinh ra thiệt thòi, người thị khuyết tật về chân tay, người lại khuyết tật về bộ não. Người khuyết tật là những người không được lành lặn, may mắn như người bình thường, họ đã phải chịu những sự dày vò về thể xác, đau đớn hơn còn có rất nhiều người kém hiểu biết kỳ thị, xa lánh họ. Vấn nạn kỳ thị, xa lánh người khuyết tật thực sự rất nghiêm trọng, có thể gây ra những hệ luỵ lâu dài trong xã hội.
Kỳ thị người khuyết tật là thái độ thiếu tôn trọng, xa lánh, phân biệt đối xử với những người khuyết tật. Có thể chỉ bằng một ánh mắt coi thường xa lánh hoặc có thể là thái độ thiếu hòa nhã, tôn trọng với họ. Thấy họ đến thì dè bỉu, chê bai, xa lánh không ngồi cùng với họ. Chúng ta công nhận trong xã hội này có rất rất nhiều những thái độ, hành vi kỳ thị người khuyết tật vẫn đang xảy ra hàng ngày. Vấn nạn này thực sự rất đáng báo động.
Pháp luật Việt Nam đã quy định người khuyết tật có quyền bình đẳng như bao người bình thường khác, họ cần được đối xử như những người bình thường. Vì vậy bất kỳ hành vi kỳ thị, đối xử phân biệt, thậm chí phỉ báng, xúc phạm, đánh đập họ đều có thể bị xử phạt. Biết được điều đó nhưng vẫn có rất nhiều người có thái độ phân biệt, kỳ thị với những người khuyết tật. Tại sao vậy?
Thứ nhất là những nhận thức còn eo hẹp của những người xung quanh. Rất nhiều người cho rằng người khuyết tật là do kiếp trước làm nhiều điều ác nên kiếp này bị trừng phạt, do đó, kỳ thị với họ là xứng đáng với những gì họ nhận được. Thứ hai là có một số người quan niệm những người khuyết tật có hình dạng xấu xí, dị hợm, tiếp xúc hay qua lại với họ chỉ mang đến những điều xui xẻo, đen đủi nên giữ khoảng cách với họ, lập ra ranh giới với họ. Tóm lại sự kỳ thị với người khuyết tật đều xuất phát từ những nhận thức lệch lạc của con người.
Hậu quả của sự kỳ thị này vô cùng nghiêm trọng. Trước hết là với chính những người khuyết tật. Do bị kỳ thị, xa lánh họ không được tham gia vào các hoạt động văn hoá, xã hội, hậu quả là không xin được việc, không thể lao động sản xuất để nuôi sống bản thân mình. Sau nữa là cho xã hội, những người khuyết tật không lao động được thì cũng là gánh nặng cho xã hội. Rất nhiều người khuyết tật bị lăng mạ, sỉ nhục, thậm chí bị bỏ rơi, nguyền rủa, không chăm sóc, điều đó thực sự là tiếng chuông đáng báo động về sự suy đồi đạo đức trong xã hội.
Tóm lại kỳ thị những người khuyết tật là một hành vi xấu xí, rất đáng lên án. Chúng ta hãy đặt mình vào hoàn cảnh của họ để thấy được rằng: họ rất đáng thương, sinh ra đã thiệt thòi hơn người khác, chúng ta thay vì kỳ thị họ hãy đối xử bình đẳng với họ, động viên họ để họ có thêm nghị lực sống, trở thành người có ích cho xã hội.
Mẫu 7
Quan niệm kì thị người tàn tật chỉ cho thấy những yếu kém trong nhận thức của cá nhân đối với vấn đề xã hội và cuộc sống. Quan niệm ấy khiến người tàn tật ngày càng trở nên tự ti, không dám đối diện với đám đông. Đồng thời, cản trở họ tiếp cận với các dịch vụ y tế, hoạt động giáo dục, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,...
