Câu hỏi:

04/01/2023 14,241

Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ quan niệm Im lặng là vàng. (10 mẫu)

Quảng cáo

Trả lời:

verified
Giải bởi Vietjack

Dàn ý

I. Mở bài: giới thiệu vấn đề

Trong cuộc sống của chúng ta hiện nay luôn ồn ào và náo nhiệt. con người ngày càng trở nên bận bịu với công việc và học tập. nhưng họ vẫn luôn ồn ào, chính vì thế chúng ta cần có một khoảng thời gian để lặng. dân gian có câu “ im lặng là vàng”, đây là một câu ý khuyên chúng ta phải biết giữ in lặng đúng nơi đúng chỗ và đúng thời điểm.

II. Thân bài

1.    Giải thích thế nào là “ im lặng là vàng”

·        Im lặng là sự giữ im lặng, không làm ồn hay mất trật tự

·        Im lặng có nghĩa là im lặng đúng chỗ và đúng hoàn cảnh chứ không phải là hoàn toàn im lặng

·        Im lặng trong những tình huống giao tiếp căng thẳng, không tham gia vào những cuộc cãi vã không cần thiết.

·        Im lặng đúng chỗ và khi cần thiết được ví là quý như vàng

2.    Bàn luận về câu nói “ im lặng là vàng”

·        Câu nói như lời khuyên quý báu, nhắc nhở mỗi chúng ta cần biết cách im lặng và tránh những va chạm không cần thiết trong cuộc sống. Sự im lặng ở đây cũng có thể mang nghĩa cần thận trọng và chín chắn, suy nghĩ nhiều hơn.

·        Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng im lặng, chúng ta cần lên tiếng phê phán tố cáo những hành vi xấu

·        Cần phải nhận thức rõ tình huống nào cần im lặng và tình huống nào cần lên tiếng

III. Kết bài

·        Liên hệ bản thân

·        Bài học kinh nghiệm từ câu nói “ im lặng là vàng”

 

Mẫu 1

Im lặng là vàng là câu tục ngữ đã xuất hiện từ lâu. Về nghĩa đen mà nói, nó chỉ ra rằng sự im lặng trong nhiều trường hợp có giá trị ngang với vàng – một kim loại rất quý. Về cơ bản, điều này là đúng. Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội hiện tại, rất nhiều người dùng ý nghĩa đó để ám chỉ một hành động khác. Hành động đó là gì? Vì sao họ làm như vậy?

Trong cuộc sống hàng ngày, giao tiếp bằng ngôn ngữ là phương tiện chính để con người hiểu nhau, cùng cộng tác, phát triển và xây dựng xã hội. Nhưng con người là một sản phẩm không hoàn thiện của tạo hóa, và do vậy, không thể tránh khỏi sự xung đột về các quan điểm khác nhau. Trong trường hợp này, ông bà ta đã đúc rút thành câu tục ngữ “Im lặng là vàng”.

Sư im lặng, nhường nhịn là cần thiết để giải tỏa căng thẳng, để các bên có thêm thời gian suy nghĩ, từ đó cùng nhau giải quyết vấn đề. Sự im lặng còn có một ý nghĩa khác, đó là thể hiện thái độ (bao gồm cả thái độ khinh miệt; giận dữ; hối lỗi..) của bản thân. Ở đây, sự im lặng có giá trị ngang với cả ngàn lời nói.

Tuy nhiên, cũng không thể không đề cập đến một khía cạnh khác liên quan đến sự vận dụng một cách tiêu cực câu tục ngữ này trong cuộc sống hiện đại. Sự sợ hãi, sợ trách nhiệm, sợ liên lụy, sợ vất vả, sợ bị trách cứ đã biến các bên tham gia thành những cá thể thụ động. Họ hoặc là tự gật đầu với tất cả các quyết định của cấp trên, làm thinh trước hành động sai trái của bạn bè, đồng nghiệp; làm ngơ trước những bất công mà một thời, họ được dạy rằng phải đấu tranh, phải dũng cảm chống lại nó.

Cuối cùng, những cá thể này, sau một thời gian dài “im lặng’, trở nên tự thỏa hiệp với chính bản thân mình. Đối với họ, sự im lặng trong những trường hợp này cũng được sánh với “vàng”. Nhưng liệu đấy có thật sự là “vàng”?

Cuộc sống vẫn trôi, ngày vẫn lên và tôi vẫn tự hỏi, vì sao chúng ta làm vậy? Tôi không phải là một nhà xã hội học để có thể phân tích chính xác những yếu tố tác động đến ý thức với nguồn dữ liệu cụ thể. Nhưng với trải nghiệm của bản thân, tôi nhận ra rằng chính sự rạn nứt niềm tin trong xã hội chúng ta đang là nguyên nhân chính dẫn đến sự im lặng giả tạo nêu trên.

Mất niềm tin vào xã hội, mất niềm tin vào con người, mất niềm tin vào chính cuộc sống khiến ta nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, nhìn đâu cũng thấy kẻ lợi dụng, và lâu dần, sự yếm thế khiến chúng ta trở nên yếu đuối, lệ thuộc và “im lặng”.

Tôi cũng muốn dẫn lại một câu tục ngữ khác “Lửa thử vàng, gian nan thử sức mạnh”. Vàng muốn thật phải được thử lửa. Niềm tin muốn có phải được thau rửa qua thời gian. Vậy nên, chúng ta hãy im lặng khi thực sự cần thiết, nhưng đừng bao giờ im lặng trước sự bất công, trước những hành động sai trái đi ngược với chuẩn mực của xã hội, trước những tư tưởng cực đoan mưu lợi ích cá nhân. Có vậy, sự im lặng mới là vàng đúng nghĩa. Sự im lặng đó mới thực sự giá trị cho tất cả các bên.

Mẫu 2

Vàng là một thứ quý trên thế gian, người ta vẫn nói: “quý như vàng”. Câu nói “Im lặng là vàng” mang hàm ý khuyên mỗi người trong giao tiếp nên biết giữ im lặng, không nên tự bộc lộ mình hoặc can thiệp vào công việc của người khác, đó mới là khôn ngoan, chín chắn. Sự đúng đắn của quan điểm ấy chúng ta đã từng phân tích, thừa nhận, ca ngợi rất nhiều. Song điều đó có hoàn toàn chính xác? Liệu có phải khi nào im lặng cũng là đúng đắn, tốt đẹp?

Trong cuộc sống, bên cạnh những cái hay cái đúng còn có những quan điểm, lời nói, hành động… sai trái cần lên án, tố cáo. Trong cơ quan, công sở có những kẻ tham ô, hối lộ. Ngoài đường ngoài chợ, có những tên buôn lậu, cướp giật. Trong lớp học, có những hành động tiêu cực trong kiểm tra, đánh giá… Lúc ấy, nếu im lặng tức là đã tiếp tay cho cái ác, cái sai trái hoành hành. Lúc ấy im lặng là vô trách nhiệm, hèn nhát.

Cũng có khi, trên đường có một cụ già đang run rẩy trước dòng người xuôi ngược, trong khi bạn đang lưỡng lự thì đã có một bạn khác nhanh chân hơn giúp cụ qua đường. Vậy là chỉ vì im lặng bạn đã lỡ mất cơ hội làm một việc tốt. Trong lớp học, thầy giáo đưa ra câu hỏi, bạn im lặng tức là đã đánh mất cơ hội để cất lên “tiếng nói của mình”, cơ hội để thể hiện, cơ hội để thử sức. Những cơ hội, thời cơ nếu ta để lỡ thì sẽ mất đi vĩnh viễn. Khi ấy, im lặng là dại dột, ấu trĩ.

Im lặng trong một cuộc thảo luận, tranh luận của tập thể để đi đến thống nhất một vấn đề chung còn nói lên con người bạn nó thiếu quan điểm biết nhường nào. Khi ấy, bạn rất dễ trở thành ba phải trong vô vàn những quan điểm, xu hướng. Như vậy là trong cuộc sống, cần phải biết xác định hoàn cảnh để im lặng hoặc phá vỡ im lặng đúng thời điểm.

Mẫu 3

Ông bà ta có câu “Im lặng là vàng” nhưng trong nhiều trường hợp im lặng không là vàng mà nó phản ánh một thái độ sống thiếu tích cực.

Đôi khi, vì im lặng mà chúng ta vô tình tiếp tay cho cái xấu diễn ra. Thời sinh viên, tình cờ phát hiện được một bạn cùng phòng có thói quen ăn cắp vặt nhưng tôi vẫn im lặng vì nghĩ không liên quan đến mình. Mặc dù cuộc sống chung vô cùng ngột ngạt vì sự nghi kỵ lẫn nhau. Cho đến khi, tôi bị mất hết tiền đóng học phí mới thấy hối hận. Giá như, tôi dũng cảm vạch mặt kẻ gian từ đầu có lẽ mọi chuyện sẽ đi theo chiều hướng khác và tôi không trở thành nạn nhân.

Trong nhiều trường hợp, sự im lặng có thể mang đến những thiệt thòi không đáng có. Trước đây, trong các cuộc họp cơ quan, tôi luôn chọn cách ngồi im, rất ít khi có ý kiến cho dù quyền lợi bản thân bị đụng chạm. Có những việc tôi đúng nhưng vẫn không dám lên tiếng đấu tranh nên luôn thua những người hay ý kiến này nọ. Nhiều lúc, tôi cảm thấy mình bị đồng nghiệp lấn lướt.

Sự im lặng có khi dẫn đến thái độ sống thờ ơ, vô trách nhiệm. Có lần, tôi đưa con đi khám bệnh, một số người không chịu xếp hàng và chen ngang rất khó chịu. Nhưng mọi người ở đó đều không phản ứng gì dù khá bực bội. Mãi đến lúc một bà mẹ trẻ lên tiếng thì trật tự mới được thiết lập lại. Nếu như trước những việc làm tiêu cực, chúng ta đều im lặng nghĩa là đồng lõa với nó sẽ tạo tiền lệ không tốt cho xã hội.

Sự im lặng là cần thiết để giữ hòa khí, tránh xung đột nhưng không nhất thiết lúc nào cũng im lặng. Hãy lựa chọn lời nói và thời điểm thích hợp sẽ tốt hơn nhiều sự im lặng không đúng lúc.