Vì vậy, chúng ta cần thay đổi và từ bỏ quan niệm này ngay từ hôm nay. Việc từ bỏ quan niệm kì thị người tàn tật sẽ cho ta cái nhìn cởi mở hơn về những người vốn dĩ đã yếu thế trong cuộc sống. Khi ta mở lòng đón nhận, giúp đỡ người có hoàn cảnh kém may mắn hơn mình, tự khắc cuộc đời sẽ trở nên tươi đẹp, đáng giá biết bao! Ngoài ra, thái độ đúng mực, tôn trọng người tàn tật khiến họ dễ dàng bước qua những rào cản của bản thân để vươn lên số phận và đóng góp vào sự phát triển chung của gia đình, xã hội. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, có rất nhiều những tấm gương người tàn tật vượt khó nổi tiếng trên Việt Nam và thế giới. Họ chính là những minh chứng sống của đóa hoa hướng dương luôn vươn đến ánh mặt trời: thầy Nguyễn Ngọc Kí với đôi chân viết chữ, giáo sư vật lý Stephen Hawking với những công trình nổi tiếng toàn nhân loại và còn rất nhiều tấm gương tiêu biểu khác vẫn đang từng ngày, từng giờ ghi tên mình lên đỉnh vinh quang.
Dù là trên phương diện pháp luật hay đạo đức thì chúng ta đều nên có cái nhìn yêu thương, tích cực đối với người tàn tật. Sinh ra với cơ thể không lành lặn đã là một thiệt thòi quá lớn. Do vậy, chúng ta cần đón nhận họ bằng đôi mắt cảm thông.
Mẫu 8
Những người có hoàn cảnh khó khăn là người phải chịu nhiều nỗi đau khổ và bất hạnh trong cuộc sống. Thay vì giúp đỡ họ, một bộ phận người lại tỏ ra kì thị, coi thường. Lâu dần, thái độ, suy nghĩ ấy phát triển thành quan niệm ăn sâu vào tiềm thức của không ít người trong xã hội hiện nay.
Coi thường người có hoàn cảnh khó khăn là thái độ thiếu tôn trọng, khinh mạt người có điều kiện và mức sống thấp hơn mình. Những người này thường đặt mình ở vị trí tối cao, thượng đẳng trong xã hội để nhìn cuộc đời bằng con mắt khinh bỉ, thiếu tôn trọng người khác. Thực tế cuộc sống không thiếu những câu chuyện đau lòng về cách con người đối xử với nhau. Cùng đi vào một cửa hàng, nhưng những người mặc quần áo tuềnh toàng, đi xe rẻ tiền lại không được săn đón và chăm sóc nhiệt tình bằng người đeo túi hiệu, ngồi xe hơi.
Nguyên nhân dẫn đến hành động, quan niệm này bắt nguồn từ nhận thức sai lệch và bản chất hẹp hòi, ích kỉ của một bộ phận người. Họ cho rằng bản thân không có nghĩa vụ phải chăm lo, trợ giúp mà công việc ấy thuộc về xã hội, nhà nước và chính phủ sẽ có trách nhiệm trợ cấp cho người có hoàn cảnh khó khăn. Lối sống thờ ơ, vô cảm đã khiến họ dửng dưng trước sự khổ cực của người khác.
Quan niệm coi thường người có hoàn cảnh khó khăn không chỉ cho thấy sự yếu kém và lối sống vị kỉ của một số người mà còn ngăn trở những người yếu thế này tiếp cận với điều tốt đẹp trong xã hội. Khi gặp những người kì thị, lăng mạ, sỉ nhục mình, họ luôn thấy mặc cảm, tự ti và mất đi niềm tin vào cuộc sống. Xã hội vì thế mà cũng dần trở nên xa cách.
Vì lẽ đó, chúng ta cần thay đổi và từ bỏ quan niệm coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn. Việc từ bỏ quan niệm coi thường người nghèo khổ sẽ cho ta cái nhìn cởi mở hơn về những người vốn dĩ đã “thấp cổ bé họng”. Ta nên cảm thông, đồng cảm trước nỗi đau khổ của người khác. Thái độ tôn trọng người kém may mắn giúp họ dễ dàng vượt lên chính mình và nỗ lực không ngừng vào sự phát triển chung của xã hội, đất nước. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, có rất nhiều tấm gương nghèo vượt khó. Họ đã bỏ lại bóng tối sau lưng để tiến về ánh mặt trời. Đó là người nông dân Lâm Văn Chánh, ngụ ở ấp Mỹ Đức, xã Thiện Mỹ, huyện Châu Thành. Trước đây, ông từng thuộc diện hộ nghèo do xã quản lí. Đến năm 2016, được sự hỗ trợ của nhà nước, ông đã vay vốn và phát triển mô hình sản xuất theo Chương Trình 135. Sau hơn 3 năm làm việc chăm chỉ, cật lực, tính đến năm 2019, ông đã tự nguyện xin thoát nghèo và đóng góp vào công cuộc xây dựng nông thôn mới tại địa phương. Có thể nói, ông chính là tấm gương tiêu biểu của người nghèo vượt khó.