Mẫu 4

Người xưa lấy câu: “Im lặng là vàng” làm bài học nhắc nhở con người về ý nghĩa của lời nói. Trên thực tế, trong dân gian ta đây là câu nói chỉ về sự im lặng, và nó luôn là vàng trong những trường hợp khó khăn. Tuy nhiên, trong các trường hợp nhất định thì câu này có thể sai. Vậy chính xác câu này có phải sai trong một trường hợp nhất định không, hay lúc nào cũng là đúng?

Đầu tiên, vàng là một món quý giá, kim loại quý mà người xưa ta thường so sánh với vàng. Điển hình như “Thời gian là vàng” hay “Im lặng là vàng”. Sự im lặng ấy còn phải đúng lúc đúng chỗ. Sẽ có một số người cho rằng quan niệm này là đúng. Nó đúng thì đúng nhưng cũng chỉ một vài trường hợp nhất định.

Thứ nhất là việc biết kiềm chế bản thân mình khỏi những cơn tức giận khi đang giận ai đó vì họ có thể xúc phạm, lăng mạ, chửi bới mình. Điều đó khiến ta tức giận, nhưng nếu biết kiềm chế cơn giận thì không có hậu quả đáng tiếc xảy ra như việc im lặng.

Bạn thấy rằng trong cuộc sống, có những lúc bạn đi trên đường thì bắt gặp một người nào đó có hành vi xúc phạm, chửi bới, lăng mạ mình, thì đột nhiên bạn lại quay qua mâu thuẫn với họ, nhưng trong lúc không kiềm được cơn tức giận thì bạn lại đổi hành vi là đánh nhau với người đó gây ra một hậu quả khó lường. Nhưng nếu bây giờ bạn im lặng thì sẽ không có chuyện gì xảy ra.

Khi im lặng, có nghĩa là bạn đang xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho người khác cũng như bản thân, nó không gây ra sự đau buồn cho người khác, không gây ra sự chán nản, thiếu tinh thần hoặc khiến họ than phiền cuộc sống của chính họ. Nhờ sự im lặng đó mới khiến họ cảm thấy có động lực, họ cũng có thể coi mình là một phần của cuộc sống, một phần của đất nước và chính bản thân. Sự im lặng cũng thể hiện sự thông minh của bản thân.

Câu trên cũng biểu lộ rằng phải biết im lặng đúng lúc, không nên nói ra những điều sai lầm. Nếu không biết giữ im lặng, nghĩa là bạn đang bộc lộ các phẩm chất của bản thân, thể hiện sự dốt nát, ngu ngốc, hay sự huênh hoang, ngang ngược. Trong những trường hợp tranh cãi dẫn tới đánh nhau thì im lặng là cách tốt nhất để làm dịu đi mọi chuyện.

Sự im lặng thể hiện ra một con người chín chắn, biết cách cư xử hợp lý, cũng như thể hiện ra một con người biết suy nghĩ. Không mắc sai lầm ở đây nghĩa là chuyện bạn phát biểu ra một ý kiến, có thể người khác cho là đúng, nhưng có thể cho là sai bất kể là trường hợp gì đi chăng nữa. Cho nên khi phát biểu ý kiến, cũng phải phát biểu cho đúng hoàn cảnh, còn không thì nên im lặng để tránh sự ảnh hưởng tới bản thân hoặc tập thể. Tóm lại, im lặng trong những trường hợp trên có thể coi như đúng.

Nhưng bạn có biết, đôi khi im lăng là một điều tồi tệ. Nhiều người cũng có ý kiến đó là quan điểm sai. Nó sai ở chỗ này, thứ nhất là im lặng có nghĩa là bạn đang thể hiện sự hèn nhát của chính bản thân, không dám lên tiếng. Nó cũng thể hiện bạn đang tạo ra sự ích kỉ, vô cảm của mình đối với người khác, làm họ cảm thấy tổn thương như kiểu thấy chết mà không cứu. Sự im lặng của người tốt trước nghịch cảnh của người khác cũng chính là một việc làm xấu xa.

Sự im lặng cũng thể hiện tính hèn nhát như bạn ngồi trên xe buýt, có kẻ gian móc trộm tiền có thể của người thân mà bạn không dám lên tiếng vì sợ kẻ đó trả thù, chứng tỏ bạn đang rất hèn nhát cũng như nhu nhược. Nếu cứ im lặng như thế, có nghĩa là bạn tiếp tay cho những kẻ xấu, làm cho đạo đức suy thoái trầm trọng, xuống dốc không phanh.

Cho nên, câu nói đó chỉ nên dùng trong những trường hợp nhất định, không nên lúc nào cũng im lặng. Im lặng cũng thể hiện sự chín chắn, làm bạn cảm thấy trưởng thành, cư xử tốt. Nhưng nó cũng thể hiện sự ngu ngốc, hèn nhát, nhu nhược trong vài trường hợp như một người kế bên bạn quay cóp bài, bạn không khuyên bảo hay nói giáo viên mà cứ im lặng, điều này đồng nghĩa là bạn tiếp tay cho người đó, làm cho cái tật của họ cứ thế mà tái diễn.

Hay là bạn thấy một người làm việc xấu mà không lên tiếng như thấy họ buôn bán ma tuý mà không báo công an hay gì đó, đồng nghĩa là bạn tiếp tay cho kẻ xấu làm những hành vi sai trái đó, làm cho đạo đức đi xuống. Hoặc nếu bạn cứ vì lợi ích, vì đồng tiền mà làm những hành vi sai trái như buôn bán ma tuý, hàng lậu thì cũng đồng nghĩa bạn là kẻ xấu.

Sự lên tiếng cũng cần thiết trong những trường hợp cấp bách chứ không phải lúc nào cũng cứ im lặng như bạn thấy một người nào đó ăn trộm hay giật đồ một người nào đó, bạn báo cho công an thì cũng có nghĩa bạn là một người tốt, thể hiện rằng bạn chính là công dân có ích. Chính vì vậy, không nên lúc nào cũng im lặng như kẻ ngậm miệng ăn tiền, điều đó sẽ tiếp tay cho kẻ xấu, làm đạo đức xuống dốc không phanh.

Im lặng là vàng. Nó có đúng và cũng có sai. Nhưng phải biết im lặng đúng lúc, đúng chỗ thì nó mới có tác dụng. Đầu tiên là biết nói những lời đúng đắn, gọi là “lời hay”. Nói làm sao tạo thiện cảm với người ta, không nói những câu mang tính chất châm biếm hay xúc phạm người khác. Phải biết chia sẻ, cảm thông, động viên người nào đó khi họ khó khăn, không im lặng trong sự vô cảm.

Không nói ra những lời mà có thể khiến một người đang vui vẻ tự nhiên thay đổi sau đó. Vì không phải lời nói lúc nào cũng là đúng, cho nên nói cho thật khôn khéo, đừng nói ra những câu mang những tính chất như xúc phạm cha mẹ của người đó hay lăng mạ. Nó sẽ khiến người đó có cảm giác tức giận, ấm ức trong lòng và trong khoảng đó sẽ không kiềm chế được cảm xúc, rồi gây ra những hậu quả khó lường.

Im lặng thực sự là vàng. Nhưng cũng phải biết im lặng đúng lúc, đúng chỗ. Tuy nhiên, không phải lúc nào im lặng cũng là vàng. “Trong thế giới này chúng ta không chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà còn cả vì sự im lặng đáng sợ của người tốt” (Martin Luther King)

Mẫu 5

Ca dao xưa có câu:

Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe

Ngay từ xa xưa con người đã có thước đo đánh giá giá trị, nhân phẩm người khác qua lời ăn tiếng nói. Mỗi người lựa chọn cho mình một cách nói chuyện, cư sử riêng: Có người ăn to nới lớn, có người nói chuyện như rót mật vào tai, cũng có người chọn cách im lặng. Vậy: ”im lặng là vàng” có thực sự là cách cư sử phù hợp trong mọi hoàn cảnh hay không?

Trước tiên, ta hiểu rằng im lặng là cách lựa chọn không bày tỏ thái độ, ý kiến hay hành động gì trước một sự việc nào đó. Trái ngược với im lặng chắc hẳn là bày tỏ ý kiến, thái độ rõ ràng với sự việc xảy ra. “Vàng” là một kim loại có giá trị cao. Người ta cho rằng im lặng là vàng bởi vì: khi im lặng con người sẽ tránh được những mâu thuẫn không đáng có. Bằng cách không bày tỏ ý kiến thái độ của mình thì không ai có thể hiểu được điều mình muốn là gì. Đồng nghĩa với việc không ai có thể gây bất lợi cho mình.

Có nhiều trường hợp trong cuộc sống mà con người bày tỏ sự im lặng. Có người từng nói: im lặng đồng nghĩa với việc không có gì để nói hoặc không biết phải nói như thế nào. Cũng có trường hợp im lặng là để bảo vệ lợi ích, bảo vệ bản thân.

Trong nhiều trường hợp: Im lặng quả thật khiến chúng ta tránh xa được rắc rối. Trong một số bài học dạy kĩ năng mềm có giới trẻ còn sử dụng câu nói: “Nói là bạc, im lặng là vàng, lắng nghe là kim cương”. Cứ hiểu đơn giản, khi một nhóm người tụ tập nói xấu một ai đó: chúng ta chỉ nghe và im lặng sẽ là lựa chọn tối ưu nhất. Im lặng để tránh rắc rối và để tự suy nghĩ xem những điều mà mỗi người đưa ra về người kia có thực sự đúng hay không?

Trong các cuộc cãi vã lên đến đỉnh điểm, chúng ta càng kéo dài cuộc nói chuyện sẽ càng gay tổn thương cho cả hai bên. Lúc này im lặng là để cả hai cùng bình tĩnh lại bảo vệ mối quan hệ, tìm một thời điểm phù hợp hơn để giải quyết vấn đề. Có khi chúng ta không hiểu rõ về một vấn đề nào đó, hay một ai đó, lại đi phát ngôn bừa bãi, đưa ra những quan điểm chưa chính xác, không chọn lọc thì chúng ta sẽ bị mọi người xa lánh, phê phán.

Tuy nhiên không phải lúc nào im lặng cũng là sự lựa chọn tối ưu, đâu cứ phải: “im lặng là vàng”, khi chúng ta hiểu rõ một vấn đề, biết đâu là nguy hiểm lại không nhắn nhủ mọi người để họ biết mà tránh thì đó là: ích kỷ, cá nhân. Trong cuộc sống gia đình, im lặng phần lớn đồng nghĩa với vô tâm, thiếu tình thương và chia sẻ.