Rõ ràng, những người có hoàn cảnh khó khăn vẫn đang từng ngày từng giờ vươn lên khẳng định mình. Để từ bỏ quan niệm coi thường người có hoàn cảnh khó khăn, chúng ta cần hướng tới cái nhìn khách quan, công nhận nỗ lực của người khác. Ai cũng có quyền được sống và khát khao về một cuộc sống no ấm, đủ đầy. Chính vì thế, mỗi người hãy nâng cao nhận thức bản thân và san sẻ, trao đi yêu thương thông qua hành động thiết thực. Hàng năm, rất nhiều những chương trình thiện nguyện được tổ chức. Đây là cơ hội để mỗi người đóng góp nguồn lực nhỏ bé của mình để lan tỏa giá trị nhân văn và cải thiện chất lượng sống cho những người nghèo khổ trong xã hội.
Hi vọng qua bài viết này, các bạn có thể nhận thức được tầm quan trọng của việc từ bỏ quan niệm coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta hãy cùng nhau chung tay giúp đỡ cộng đồng và xây dựng một xã hội văn minh, giàu đẹp, hạnh phúc.
Lời giải
Dàn Ý
1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần thuyết phục: từ bỏ quan niệm "trọng nam khinh nữ".
2. Thân bài:
* Giải thích quan niệm "trọng nam khinh nữ":
- "Trọng nam khinh nữ" là hình thức phân biệt đối xử dựa trên giới tính, trong đó người đàn ông được đánh giá cao hơn so với phụ nữ.
* Nguyên nhân dẫn đến quan niệm "trọng nam khinh nữ":
- Do ảnh hưởng của Nho giáo, Trung Quốc: vai trò của người đàn ông được coi trọng. Họ là những người có chí khí, làm được việc lớn, gánh vác giang san.
* Biểu hiện của "trọng nam khinh nữ":
- Trong gia đình và xã hội, vai trò của đàn ông được đánh giá cao hơn những người phụ nữ.
- Trách nhiệm của phụ nữ là chăm sóc gia đình.
- Đàn ông sinh được con trai thì ngồi ở mâm trên, nếu sinh con gái phải ngồi mâm dưới.
- Phụ nữ nếu sinh con gái thì không được đề cao.
- Nhiều gia đình dù đã sinh đủ hai con nhưng vẫn muốn đẻ thêm con trai để có người nối dõi tông đường.
- Thậm chí, có nhiều người nạo phá thai vì lựa chọn giới tính.
* Lí do cần phải từ bỏ quan niệm "trọng nam khinh nữ":
- Đây là quan niệm cổ hủ, lạc hậu, không còn phù hợp trong thời đại mới.
- Gây mất cân bằng giới tính.
- Khiến các mối quan hệ trong gia đình trở nên bất hòa.
- Ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người phụ nữ.
* Lợi ích khi từ bỏ quan niệm:
- Tạo ra một xã hội công bằng, văn minh.
- Chấm dứt được tệ nạn xã hội.
* Giải pháp để từ bỏ quan niệm "trọng nam khinh nữ":
- Đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền.
- Phụ nữ cần không ngừng đấu tranh, nâng cao trình độ nhận thức, chuyên môn của mình.
3. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề.
Mẫu 1
Mặc dù vai trò của người phụ nữ đang dần được đề cao, coi trọng nhưng "quan niệm trọng nam khinh nữ" từ thời phong kiến vẫn còn tồn tại cho tới tận ngày nay. Đây là một tư tưởng hết sức sai lầm, cổ hủ, cần được loại bỏ khỏi xã hội hiện đại.