Với tình yêu, sự im lặng sẽ càng làm gia tăng sự tổn thương cho người mà ta yêu quý. Không chỉ có thế, khi ta hiểu rõ người khác làm sai, lại không can ngăn thì trở thành người vô đạo đức. Hay nhiều khi bản thân ta cần có người san sẻ khi gặp chuyện khó khan, bế tắc trong cuộc sống thi giao tiếp với mọi người là cách duy nhất để giải tỏa.

Có nhiều cuộc tranh luận ở một thời điểm nào đó, chúng ta cần thẳng thắn, đối điện với đối phương để bày tỏ quan điểm của mình, nếu cả hai bên cùng không nói, có khi mâu thuẫn càng tăng lên chứ không giảm đi. Hơn nữa, có trường hợp chúng ta biết có tội ác đã diễn ra nhưng im lặng thì vô tình ta trở thành đồng phạm và phải đứng trước bản án lương tâm cũng như pháp luật. Nhiều vụ án thương tam xảy ra trong thời gian qua cũng vì con người chúng ta luôn im lặng, bày tỏ thái độ thờ ơ.

Có những sự việc sẽ không trở nên rắc rối hơn nếu chúng ta chịu mở lòng, trao đổi và chia sẻ với nhau. Nhiều khi sự im lặng không phải là tốt mà là trở thành sự đồng lõa, cổ vũ âm thầm cho cái xấu hoành hành. Bởi lẽ trong xã hội hiện đại: xã hội ngày càng tệ đi không phải vì sự gia tăng của kẻ xấu mà bởi vì sự im lặng của những người tốt. Im lặng là để lắng nghe, để suy xét mọi việc một cách thấu đáo hơn chứ không phải là vô tâm, vô cảm.

Qua những điều trên, chúng ta thấy rằng:’ im lặng là vàng” không thực sự đúng trong mọi trường hợp. Sự im lặng không sai nhưng nó chỉ hiệu quả khi chúng ta xác định rõ hoàn cảnh và vấn đề. Trong cuộc sống, con người cần tự nhận thức được vấn đề của mình và lựa chọn cách cư xử, bày tỏ thái độ sao cho phù hợp nhất. Còn bạn thì sao? Đứng trước vấn đề của mình: bạn lựa chọn im lặng hay lên tiếng?

Mẫu 6

Trong cuộc sống, giao tiếp là phương thức để kết nối giữa con người với con người. Giao tiếp là một phần quan trọng của cuộc sống, chính vì vậy, các yếu tố thuộc về giao tiếp là một phần quan trọng của cuộc sống. Giao tiếp gồm nhiều hình thức, nói chuyện cũng là một trong số những hình thức của giao tiếp. Nói chuyện là biểu hiện căn bản của giao tiếp.

Giao tiếp bằng nói chuyện, trò chuyện là cần thiết, song không phải lúc nào việc nói chuyện, trò truyện cũng là tốt, có những lúc con người cần phải im lặng cần lắng nghe nhiều hơn là chuyện trò, như câu nói: “im lặng là vàng”

Trong cuộc sống, người giao tiếp tốt là người có lợi thế trong mọi công việc. Người giỏi trong lĩnh vực này thường gặt hái được nhiều thành công, song trong những tình huống, chưa chắc người nói giỏi, người giỏi thuyết phục cũng là những người thành công, bởi có những câu chuyện lại không nhát thiết sử dụng. Tùy vào hoàn cảnh mà người nói cần biết nhấn nhá, biết dừng đúng lúc. Tuy nhiên, có những lúc, con người cần phải hiểu được và vận dụng được quy tắc: “Im lặng là vàng”.

Trong một só trường hợp, người nói cần phải tinh ý, biết đâu là điểm dừng trong cuộc nói chuyện để bắt được “Vàng”. Trong cuộc sống, “im lặng là vàng” là nghệ thuật sống, người nắm được quy luật này là người nắm được chìa khóa thành công.

Tại sao nói “Im lặng là Vàng”? Khoa học đã giúp ta chứng minh câu nói này. Trước hết, im lặng giúp con người có thời gian để lắng nghe, cảm nhận, thấu hiểu xung quanh. Khi hiểu được người xung quanh hoặc đối tác của cuộc nói chuyện, cuộc đàm phán, có thể “Biết địch biết ta” nắm được điểm mạnh, điểm yếu của đối phương để có lý luận cho bản thân.

Trong khi lắng nghe sẽ hiểu được đâu là lỗ hổng, không phải cứ nói nhiều là biết nhiều, người biết nhiều là người biết dừng ở đâu, lắng nghe ở đoạn nào. Thứ hai, im lặng giúp não nộ tập trung và làm việc có hiệu quả nhất. Im lặng là cách nhanh nghĩ ra ý tưởng nhất, vì não bộ sẽ hoạt động tích cực nhất. Im lặng và tránh xa những ồn ào của cuộc sống là cách con người thư giãn tốt nhất, để làm việc có hiệu qảu nhất.

Trong cuộc sống, biết cách im lặng, biết cách lắng nghe là cần thiết, người thông minh sẽ luôn biết điểm dừng của mình. Im lặng khi cãi vã không phải do mình không đủ khả năng lý luận lại, mà im lặng là để đối phương thấy rằng nên giảm sự tức bực và nóng giận của bản thân mình xuống, cuộc tranh luận nên dừng lại, tranh luận không để tìm ra ai đúng ai sai, mà cả hai đều là người đúng. Im lặng giúp đối phương nhận ra trong lý luận của bản thân còn thiếu gì và cần gì.

Im lặng cũng cần thiết, nó là cách mà người thông minh làm khi an ủi người khác. Im lặng không phải do bản thân không biết nói gì, mà im lặng là để cảm thông để thấu hiểu người bên cạnh. Im lặng cũng là thông điệp đối với người đang có chuyện buồn. Im lặng là cách để nỗi buồn giảm đi một nửa.

Sự im lặng vừa giúp cho bản thân thập chung, mà lại không làm ảnh hưởng đến người khác. Im lặng là sự tôn trọng của bản thân đến người khác. Im lặng giúp con người tập chung suy nghĩ và thư giãn hơn. Im lặng cũng là cách để tránh tạo ra ấn tượng không tốt, ấn tượng sấu khi nói nhiều hoặc nói xa trọng tâm, lỗi diễn đạt. Im lặng cũng là cách tránh những vấn đề rắc rối, không đúng chuyên môn của mình.

Khi tức cg nhau. Không đề cao, hạ thấp ai quá trong cuộc sống cũng là một lợi thế của im lặng. Sự im lặng có giá trị rất lớn, giúp con người ta trưởng thành hơn trong cuộc sống của mình. Im lặng tạo cơ hội cho bản thân. Khi này, câu nói: “Im lặng là vàng” quả là đúng, im lặng đổi lại cho ta tránh khỏi cuộc cãi vã, thời gian để suy nghĩ, nghỉ ngơi,..

Trong cuộc sống, im lặng là cần thiết nhưng không phải lúc nào con người cũng nên đề cao sự im lặng sang trọng của mình. Im lặng đúng lúc, đúng hoàn cảnh mới là cần thiết. Im lặng không phải là sự nhẫn nhịn, im lặng là cách tạo chân rết, tạo đà cho mình. Im lặng thực sự là cần thiết, song im lặng không phải lúc nào cũng tốt. trước bất bình của xã hội, sự im lặng của con người sẽ dẫn đến vô tâm, vô cảm thì thật là thảm họa.

Chúng ta trong xã hội hiện đại cần cho mọi người biết suy nghĩ của bản thân, không sống mờ nhạt, a dua theo thời đại mà phải có chính kiến rõ ràng. Nói được, làm được là một trong những tiêu chí hiện nay. Con người ngày một thờ ơ, vô cảm trước xã hội, chính vì vậy, con người cần khẳng định mình, cần phải có chính kiến rõ ràng. Qua đây có thể thấy, “Im lặng là vàng” là một câu nói hoàn toàn đúng. Im lặng còn thể hiện sự lịch sự của con người. Im lặng là cách tiếp thu học hỏi nhanh nhất trong cuộc sống.

Mẫu 7

Vàng được coi là một loại trang sức, kim loại vô cùng quý hiếm, chính vì vậy mà những thứ gì quý giá người xưa đều so sánh với vàng nhằm thể hiện sự quý giá của nó như “Thời gian là vàng” hay “Im lặng là vàng” nhằm thể hiện việc quan trọng của việc im lặng đúng lúc đúng chỗ.

Câu nói của người xưa “Im lặng là vàng” nhằm thể hiện việc chúng ta cần thiết phải biết giữ im lặng đúng nơi đúng chỗ, không nên can thiệp quá sâu vào công việc của ai đó, hoặc dốt nhưng lại thích thể hiện huênh hoang, nói nhiều càng lộ ra sự ngu dốt, thiếu học của mình, hoặc trong trường hợp gây gổ tranh cãi nổi nóng thì sự im lặng lại làm cho mọi việc tốt hơn.

Im lặng là vàng nhằm khuyên nhủ con người nên biết ứng xử trong những tình huống khác nhau nhằm cư xử cho hợp lý, thể hiện thái độ chín chắn trưởng thành của một con người hiểu biết, có suy nghĩ. Sự đúng sai trong quan điểm cần phải được phân, cần phải suy xét trong từng trường hợp cụ thể, để có thể đúc kết kinh nghiệm trong cuộc sống.

Tuy nhiên trong cuộc sống không phải lúc nào chúng ta cũng im lặng, cũng không đưa ra ý kiến của mình chính là tốt đẹp, là vàng. Đôi khi có những trường hợp cụ thể nếu chúng ta im lặng là thể hiện sự hèn nhát, nhu nhược giống những việc chúng ta nhìn thấy bạn mình quay bài nhưng không dám lên tiếng khuyên can, rồi để bạn lún sâu vào việc làm sai trái đó.

Hoặc việc chúng ta đi trên xe buýt nhìn thấy kẻ gian móc túi người khác nhưng không phải người thân bạn bè của mình nên chúng ta im lặng vì sợ tên người xấu kia trả thù mình. Sự im lặng này chính là hành động tiếp tay cho kẻ ác, để chúng có cơ hội hoành hành và hoạt động mạnh mẽ hơn, làm cho xã hội trở nên náo loạn mất an ninh trật tự xã hội.

Câu nói “im lặng là vàng” là lời khuyên quý báu nhưng chỉ sử dụng trong một số hoàn cảnh phù hợp. Nó nhằm khuyên mỗi chúng ta cần phải im lặng, kìm chế bản thân tránh những sự va chạm không cần thiết trong cuộc sống. Nó còn thể hiện sự chín chắn suy nghĩ cẩn trọng của mỗi con người trước những câu nói mang tính châm chọc, kích bác.

Tuy nhiên, nếu nhưng lúc nào chúng ta cũng nghĩ tới lợi ích của mình mà im lặng, không tố cáo lên tiếng nói của bản thân về những hành vi xấu xa trong cuộc sống thì chúng ta thật sự là người xấu, tiếp tay cho cái xấu. Hoặc khi chúng ta nhìn thấy người khác làm việc xấu, nhưng được họ nhờ vả hoặc biếu xén vật chất để giữ im lặng thì chúng ta đã trở thành kẻ tiếp tay cho người xấu, cho điều ác hủy hoại giá trị nhân văn, đạo đức trong cuộc sống của chúng ta.

Chính vì vậy, mỗi chúng ta cần phải nhận thức rõ nên im lặng và lên tiếng trong tình huống cụ thể nào, không nên là kẻ ngậm miệng ăn tiền, rồi im lặng cho cái xấu cái ác hoành hành trong xã hội làm cho đạo đức con người trở nên suy thoái, xuống dốc.

Trong cuộc sống của con người bên cạnh những cái hay cái đúng còn rất nhiều những lời nói quan điểm, hành động sai trái cần phải được toàn thể xã hội lên án, tố cáo. Trong trường học thì có tệ nạn quay cóp, bệnh thành tích, trong cơ quan nhà nước thì có hành vi tham ô, tham nhũng, hối lộ, chỉ coi trọng con ông cháu cha không coi trọng người hiền tài…

Ngoài cuộc sống những nơi đông đúc như chợ, xe bus, thì có những tên móc túi, trộm cướp, cò mồi lừa đảo… tất cả những hành vi xấu xa đó cần được con người lên án để làm sạch cuộc sống là cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.

Sự lên tiếng của chúng ta thể hiện hành vi có trách nhiệm với xã hội còn nếu không lên tiếng thể hiện hành vi hèn nhát, thiếu tinh thần trách nhiệm của một công dân với đất nước. Sự lên tiếng này đòi hỏi chúng ta phải có lòng dũng cảm, dám đối đầu với cái sai trái trong cuộc sống xã hội. Hành động im lặng chính là tiếp tay cho cái xấu làm cho xã hội đi xuống, tụt lùi khỏi ngoài luồng sống văn minh của nó.

Khi chúng ta im lặng trong một cuộc thảo luận, một buổi tranh luận để đưa tập thể đi lên mà chúng ta lại chỉ im lặng thế nào cũng được thể hiện sự thiếu trách nhiệm với tập thể, chưa hoàn thành hết nhiệm vụ của mình. Khi đó bạn trở thành người ba phải, không có chút ý kiến nào trong cuộc sống, không có chính kiến của riêng mình mà chỉ là người gió chiều nào xoay chiều ấy không được người khác coi trọng.

Chính vì vậy, trong cuộc sống cần phải biết cân bằng giữa im lặng và lên tiếng phá vỡ im lặng khi cần thiết, không phải lúc nào sự im lặng cũng là vàng cần phải biết cân nhắc tùy hoàn cảnh mà sử dụng quyền im lặng của mình.

Mẫu 8

Im lặng là một thuật ngữ thu hút sự quan tâm chú ý của rất nhiều người hiện nay. Tuy nhiên, mỗi người hiểu theo một cách khác nhau. Mỗi khái niệm được nêu ra với những góc nhìn khác nhau, và do vậy nội hàm của khái niệm này cũng rất khác nhau.Dưới phương diện giao tiếp thì ta có thể định nghĩa cụm từ im lặng như sau: “Im lặng là sự nín nhịn, chịu đựng trong những tình huống giao tiếp căng thẳng, không tham gia vào những cuộc cãi vã không cần thiết”.

“Im lặng là vàng” – Câu tục ngữ trước hết là lời khuyên quý báu nhắc nhở mỗi con người nên biết cách im lặng tránh những va chạm không cần thiết. Người xưa có câu: “Học nói thì chỉ mất hai năm, nhưng học im lặng thì phải mất cả đời!” và đó cũng là lý do mà mỗi người có hai cái tai để nghe nhưng chỉ có một cái miệng để nói.

Khi mâu thuẫn đến, mỗi lời nói ra trong lúc không kiểm soát đều có thể trở thành những lưỡi dao gây tổn thương người khác. Bởi vậy, im lặng đôi khi còn giá trị hơn cả vạn lời nói…Dĩ nhiên, có phải trong tất cả tình huống, sự im lặng đều là vàng? Có nên im lặng trước cái ác, cái xấu; có nên im lặng trước cường quyền hay có nên im lặng trong các cuộc tranh luận khi mình có những suy nghĩ chín chắn, khách quan về vấn đề đó…

Trong các tình huống đó mà mình im lặng tức là mình đánh mất bản thân và đang thỏa hiệp với cái ác, cái xấu. Vậy trường hợp nào nên im lặng? Pythagos từng nói: “Im lặng là cấp độ cao nhất của sự khôn ngoan. Ai không biết im lặng là không biết nói”. Còn Martin Luther King Jr lại phát biểu: “Cuộc sống chúng ta bắt đầu chấm dứt ngay trong cái ngày mà chúng ta giữ im lặng trước những vấn đề hệ trọng”.

Im lặng là cấp độ cao nhất của sự khôn ngoan của con người trong cuộc sống. Từ nền tảng của sự im lặng khôn ngoan đó, con người sẽ biết nên nói lúc nào và nói những gì. Im lặng là không nên nói trong những lúc không cần thiết vì lời nói đó có thể đem lại tai họa cho bản thân hoặc làm tổn hại đến người khác.

Im lặng là một cách xử thế khôn ngoan vì: Im lặng để giữ bí mật cho quốc gia, cho công việc, cho một ai đó. Im lặng để lắng nghe người khác, để học hỏi, để thể hiện sự tôn trọng. Im lặng thể hiện sự điềm tĩnh, suy nghĩ chín chắn, nhận thức bản thân, cuộc sống trước khi nói hay hành động. Im lặng để giữ hoà khí trong những xung đột, va chạm.

Im lặng còn là một cách thể hiện thái độ đồng tình hay phản đối trước một vấn đề nào đó. Im lặng để đồng cảm sẻ chia với những nỗi đau của người khác. Im lặng để cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống quanh mình, để di dưỡng tâm hồn. Im lặng còn là yêu thương, tha thứ, và là cuộc sống! Hãy nhớ rằng im lặng đôi khi lại là câu trả lời tốt nhất.

Im lặng là vàng lắng nghe là kim cương. Có thực sự vậy

Mẫu 9

Im lặng là vàng. Xét ở góc độ tích cực, im lặng ở đây chỉ thái độ bình tĩnh, ôn hòa của con người trong những tình huống, hoàn cảnh có vấn đề gay cấn, khó xử. Trước một sự việc nào đó, ta cần có thái độ điềm tĩnh, chớ vội vàng, nóng nảy. Chẳng hạn trước sai sót, khuyết điểm của bạn bè, nếu ta phê bình kiểu “đao to búa lớn”, thì sẽ làm cho bạn tự ái khó tiếp thu, thậm chí phản ứng lại.

Trong gia đình hay đối với lối xóm, khi một người nào đó đang bực tức, nóng giận thì ta không nên “đổ thêm dầu vào lửa”. Thái độ im lặng của ta sẽ làm cho người đối thoại bình tĩnh lại, bớt giận, dần dần nhận ra lầm lỗi của mình. Hoặc giả đối với một người do sơ suất, vô tình phạm khuyết điểm, nếu ta biết bỏ qua với lòng vị tha, chắc chắn người đó sẽ cảm phục mà tìm cách sửa chữa.

Tuy nhiên, xét theo mặt khác thì im lặng không thể là vàng vì bản chất cuộc sống là vận động, đấu tranh và phát triển. Nếu trước một sự việc hiện tượng xấu xa mà ai cũng im lặng thì đó là thái độ “vô cảm”. Người xưa có câu: Con đường dẫn tới cái ác thường là người tốt không làm gì cả. Đối với những điều tích cực, chúng ta cần bênh vực, cổ vũ. Đối với cái tiêu cực cần phê phán, bác bỏ. Nếu cứ giữ im lặng thì đó là biểu hiện của tính cách thụ động, xu thời của loại người “mũ ni che tai”, cố thu mình lại trong cái vỏ ốc vị kỉ.

Thực tế cuộc sống đã chứng minh có những kẻ sống theo kiểu im lặng tiêu cực, uốn mình gió chiều nào che chiều ấy, sợ sệt, né tránh, ngại va chạm, cầu an. Chẳng hạn vừa qua ở Hà Nội có cô gái giúp việc bị vợ chồng chủ quán đánh đập tàn bạo suốt 13 năm trời, vậy mà trong ngõ xóm không ai dám tố cáo, vạch mặt bọn người độc ác vì ngại dây dưa rắc rối. Rất may có bà cụ 72 tuổi đã dũng cảm tìm cách cứu cô gái. Bà cụ không thể im lặng mãi trước sự lộng hành của cái ác cho nên các ác đã bị phơi bày.

Câu châm ngôn nói trên mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Nó giáo dục con người bằng những hình ảnh cụ thể, giản dị và cách diễn đạt mộc mạc, nhẹ nhàng. Ý nghĩa sâu xa của nó nhắc nhở chúng ta cần có cách ứng xử linh hoạt, mềm mỏng, văn minh và không nên vô trách nhiệm, quay lưng trước cuộc sống. Chúng ta phải biết bênh vực lẽ phải, lên án cái xấu và mạnh dạn, chủ động đóng góp ý kiếm tìm giải pháp cho những vấn để phức tạp của gia đình, cơ quan và xã hội. Đó là nhân sinh quan đúng đắn, là đạo lí của mỗi con người chân chính.