Trước hết, "trọng nam khinh nữ" là sự phân biệt đối xử dựa trên giới tính, trong đó vai trò của người đàn ông được đánh giá cao hơn so với phụ nữ. Nguyên nhân dẫn đến tư tưởng này là do ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc. Học thuyết Nho giáo quy định rất chi tiết, rõ ràng về vai trò, trách nhiệm của đàn ông và phụ nữ. Đàn ông phải là người có chí khí, sẵn sàng gánh vác giang san, làm trụ cột trong gia đình. Còn phụ nữ luôn phải giữ gìn tiết hạnh, thực hiện "tam tòng tứ đức". Có thể nói, tư tưởng Nho giáo đã chi phối rất nhiều đến các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, nó được lưu truyền từ đời này sang đời khác và ăn sâu vào suy nghĩ, nếp sống của người dân.
Trong đời sống, chúng ta không khó để bắt gặp biểu hiện của quan niệm này. Mặc dù đã sinh đủ hai con nhưng nhiều nhà vẫn muốn có con trai để "nối dõi tông đường". Ở một số làng quê, dấu ấn của quan niệm "trọng nam khinh nữ" rất đậm nét. Trong các buổi cỗ bàn, lễ Tết, nếu đàn ông nào sinh được con trai thì ngồi ở mâm trên, còn nếu sinh con gái thì phải ngồi ở mâm dưới. Thậm chí, nhiều cánh đàn ông còn bị chính những người anh em, bạn bè chế giễu, trêu đùa. Những định kiến này đã gây áp lực cho họ và là nguồn cơn của những cuộc cãi vã, bạo hành trong gia đình. Ngay trong mối quan hệ vợ chồng, tiếng nói của người đàn ông bao giờ cũng có trọng lượng hơn phụ nữ.
Ngày nay, quan niệm "trọng nam khinh nữ" không còn nặng nề như trước nhưng nó vẫn tồn tại và để lại nhiều hậu quả đối với xã hội. Có rất nhiều lí do để chúng ta từ bỏ suy nghĩ này. Thứ nhất, tư tưởng "trọng nam khinh nữ" không còn phù hợp trong xã hội hiện đại. Bởi ngày nay, Việt Nam cũng như thế giới đang hướng đến bình đẳng giới. Có rất nhiều tổ chức được thành lập để đấu tranh cho một xã hội công bằng, nơi giới tính không còn là giới hạn như Tổ chức thúc đẩy bình đẳng giới Việt Nam (VOGE), Ủy ban địa vị Phụ nữ Liên hợp quốc, Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA),... Họ đang nỗ lực bảo vệ cho các quyền của trẻ em gái và phụ nữ trên thế giới. Phụ nữ cũng xứng đáng được tôn trọng và được nhìn nhận một cách công bằng trong quá trình đóng góp vào sự vận hành, phát triển của xã hội.
Thứ hai, tư tưởng "trọng nam khinh nữ" gây mất cân bằng giới tính. "Theo như số liệu của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế), vào năm 2026, Việt Nam sẽ "thừa khoảng 1,38 triệu nam giới." (theo vietnamplus.vn). Tình trạng "thừa nam, thiếu nữ" đang là một vấn đề nhức nhối, đáng báo động. Nếu không giải quyết được thực trạng này, nhiều đàn ông sẽ phải đối mặt với việc không tìm được người để kết hôn.
Thứ ba, việc quá đề cao nam giới còn làm tan vỡ nhiều mối quan hệ. Điều này khiến cho những giá trị tốt đẹp của gia đình bị phá bỏ. Chừng nào tư tưởng "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" ("một con trai là có, mười con gái vẫn là không") chưa chấm dứt thì chừng đó vẫn còn nạn bạo hành.
Thứ tư, quyền lợi của phụ nữ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi tư duy cũ kĩ, đi lùi thời đại này. Vấn đề "trọng nam khinh nữ" khiến cho tiếng nói của những người phụ nữ trở nên nhỏ bé, thấp kém. Họ bị đè nén và không được thừa hưởng thành tựu phát triển như phái nam.
Từ những lí do trên, chúng ta hoàn toàn có đủ căn cứ để thay đổi suy nghĩ, hành vi của chính mình. Sớm loại bỏ tư tưởng lạc hậu này sẽ tạo ra một xã hội công bằng, văn minh. Mọi người đều được phát triển bản thân một cách dân chủ, đồng đều. Từ đó, gia tăng nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần xây dựng đất nước. Đồng thời, cũng chấm dứt được các tệ nạn xã hội, bảo vệ được trạng thái cân bằng của cán cân dân số.