Mẫu 10

Điều gì tạo nên sự đặc biệt và sai khác nhất giữa con người với muôn loài? Có lẽ, chính nằm ở tiếng nói. Ngôn ngữ, là sản phẩm sáng tạo của con người từ ngàn đời nay, qua lưu truyền và đúc kết, dần dần trở nên phong phú và phức tạp, ngôn ngữ là thứ duy nhất khiến ta gắn kết và cảm thông cho nhau một cách trực tiếp và đơn giản nhất, chính vì vậy trong cuộc sống mỗi cá nhân, ngôn ngữ là điều tối quan trọng. Nhưng, liệu ta có thể vận dụng điều đó?

Hay có những lúc ta nên chọn cách im lặng để giải quyết vấn đề? Bàn về điều này có ý kiến của Pythagos từng nói: “im lặng là cấp độ cao nhất của sự khôn ngoan. Ai không biết im lặng là không biết nói” và cũng có câu: Im lặng là vàng.

Cuộc sống là sự tổng hòa hai chiều của mỗi cá nhân, mỗi người có một cơ chế quan điểm và ý kiến riêng. Khó có ai mà bất kì ý kiến suy nghĩ nào đều giống nhau và không có bất đồng. Cuộc sống phức tạp, lời nói quan trọng, mà ông cha ta cũng từng khuyên dạy: “Lời nói chẳng mất tiền mua lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, chính vì lời nói quan trọng, nên đôi khi ta không lựa chọn lời nói để giải quyết mọi vấn đề, mà đôi lúc còn phải dựa vào sự im lặng của chính mình: “im lặng là cấp độ cao nhất của sự khôn ngoan.

Ai không biết im lặng là không biết nói” câu nói hết sức khôn ngoan của Pythagos đã nêu bật một khía cạnh khác của lời nói. Chính vì lời nói là điều quan trọng và cần thiết, dẫn đến việc nó sẽ có tác dụng hai chiều, như con dao hai lưỡi, nếu không biết sử dụng sẽ dễ dàng bị thương. Vì sao im lặng được coi là cấp độ cao nhất của khôn ngoan?

Bởi, khôn ngoan không chỉ thể hiện ở lời nói, mà còn là cách ta biết kiềm chế nó, biết lúc nào nên nói và lúc nào nên im lặng bỏ qua. Im lặng là cách lựa chọn khôn ngoan ở đây, bởi trong cuộc sống có nhiều vấn đề phức tạp, khi lời nói trở nên không cần thiết thì ta nên chọn lựa việc im lặng, tránh để lời nói đó đem lại hậu quả cho bản thân.

Hai câu nói vô cùng đúng đắn và cần thiết, không có ý kiến nào sai, mà hai ý kiến đã bổ sung và tổng hòa cho nhau. Cho ta hiểu hơn về tầm quan trọng của lời nói và sự cần thiết của im lặng. Hai hành động “lời nói” và “im lặng” phải được tổng hòa trong nhau, đan cài vào nhau để trở nên linh hoạt và chủ động một cách khôn ngoan. Ta nên học cách im lặng để có thể thấu hiểu với nỗi đau, niềm vui của người khác.

Học cách im lặng để tránh xảy ra va chạm xung đột, im lặng với những vấn đề quốc gia hệ trọng, im lặng để thể hiện sự điềm tĩnh và thái độ chín chắn của bản thân. Và, hãy biết lên tiếng, để đấu tranh chống lại cái ác và cái xấu, lên tiếng cho cái tốt cái ác bị chà đạp, hãy lên tiếng để bày tỏ yêu thương và sự sẻ chia quan tâm, và hãy cất tiếng nói để tạo ra niềm vui và mang lại nụ cười hạnh phúc cho mọi người.

Như những chương trình thời sự, cung cấp thông tin đến người dân. Những vụ án giết người, cướp của, cần lên tiếng nói để đấu tranh chống lại cái ác, giành lại cái thiện…

 

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

Dàn ý

1. Mở bài:

- Giới thiệu thói quen mà người viết chuẩn bị thuyết phục người khác từ bỏ: quan niệm coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn.

2. Thân bài:

- Nêu ra biểu hiện:

Thiếu tôn trọng, nhìn người nghèo khổ bằng đôi mắt khinh thường.

Đối xử phân biệt.

- Nguyên nhân:

Nhận thức sai lệch và bản chất hẹp hòi, ích kỉ.

Cho rằng việc giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn không phải là nghĩa vụ và trách nhiệm của bản thân mình.

- Tác hại của quan niệm coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn:

Khiến họ tự ti, mất niềm tin vào cuộc sống.

Tạo khoảng cách trong xã hội.

- Nêu lên lợi ích khi từ tỏ quan niệm này:

Sống bao dung hơn, biết chia sẻ với người khác.

Đem đến cho chúng ta nhiều bài học và suy ngẫm về cuộc sống.

- Giải pháp để từ bỏ quan niệm coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn.

3. Kết bài:

- Khẳng định ý nghĩa của việc từ bỏ quan coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn.

Mẫu 1

Những người có hoàn cảnh khó khăn là người phải chịu nhiều nỗi đau khổ và bất hạnh trong cuộc sống. Thay vì giúp đỡ họ, một bộ phận người lại tỏ ra kì thị, coi thường. Lâu dần, thái độ, suy nghĩ ấy phát triển thành quan niệm ăn sâu vào tiềm thức của không ít người trong xã hội hiện nay.

Coi thường người có hoàn cảnh khó khăn là thái độ thiếu tôn trọng, khinh mạt người có điều kiện và mức sống thấp hơn mình. Những người này thường đặt mình ở vị trí tối cao, thượng đẳng trong xã hội để nhìn cuộc đời bằng con mắt khinh bỉ, thiếu tôn trọng người khác. Thực tế cuộc sống không thiếu những câu chuyện đau lòng về cách con người đối xử với nhau. Cùng đi vào một cửa hàng, nhưng những người mặc quần áo tuềnh toàng, đi xe rẻ tiền lại không được săn đón và chăm sóc nhiệt tình bằng người đeo túi hiệu, ngồi xe hơi.

Nguyên nhân dẫn đến hành động, quan niệm này bắt nguồn từ nhận thức sai lệch và bản chất hẹp hòi, ích kỉ của một bộ phận người. Họ cho rằng bản thân không có nghĩa vụ phải chăm lo, trợ giúp mà công việc ấy thuộc về xã hội, nhà nước và chính phủ sẽ có trách nhiệm trợ cấp cho người có hoàn cảnh khó khăn. Lối sống thờ ơ, vô cảm đã khiến họ dửng dưng trước sự khổ cực của người khác.

Quan niệm coi thường người có hoàn cảnh khó khăn không chỉ cho thấy sự yếu kém và lối sống vị kỉ của một số người mà còn ngăn trở những người yếu thế này tiếp cận với điều tốt đẹp trong xã hội. Khi gặp những người kì thị, lăng mạ, sỉ nhục mình, họ luôn thấy mặc cảm, tự ti và mất đi niềm tin vào cuộc sống. Xã hội vì thế mà cũng dần trở nên xa cách.

Vì lẽ đó, chúng ta cần thay đổi và từ bỏ quan niệm coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn. Việc từ bỏ quan niệm coi thường người nghèo khổ sẽ cho ta cái nhìn cởi mở hơn về những người vốn dĩ đã "thấp cổ bé họng". Ta nên cảm thông, đồng cảm trước nỗi đau khổ của người khác. Thái độ tôn trọng người kém may mắn giúp họ dễ dàng vượt lên chính mình và nỗ lực không ngừng vào sự phát triển chung của xã hội, đất nước. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, có rất nhiều tấm gương nghèo vượt khó. Họ đã bỏ lại bóng tối sau lưng để tiến về ánh mặt trời. Đó là người nông dân Lâm Văn Chánh, ngụ ở ấp Mỹ Đức, xã Thiện Mỹ, huyện Châu Thành. Trước đây, ông từng thuộc diện hộ nghèo do xã quản lí. Đến năm 2016, được sự hỗ trợ của nhà nước, ông đã vay vốn và phát triển mô hình sản xuất theo Chương Trình 135. Sau hơn 3 năm làm việc chăm chỉ, cật lực, tính đến năm 2019, ông đã tự nguyện xin thoát nghèo và đóng góp vào công cuộc xây dựng nông thôn mới tại địa phương. Có thể nói, ông chính là tấm gương tiêu biểu của người nghèo vượt khó.

Rõ ràng, những người có hoàn cảnh khó khăn vẫn đang từng ngày từng giờ vươn lên khẳng định mình. Để từ bỏ quan niệm coi thường người có hoàn cảnh khó khăn, chúng ta cần hướng tới cái nhìn khách quan, công nhận nỗ lực của người khác. Ai cũng có quyền được sống và khát khao về một cuộc sống no ấm, đủ đầy. Chính vì thế, mỗi người hãy nâng cao nhận thức bản thân và san sẻ, trao đi yêu thương thông qua hành động thiết thực. Hàng năm, rất nhiều những chương trình thiện nguyện được tổ chức. Đây là cơ hội để mỗi người đóng góp nguồn lực nhỏ bé của mình để lan tỏa giá trị nhân văn và cải thiện chất lượng sống cho những người nghèo khổ trong xã hội.

Mẫu 2

Từ xa xưa, ông cha ta đã dạy rằng:

"Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước thì thương nhau cùng"

Bên cạnh những con người nhân hậu, sẵn sàng giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn thì vẫn còn không ít cá nhân tỏ ra kỳ thị, coi thường họ. Suy nghĩ, hành động ấy đã tạo thành một quan niệm xấu xí trong cuộc sống hiện nay.

Ngoài xã hội, có vô vàn những mảnh đời bất hạnh, éo le. Thay vì đưa tay giúp đỡ, một bộ phận không nhỏ lại tỏ thái độ coi thường, kỳ thị. Họ sẵn sàng buông lời cay nghiệt, hành động thiếu tôn trọng với người có hoàn cảnh khó khăn. Những cá nhân này luôn ở trong tâm thế "cao cao tại thượng", coi mình là nhất, nhìn mọi thứ bằng con mắt khinh khỉnh. Khi thấy người vô gia cư ở trước nhà, vài người còn nhẫn tâm xua đuổi, chửi bới. Từ đây, người với người dần trở nên xa cách, bệnh vô cảm, ích kỉ sẽ bao trùm cả cộng đồng.

Nguyên nhân dẫn đến quan niệm này xuất phát từ chính bản thân một số người. Họ mang trong mình suy nghĩ phiến diện, sai lệch. Họ cho rằng xã hội, nhà nước hay chính phủ phải thực hiện trách nhiệm với người có hoàn cảnh khó khăn. Thậm chí, họ thấy việc giúp đỡ người khác là tốn kém, không đem tới lợi ích. Lối sống ích kỉ, nhỏ nhen in sâu trong máu đã biến các cá nhân này thành kẻ vô cảm, lạnh lùng.

Những người có hoàn cảnh khó khăn cũng là người bình thường giống chúng ta. Đứng trước lời lăng mạ, xúc phạm hay ánh mắt khinh bỉ, họ dễ dàng bị tổn thương. Họ sẽ cảm thấy mặc cảm, tự ti với chính bản thân mình. Niềm tin vào cuộc sống của họ chưa kịp thắp sáng thì đã vụt tắt bởi lời nói, hành động "vô duyên".

Từ bỏ quan niệm coi thường người có hoàn cảnh khó khăn sẽ mang đến rất nhiều lợi ích tốt đẹp. Trước hết, không ai bị bỏ lại phía sau. Khoảng cách giữa người với người được rút ngắn. Tình trạng kỳ thị, coi thường hay khinh rẻ được thay thế bởi các hành động nhân văn, tích cực. Đặc biệt, chúng ta sẽ rèn luyện và bồi dưỡng nên tấm lòng yêu thương, nhân hậu, biết cho đi nhiều hơn. Người có số phận bất hạnh cũng trở nên tự tin, biến động lực thành sức mạnh để vươn lên trong cuộc sống. Theo dõi chương trình "Việc tử tế", bạn sẽ thấy rất nhiều em nhỏ được tiếp tục đến trường, đời sống cải thiện rõ rệt. Tất cả những điều đó đều đến từ sự quan tâm, giúp đỡ của các cá nhân trong cộng đồng, của vô số mạnh thường quân.

Mẫu 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.". Chúng ta hay những người có hoàn cảnh khó khăn để xứng đáng được sống hạnh phúc, êm ấm. Bởi vậy, chúng ta cần lên án và gạt bỏ quan niệm này ngay từ bây giờ. Để làm được việc này, mỗi người phải nhìn nhận mọi chuyện một cách khách quan, toàn diện. Chúng ta nên đặt mình vào vị trí của họ để lắng nghe, thấu hiểu nhiều hơn. Đừng nóng vội mà đưa ra phán xét sai lầm. Ngoài ra, hãy học cách yêu thương, biết lan tỏa những điều tốt đẹp. Ngày nay, có rất nhiều bạn trẻ tổ chức hoạt động thiện nguyện nhằm giúp đỡ trẻ em vùng cao. Hay đó còn là nhóm các bạn sinh viên nấu và tặng cơm cho người vô gia cư trong thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh,...

Có thể thấy, quan niệm coi thường người có hoàn cảnh khó khăn là quan niệm sai lầm, tiêu cực. Chúng ta hãy chung tay xóa bỏ quan niệm này để xã hội trở nên hạnh phúc, tươi đẹp và tiến bộ.

Mỗi chúng ta phải biết thông cảm, sẽ chia và giúp đỡ những người khuyết tật khi họ gặp khó khăn, cần từ bỏ quan niệm kì thị người khuyết tật ngay từ bây giờ.

Thuyết phục người khác từ bỏ quan niệm kỳ thị người khuyết tật

Có câu nói rằng khi khỏe người ta ước cả trăm điều nhưng khi ốm yếu, người ta chỉ ước một điều duy nhất là làm sao cho khỏe lại. Ai cũng mong muốn mình có một cơ thể khỏe mạnh nhưng không phải ai cũng được như vậy. Nhiều người chỉ vì bị khiếm khuyết một bộ phận trên cơ thể mà không thể hòa nhập được với cộng đồng, bị kì thị và đối xử bất bình đẳng trong cuộc sống. Những người khuyết tật, tàn tật cũng có quyền con người, họ xứng đáng có một cuộc sống như những người bình thường, và chúng ta cần từ bỏ quan niệm về việc kì thị người khuyết tật, tàn tật.

Kỳ thị người khuyết tật là thái độ khinh thường hoặc thiếu tôn trọng người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó. Phân biệt đối xử người khuyết tật là hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó. Người khuyết tật họ cũng giống như bao nhiêu người bình thường khác họ cũng được pháp luật quy định là có quyền con người, họ có những quyền cơ bản của công dân không chỉ có vậy mà người khuyết tật còn được pháp luật quy định là được bình đẳng tham gia vào các hoạt động xã hội mà không phải chịu bất kì sự kì thị và phân biệt đối xử nào của xã hội. Để bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật, pháp luật cũng quy định rõ ràng và chi tiết những nghiêm cấm hành vi kì thị và phân biệt đối xử với người khuyết tật. Do đó bất kì người nào có thái độ khinh thường, thiếu tôn trọng và có hành vi xa lánh, phỉ báng, có thành kiến, hoặc ngược đãi, hạn chế quyền của người khuyết tật thì đều vi phạm quy định pháp luật người khuyết tật và sẽ phải chịu hình phạt tùy theo mức độ vi phạm của mình.

Vậy nguyên nhân nào dẫn đến quan niệm kì thi người khuyết tật? Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người khuyết tật, trong đó cơ bản từ nhận thức khái niệm khuyết tật. Đầu tiên phải kể đến là do những quan niệm mê tín dị đoan cho rằng người bị khuyết tật là do thuyết nhân quả của người đó kiếp trước ở ác thì kiếp này gặp ác hay là cái quan niệm nếu bố mẹ làm điều xấu thì tội sẽ đến phần con cái gánh và họ sẽ bị khuyết tật xem như là một hình thức trừng phạt. Một số người cho rằng người khuyết tật là một phần hiện thân của điều đen đủi và không may mắn; họ sợ người khuyết tật sẽ đem lại sự đen đủi. Với những người không bị khuyết tật thì người khuyết tật được xem như là những người không bình thường và sự không lành lặn trên cơ thể sự khiếm khuyết đi một bộ phận nào đó chính vì điều này mà những người khuyết tật trong mắt họ luôn là người sống phụ thuộc và là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Chính vì những quan niệm đã khiến những người khuyết tật này khó có thể hòa nhập vào cộng cồng và sinh sống như những người bình thường khác được.

Mẫu 4

Trong cuộc sống, người khuyết tật phải gánh chịu nhiều thiệt thòi do tình trạng khuyết tật gây ra, từ việc thực hiện những công việc sinh hoạt hằng ngày, học tập, việc làm đến tiếp cận các dịch vụ y tế, kết hôn, sinh con và tham gia các hoạt động xã hội.... Kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người khuyết tật là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc người khuyết tật không được hòa nhập vào các hoạt động văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của cộng đồng. Tại cộng đồng, người khuyết tật thường bị chế nhạo, bị lăng mạ; người ta thường xa lánh, tránh gặp người khuyết tật trước khi làm việc gì đó quan trọng như đi công tác xa, đi du lịch, đi thi.... Càng khó khăn hơn nữa là người khuyết tật còn bị đối xử bất công ngay trong chính gia đình mình, họ bị bố mẹ, anh chị em trong nhà coi là gánh nặng nên thường xuyên bị lăng mạ, sỉ nhục, thậm chí còn bị bỏ rơi, không chăm sóc. Tuy gặp nhiều khó khăn, vất vả trong cuộc sống nhưng nhiều người khuyết tật vẫn vượt qua thử thách bằng chính nghị lực bản thân, đạt được thành công trên nhiều lĩnh vực: học tập, lao động sản xuất, thể thao, văn hóa nghệ thuật...

Pháp luật Việt Nam quy định cá nhân, tổ chức không được kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người khuyết tật dưới bất kì hình thức nào. Người khuyết tật khi được sinh ra không được bình thường như bao người khác, đây đã là một sự thiệt thòi lớn nhất đối với người khuyết tật khi bị khiếm khuyết đi một phần của cơ thể. Những người khuyết tật này họ đã phải rất mạnh mẽ để có thể vượt qua được mọi khó khăn trong sinh hoạt để hòa nhập với xã hội. Chính vì vậy mỗi chúng ta phải biết thông cảm, sẽ chia và giúp đỡ những người khuyết tật khi họ gặp khó khăn, cần từ bỏ quan niệm kì thị người khuyết tật ngay từ bây giờ.

Mẫu 5

Người tàn tật là những người yếu thế trong xã hội. Tuy nhiên, họ lại bị một số người xung quanh hắt hủi, bỏ rơi. Kì thị người tàn tật là quan niệm xấu cần phải từ bỏ và loại trừ khỏi xã hội hiện nay.

Những người tàn tật phải chịu đựng nỗi đau và khiếm khuyết trên cơ thể. Điều này khiến họ rất khó để có thể hòa nhập với cộng đồng, bị kì thị và đối xử bất bình đẳng. Kì thị người khuyết tật chính là thái độ khinh thường, xa lánh người khuyết tật chỉ vì những khiếm khuyết trên cơ thể của người đó. Pháp luật của Việt Nam quy định rất rõ trong "Luật về người khuyết tật", người khuyết tật cũng giống như mọi người khác, đều bình đẳng trước xã hội và được nhà nước, pháp luật bảo vệ về quyền và lợi ích hợp pháp. Do đó, bất kì cá nhân, tổ chức nào có hành vi thiếu tôn trọng, xâm hại đến người tàn tật đều phải chịu hình phạt thích đáng tùy theo mức độ vi phạm của mình.

Ở ngoài cộng đồng, những người tàn tật bị xúc phạm, lăng mạ bởi những lời lẽ thiếu tôn trọng, bỗ bã. Khó khăn hơn nữa là họ bị đối xử bất công ngay trong chính ngôi nhà mình sinh sống. Họ bị hắt hủi, đánh đập, không nhận được tình yêu thương và sự chăm sóc của người khác.