Để từ bỏ, ngăn chặn quan niệm "trọng nam khinh nữ", chúng ta cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục tới từng người dân. Đây là biện pháp hữu ích trong công cuộc đẩy lùi tình trạng mất cân bằng giới tính, vấn nạn bạo lực gia đình và vô vàn những vấn đề khác. Ngoài ra, mỗi người phụ nữ cần không ngừng nâng cao trình độ, nhận thức của bản thân và nỗ lực đấu tranh cho các quyền chính đáng, hợp pháp mà mình xứng đáng được hưởng. Là một học sinh, chúng ta cần ý thức được những tác hại, hệ lụy mà quan niệm này đem lại cho cá nhân, gia đình, xã hội.
Mẫu 2
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh, bình đẳng. Pháp luật, nhà nước Việt Nam đã quy định rất rõ trong điều 26, Hiến pháp năm 2013: "Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.". Việt Nam cũng như thế giới đã và đang chung tay vì một xã hội công bằng. Chính vì vậy, chúng ta không nên giữ lại những tư tưởng, cổ hủ lạc hậu này nữa!
Vấn đề trọng nam khinh nữ luôn tồn tại trong cuộc sống. Hồi xưa việc trọng nam khinh nữ rất trầm trọng, những người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến là những người chịu ảnh hưởng nhiều nhất, tạo nên nhiều bi kịch cho cuộc đời của người nữ. Hiện nay, hiện tượng trọng nam khinh nữ không ở mức độ trầm trọng như ngày xưa nhưng đâu đó tình trạng này vẫn còn tiếp diễn. Tuy nhiên, mức độ không phổ biến. Tình trạng trọng nam khinh nữ hiện tại phổ biến nhất tại vùng núi, miền sâu vùng xa, những người nơi đây thiếu trình độ, kiến thức xã hội, họ vẫn quan niệm rằng sinh con gái sau này cũng là con của người ta, con trai thì sẽ sống với cha mẹ cả đời. Với những quan niệm đó mà nhiều phụ nữ ở đây đã chịu nhiều cực khổ. Người xưa cho rằng phụ nữ sẽ chẳng làm nên việc gì lớn, có chăng cũng chỉ gây thất bại mà họ không nhận ra rằng họ sinh ra từ đâu, những nữ tướng quân góp nhiều công sức cho đất nước hay những hoàng hậu thống trị hậu cung giúp ổn định hậu cung để vị vua an tâm bình định và phát triển đất nước? Những cống hiến to lớn ấy họ bỏ qua xem như không thấy. Hiện nay các người phụ nữ cũng giống như những người nam họ cũng cống hiến hết mình cho nước nhà. Trong gia đình họ là người vợ đảm đang, là người mẹ hiền với các con. Trong công việc họ tận tâm, tỉ mỉ, phát huy hết tài năng của mình. Nếu như đàn ông có sức mạnh cơ thể, thì phụ nữ có sức mạnh tinh thần. Những người phụ nữ góp phần cho cuộc sống tươi đẹp và hoàn mĩ hơn. Trân trọng và nâng niu những người phụ nữ là hết sức quan trọng, có họ thì tương lai của sự sống nhân loại mới duy trì được
Mẫu 3
Trong xã hội hiện nay, có thể tình trạng " trọng nam khinh nữ " là vô cùng phổ biến. Tình trạng này xảy ra từ thời kì phong kiến ở nhiều nơi trên thế giới. Ở đất nước ta, việc " trọng nam khinh nữ" là một việc trái với đạo đức, đạo lí làm người. Dù là nam hay nữ thì họ cũng là con người , nhưng tại sao nhiều người lại chỉ yêu quý con trai mà ghét bỏ đứa con gái của mình ? Phải chăng con gái không thể làm được việc gì có ích cho gia đình, xã hội chăng ? Nhưng không, ta có thể thấy phụ nữ ta xưa và nay cũng không thua kém gì đàn ông. Họ giỏi việc chăm sóc gia đình,... Nhưng có ai tôn trọng công sức của họ không ? Nếu không có phụ nữ thì tại sao chúng ta có thể được sinh ra. Việc những gia đình, dòng họ không có con cháu trai nối dõi hiện nay vẫn bị xem là tuyệt tự và khi bố mẹ hoặc ông bà chết đi sẽ không có người và nơi thờ cúng là một thực tế. Thế nên phần lớn các gia đình hiện nay vẫn phải cố đẻ cho được con trai. Việc trọng nam khinh nữ không chỉ là việc làm trái với đạo đức mà còn làm rối loạn xã hội, an ninh đất nước. Việc làm này cũng làm phụ nữ tổn thương vô cùng. Vì vậy, chúng ta cần biết tôn trọng những người phụ nữ.