Vậy lí do nào dẫn đến quan niệm kì thị người khuyết tật? Trước hết, điều này bắt nguồn từ quan niệm của người xưa về người khuyết tật. Một số người cho rằng người tàn tật là hiện thân của những điều xui xẻo, không may mắn. Họ tin vào thuyết nhân quả và nghĩ kiếp trước của người đó ở ác nên kiếp này mới bị trừng phạt. Với người lành lặn, người khuyết tật được xem như là những người không bình thường. Trong mắt mọi người, họ trở thành gánh nặng đối với gia đình, cộng đồng, xã hội.

Quan niệm kì thị người tàn tật chỉ cho thấy những yếu kém trong nhận thức của cá nhân đối với vấn đề xã hội và cuộc sống. Quan niệm ấy khiến người tàn tật ngày càng trở nên tự ti, không dám đối diện với đám đông. Đồng thời, cản trở họ tiếp cận với các dịch vụ y tế, hoạt động giáo dục, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,...

Vì vậy, chúng ta cần thay đổi và từ bỏ quan niệm này ngay từ hôm nay. Việc từ bỏ quan niệm kì thị người tàn tật sẽ cho ta cái nhìn cởi mở hơn về những người vốn dĩ đã yếu thế trong cuộc sống. Khi ta mở lòng đón nhận, giúp đỡ người có hoàn cảnh kém may mắn hơn mình, tự khắc cuộc đời sẽ trở nên tươi đẹp, đáng giá biết bao! Ngoài ra, thái độ đúng mực, tôn trọng người tàn tật khiến họ dễ dàng bước qua những rào cản của bản thân để vươn lên số phận và đóng góp vào sự phát triển chung của gia đình, xã hội. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, có rất nhiều những tấm gương người tàn tật vượt khó nổi tiếng trên Việt Nam và thế giới. Họ chính là những minh chứng sống của đóa hoa hướng dương luôn vươn đến ánh mặt trời: thầy Nguyễn Ngọc Kí với đôi chân viết chữ, giáo sư vật lý Stephen Hawking với những công trình nổi tiếng toàn nhân loại và còn rất nhiều tấm gương tiêu biểu khác vẫn đang từng ngày, từng giờ ghi tên mình lên đỉnh vinh quang.

Dù là trên phương diện pháp luật hay đạo đức thì chúng ta đều nên có cái nhìn yêu thương, tích cực đối với người tàn tật. Sinh ra với cơ thể không lành lặn đã là một thiệt thòi quá lớn. Do vậy, chúng ta cần đón nhận họ bằng đôi mắt cảm thông.

Mẫu 6

Chẳng ai mong muốn mình sinh ra lại bị thiếu thốn, thiệt thòi về thể xác cả. Chúng ta may mắn thì được lành lặn như bao người. Nhưng cũng có biết bao nhiêu người sinh ra thiệt thòi, người thị khuyết tật về chân tay, người lại khuyết tật về bộ não. Người khuyết tật là những người không được lành lặn, may mắn như người bình thường, họ đã phải chịu những sự dày vò về thể xác, đau đớn hơn còn có rất nhiều người kém hiểu biết kỳ thị, xa lánh họ. Vấn nạn kỳ thị, xa lánh người khuyết tật thực sự rất nghiêm trọng, có thể gây ra những hệ luỵ lâu dài trong xã hội.

Kỳ thị người khuyết tật là thái độ thiếu tôn trọng, xa lánh, phân biệt đối xử với những người khuyết tật. Có thể chỉ bằng một ánh mắt coi thường xa lánh hoặc có thể là thái độ thiếu hòa nhã, tôn trọng với họ. Thấy họ đến thì dè bỉu, chê bai, xa lánh không ngồi cùng với họ. Chúng ta công nhận trong xã hội này có rất rất nhiều những thái độ, hành vi kỳ thị người khuyết tật vẫn đang xảy ra hàng ngày. Vấn nạn này thực sự rất đáng báo động.

Pháp luật Việt Nam đã quy định người khuyết tật có quyền bình đẳng như bao người bình thường khác, họ cần được đối xử như những người bình thường. Vì vậy bất kỳ hành vi kỳ thị, đối xử phân biệt, thậm chí phỉ báng, xúc phạm, đánh đập họ đều có thể bị xử phạt. Biết được điều đó nhưng vẫn có rất nhiều người có thái độ phân biệt, kỳ thị với những người khuyết tật. Tại sao vậy?

Thứ nhất là những nhận thức còn eo hẹp của những người xung quanh. Rất nhiều người cho rằng người khuyết tật là do kiếp trước làm nhiều điều ác nên kiếp này bị trừng phạt, do đó, kỳ thị với họ là xứng đáng với những gì họ nhận được. Thứ hai là có một số người quan niệm những người khuyết tật có hình dạng xấu xí, dị hợm, tiếp xúc hay qua lại với họ chỉ mang đến những điều xui xẻo, đen đủi nên giữ khoảng cách với họ, lập ra ranh giới với họ. Tóm lại sự kỳ thị với người khuyết tật đều xuất phát từ những nhận thức lệch lạc của con người.

Hậu quả của sự kỳ thị này vô cùng nghiêm trọng. Trước hết là với chính những người khuyết tật. Do bị kỳ thị, xa lánh họ không được tham gia vào các hoạt động văn hoá, xã hội, hậu quả là không xin được việc, không thể lao động sản xuất để nuôi sống bản thân mình. Sau nữa là cho xã hội, những người khuyết tật không lao động được thì cũng là gánh nặng cho xã hội. Rất nhiều người khuyết tật bị lăng mạ, sỉ nhục, thậm chí bị bỏ rơi, nguyền rủa, không chăm sóc, điều đó thực sự là tiếng chuông đáng báo động về sự suy đồi đạo đức trong xã hội.

 Tóm lại kỳ thị những người khuyết tật là một hành vi xấu xí, rất đáng lên án. Chúng ta hãy đặt mình vào hoàn cảnh của họ để thấy được rằng: họ rất đáng thương, sinh ra đã thiệt thòi hơn người khác, chúng ta thay vì kỳ thị họ hãy đối xử bình đẳng với họ, động viên họ để họ có thêm nghị lực sống, trở thành người có ích cho xã hội.

Mẫu 7

Quan niệm kì thị người tàn tật chỉ cho thấy những yếu kém trong nhận thức của cá nhân đối với vấn đề xã hội và cuộc sống. Quan niệm ấy khiến người tàn tật ngày càng trở nên tự ti, không dám đối diện với đám đông. Đồng thời, cản trở họ tiếp cận với các dịch vụ y tế, hoạt động giáo dục, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,...

Vì vậy, chúng ta cần thay đổi và từ bỏ quan niệm này ngay từ hôm nay. Việc từ bỏ quan niệm kì thị người tàn tật sẽ cho ta cái nhìn cởi mở hơn về những người vốn dĩ đã yếu thế trong cuộc sống. Khi ta mở lòng đón nhận, giúp đỡ người có hoàn cảnh kém may mắn hơn mình, tự khắc cuộc đời sẽ trở nên tươi đẹp, đáng giá biết bao! Ngoài ra, thái độ đúng mực, tôn trọng người tàn tật khiến họ dễ dàng bước qua những rào cản của bản thân để vươn lên số phận và đóng góp vào sự phát triển chung của gia đình, xã hội. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, có rất nhiều những tấm gương người tàn tật vượt khó nổi tiếng trên Việt Nam và thế giới. Họ chính là những minh chứng sống của đóa hoa hướng dương luôn vươn đến ánh mặt trời: thầy Nguyễn Ngọc Kí với đôi chân viết chữ, giáo sư vật lý Stephen Hawking với những công trình nổi tiếng toàn nhân loại và còn rất nhiều tấm gương tiêu biểu khác vẫn đang từng ngày, từng giờ ghi tên mình lên đỉnh vinh quang.

Dù là trên phương diện pháp luật hay đạo đức thì chúng ta đều nên có cái nhìn yêu thương, tích cực đối với người tàn tật. Sinh ra với cơ thể không lành lặn đã là một thiệt thòi quá lớn. Do vậy, chúng ta cần đón nhận họ bằng đôi mắt cảm thông.

Mẫu 8

Những người có hoàn cảnh khó khăn là người phải chịu nhiều nỗi đau khổ và bất hạnh trong cuộc sống. Thay vì giúp đỡ họ, một bộ phận người lại tỏ ra kì thị, coi thường. Lâu dần, thái độ, suy nghĩ ấy phát triển thành quan niệm ăn sâu vào tiềm thức của không ít người trong xã hội hiện nay.

Coi thường người có hoàn cảnh khó khăn là thái độ thiếu tôn trọng, khinh mạt người có điều kiện và mức sống thấp hơn mình. Những người này thường đặt mình ở vị trí tối cao, thượng đẳng trong xã hội để nhìn cuộc đời bằng con mắt khinh bỉ, thiếu tôn trọng người khác. Thực tế cuộc sống không thiếu những câu chuyện đau lòng về cách con người đối xử với nhau. Cùng đi vào một cửa hàng, nhưng những người mặc quần áo tuềnh toàng, đi xe rẻ tiền lại không được săn đón và chăm sóc nhiệt tình bằng người đeo túi hiệu, ngồi xe hơi.

Nguyên nhân dẫn đến hành động, quan niệm này bắt nguồn từ nhận thức sai lệch và bản chất hẹp hòi, ích kỉ của một bộ phận người. Họ cho rằng bản thân không có nghĩa vụ phải chăm lo, trợ giúp mà công việc ấy thuộc về xã hội, nhà nước và chính phủ sẽ có trách nhiệm trợ cấp cho người có hoàn cảnh khó khăn. Lối sống thờ ơ, vô cảm đã khiến họ dửng dưng trước sự khổ cực của người khác.

Quan niệm coi thường người có hoàn cảnh khó khăn không chỉ cho thấy sự yếu kém và lối sống vị kỉ của một số người mà còn ngăn trở những người yếu thế này tiếp cận với điều tốt đẹp trong xã hội. Khi gặp những người kì thị, lăng mạ, sỉ nhục mình, họ luôn thấy mặc cảm, tự ti và mất đi niềm tin vào cuộc sống. Xã hội vì thế mà cũng dần trở nên xa cách.