Mẫu 4
Từ xưa đến nay, ông cha ta đã có bao những quan niệm đạo lý hay, giàu ý nghĩa để răn dạy con cháu. Nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại những hủ tục mà quan niệm “Trọng nam khinh nữ” cũng là một trong số đó. “Nam” và “nữ” là đại diện cho hai giới tính khác nhau trong xã hội, nhưng lại được đặt xen kẽ trong hai động từ “trọng” và “khinh”. “Trọng” là quan trọng, là ưu ái, coi là hơn , ngược lại “khinh” là khinh thường, xem nhẹ , không tôn trọng. Như vậy, câu nói trên được truyền từ đời này qua đời khác, đặt ra một quan niệm về sự phân biệt giới tính giữa đàn ông và phụ nữ : Đàn ông mới là những người làm nên việc lớn nên sẽ luôn giữ trọng trách quan trọng, được ưu ái hơn là những người phụ nữ được coi là có địa vị thấp bé, không làm được việc lớn. Vậy thì quan niệm ấy liệu có còn đúng hay không? Trước hết, cần phải hiểu rõ, “trọng nam khinh nữ” là một quan niệm đã có từ rất lâu đời, từ xa xưa, đặt trong bối cảnh xã hội phát triển như hôm nay, thì không thể tránh khỏi sự hạn chế trong cách suy nghĩ, hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Trong các tác phẩm văn học cách đây một vài thập kỷ, ta có thể nhận thấy rất rõ ràng quan niệm này, những người phụ nữ bị chà đạp, khinh thường, chịu nhiều uẩn khúc như nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” hay người con gái trong các bài ca dao xưa “Thân em như dải lụa đào/Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Ông cha ta khi xưa quan niệm nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất, làm việc lớn, nắm vai trò trụ cột, chủ yếu trong gia đình và xã hội. Thế nhưng, trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tôi cho rằng, quan niệm ấy thật sự đã không còn đúng nữa. Có thể, người phụ nữ không được đánh giá cao về sức mạnh như người đàn ông, nhưng ngược lại họ lại có sự kiên cường, bền bỉ và đức hy sinh cao cả không thua kém gì. Rõ ràng có thể nhận thấy biết bao những tấm gương các nữ anh hùng đã bao lần làm rạng danh dân tộc như “kình ngư” Nguyễn Thị Ánh Viên , đội tuyển bóng đá nữ Việt Nam, vua đầu bếp Mỹ Christine Hà,…Nhưng, để bác bỏ đi một quan niệm mà đã có từ bao đời nay, đó không phải là điều dễ dàng. Phụ nữ dù là ở bất kỳ thời đại nào cũng khó mà có thể đạt được sự công bằng thật sự, như tình trạng bạo hành phụ nữ cẫn xảy ra thường xuyên ở Ấn Độ, hay bạo hành gia đình,..Vậy nên, để bác bỏ đi thì khó, nhưng hạn chế nó là điều mà ta cũng có thể thực hiện được. Hãy tôn trọng, yêu thương những người phụ nữ bên cạnh bạn, chia sẻ với họ, đừng khinh thường hay kì thị bất cứ một giới tính gì vì con người sinh ra, ai cũng có quyền được sống và làm điều mình yêu thích. Quan niệm “Trọng nam khinh nữ” có thể không còn phổ biến hiện nay nhưng nó vẫn như một ngọn lửa nhỏ cháy âm ỉ trong mỗi tập thể, mỗi gia đình, mỗi xã hội. Và trách nhiệm để dập tắt ngọn lửa ấy chính là của mỗi người, mỗi cá nhân của cuộc sống này.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 6)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 9)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 3)
Bộ 12 đề kiểm tra giữa học kì 1 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án - Đề 1
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 10)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 1)
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 7)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 8)
Hãy Đăng nhập hoặc Tạo tài khoản để gửi bình luận