Vì lẽ đó, chúng ta cần thay đổi và từ bỏ quan niệm coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn. Việc từ bỏ quan niệm coi thường người nghèo khổ sẽ cho ta cái nhìn cởi mở hơn về những người vốn dĩ đã “thấp cổ bé họng”. Ta nên cảm thông, đồng cảm trước nỗi đau khổ của người khác. Thái độ tôn trọng người kém may mắn giúp họ dễ dàng vượt lên chính mình và nỗ lực không ngừng vào sự phát triển chung của xã hội, đất nước. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, có rất nhiều tấm gương nghèo vượt khó. Họ đã bỏ lại bóng tối sau lưng để tiến về ánh mặt trời. Đó là người nông dân Lâm Văn Chánh, ngụ ở ấp Mỹ Đức, xã Thiện Mỹ, huyện Châu Thành. Trước đây, ông từng thuộc diện hộ nghèo do xã quản lí. Đến năm 2016, được sự hỗ trợ của nhà nước, ông đã vay vốn và phát triển mô hình sản xuất theo Chương Trình 135. Sau hơn 3 năm làm việc chăm chỉ, cật lực, tính đến năm 2019, ông đã tự nguyện xin thoát nghèo và đóng góp vào công cuộc xây dựng nông thôn mới tại địa phương. Có thể nói, ông chính là tấm gương tiêu biểu của người nghèo vượt khó.

Rõ ràng, những người có hoàn cảnh khó khăn vẫn đang từng ngày từng giờ vươn lên khẳng định mình. Để từ bỏ quan niệm coi thường người có hoàn cảnh khó khăn, chúng ta cần hướng tới cái nhìn khách quan, công nhận nỗ lực của người khác. Ai cũng có quyền được sống và khát khao về một cuộc sống no ấm, đủ đầy. Chính vì thế, mỗi người hãy nâng cao nhận thức bản thân và san sẻ, trao đi yêu thương thông qua hành động thiết thực. Hàng năm, rất nhiều những chương trình thiện nguyện được tổ chức. Đây là cơ hội để mỗi người đóng góp nguồn lực nhỏ bé của mình để lan tỏa giá trị nhân văn và cải thiện chất lượng sống cho những người nghèo khổ trong xã hội.

Hi vọng qua bài viết này, các bạn có thể nhận thức được tầm quan trọng của việc từ bỏ quan niệm coi thường những người có hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta hãy cùng nhau chung tay giúp đỡ cộng đồng và xây dựng một xã hội văn minh, giàu đẹp, hạnh phúc.

 

Lời giải

 Dàn Ý

1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần thuyết phục: từ bỏ quan niệm "trọng nam khinh nữ".
2. Thân bài:
* Giải thích quan niệm "trọng nam khinh nữ":
- "Trọng nam khinh nữ" là hình thức phân biệt đối xử dựa trên giới tính, trong đó người đàn ông được đánh giá cao hơn so với phụ nữ.
* Nguyên nhân dẫn đến quan niệm "trọng nam khinh nữ":
- Do ảnh hưởng của Nho giáo, Trung Quốc: vai trò của người đàn ông được coi trọng. Họ là những người có chí khí, làm được việc lớn, gánh vác giang san.
* Biểu hiện của "trọng nam khinh nữ":
- Trong gia đình và xã hội, vai trò của đàn ông được đánh giá cao hơn những người phụ nữ.
- Trách nhiệm của phụ nữ là chăm sóc gia đình.
- Đàn ông sinh được con trai thì ngồi ở mâm trên, nếu sinh con gái phải ngồi mâm dưới.
- Phụ nữ nếu sinh con gái thì không được đề cao.
- Nhiều gia đình dù đã sinh đủ hai con nhưng vẫn muốn đẻ thêm con trai để có người nối dõi tông đường.
- Thậm chí, có nhiều người nạo phá thai vì lựa chọn giới tính.
* Lí do cần phải từ bỏ quan niệm "trọng nam khinh nữ":
- Đây là quan niệm cổ hủ, lạc hậu, không còn phù hợp trong thời đại mới.
- Gây mất cân bằng giới tính.
- Khiến các mối quan hệ trong gia đình trở nên bất hòa.
- Ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người phụ nữ.
* Lợi ích khi từ bỏ quan niệm:
- Tạo ra một xã hội công bằng, văn minh.
- Chấm dứt được tệ nạn xã hội.
* Giải pháp để từ bỏ quan niệm "trọng nam khinh nữ":
- Đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền.
- Phụ nữ cần không ngừng đấu tranh, nâng cao trình độ nhận thức, chuyên môn của mình.
3. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề.

Mẫu 1

Mặc dù vai trò của người phụ nữ đang dần được đề cao, coi trọng nhưng "quan niệm trọng nam khinh nữ" từ thời phong kiến vẫn còn tồn tại cho tới tận ngày nay. Đây là một tư tưởng hết sức sai lầm, cổ hủ, cần được loại bỏ khỏi xã hội hiện đại.

Trước hết, "trọng nam khinh nữ" là sự phân biệt đối xử dựa trên giới tính, trong đó vai trò của người đàn ông được đánh giá cao hơn so với phụ nữ. Nguyên nhân dẫn đến tư tưởng này là do ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc. Học thuyết Nho giáo quy định rất chi tiết, rõ ràng về vai trò, trách nhiệm của đàn ông và phụ nữ. Đàn ông phải là người có chí khí, sẵn sàng gánh vác giang san, làm trụ cột trong gia đình. Còn phụ nữ luôn phải giữ gìn tiết hạnh, thực hiện "tam tòng tứ đức". Có thể nói, tư tưởng Nho giáo đã chi phối rất nhiều đến các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, nó được lưu truyền từ đời này sang đời khác và ăn sâu vào suy nghĩ, nếp sống của người dân.

Trong đời sống, chúng ta không khó để bắt gặp biểu hiện của quan niệm này. Mặc dù đã sinh đủ hai con nhưng nhiều nhà vẫn muốn có con trai để "nối dõi tông đường". Ở một số làng quê, dấu ấn của quan niệm "trọng nam khinh nữ" rất đậm nét. Trong các buổi cỗ bàn, lễ Tết, nếu đàn ông nào sinh được con trai thì ngồi ở mâm trên, còn nếu sinh con gái thì phải ngồi ở mâm dưới. Thậm chí, nhiều cánh đàn ông còn bị chính những người anh em, bạn bè chế giễu, trêu đùa. Những định kiến này đã gây áp lực cho họ và là nguồn cơn của những cuộc cãi vã, bạo hành trong gia đình. Ngay trong mối quan hệ vợ chồng, tiếng nói của người đàn ông bao giờ cũng có trọng lượng hơn phụ nữ.

Ngày nay, quan niệm "trọng nam khinh nữ" không còn nặng nề như trước nhưng nó vẫn tồn tại và để lại nhiều hậu quả đối với xã hội. Có rất nhiều lí do để chúng ta từ bỏ suy nghĩ này. Thứ nhất, tư tưởng "trọng nam khinh nữ" không còn phù hợp trong xã hội hiện đại. Bởi ngày nay, Việt Nam cũng như thế giới đang hướng đến bình đẳng giới. Có rất nhiều tổ chức được thành lập để đấu tranh cho một xã hội công bằng, nơi giới tính không còn là giới hạn như Tổ chức thúc đẩy bình đẳng giới Việt Nam (VOGE), Ủy ban địa vị Phụ nữ Liên hợp quốc, Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA),... Họ đang nỗ lực bảo vệ cho các quyền của trẻ em gái và phụ nữ trên thế giới. Phụ nữ cũng xứng đáng được tôn trọng và được nhìn nhận một cách công bằng trong quá trình đóng góp vào sự vận hành, phát triển của xã hội.

Thứ hai, tư tưởng "trọng nam khinh nữ" gây mất cân bằng giới tính. "Theo như số liệu của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế), vào năm 2026, Việt Nam sẽ "thừa khoảng 1,38 triệu nam giới." (theo vietnamplus.vn). Tình trạng "thừa nam, thiếu nữ" đang là một vấn đề nhức nhối, đáng báo động. Nếu không giải quyết được thực trạng này, nhiều đàn ông sẽ phải đối mặt với việc không tìm được người để kết hôn.

Thứ ba, việc quá đề cao nam giới còn làm tan vỡ nhiều mối quan hệ. Điều này khiến cho những giá trị tốt đẹp của gia đình bị phá bỏ. Chừng nào tư tưởng "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" ("một con trai là có, mười con gái vẫn là không") chưa chấm dứt thì chừng đó vẫn còn nạn bạo hành.

Thứ tư, quyền lợi của phụ nữ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi tư duy cũ kĩ, đi lùi thời đại này. Vấn đề "trọng nam khinh nữ" khiến cho tiếng nói của những người phụ nữ trở nên nhỏ bé, thấp kém. Họ bị đè nén và không được thừa hưởng thành tựu phát triển như phái nam.

Từ những lí do trên, chúng ta hoàn toàn có đủ căn cứ để thay đổi suy nghĩ, hành vi của chính mình. Sớm loại bỏ tư tưởng lạc hậu này sẽ tạo ra một xã hội công bằng, văn minh. Mọi người đều được phát triển bản thân một cách dân chủ, đồng đều. Từ đó, gia tăng nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần xây dựng đất nước. Đồng thời, cũng chấm dứt được các tệ nạn xã hội, bảo vệ được trạng thái cân bằng của cán cân dân số.

Để từ bỏ, ngăn chặn quan niệm "trọng nam khinh nữ", chúng ta cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục tới từng người dân. Đây là biện pháp hữu ích trong công cuộc đẩy lùi tình trạng mất cân bằng giới tính, vấn nạn bạo lực gia đình và vô vàn những vấn đề khác. Ngoài ra, mỗi người phụ nữ cần không ngừng nâng cao trình độ, nhận thức của bản thân và nỗ lực đấu tranh cho các quyền chính đáng, hợp pháp mà mình xứng đáng được hưởng. Là một học sinh, chúng ta cần ý thức được những tác hại, hệ lụy mà quan niệm này đem lại cho cá nhân, gia đình, xã hội.

Mẫu 2

Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh, bình đẳng. Pháp luật, nhà nước Việt Nam đã quy định rất rõ trong điều 26, Hiến pháp năm 2013: "Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.". Việt Nam cũng như thế giới đã và đang chung tay vì một xã hội công bằng. Chính vì vậy, chúng ta không nên giữ lại những tư tưởng, cổ hủ lạc hậu này nữa!

Vấn đề trọng nam khinh nữ luôn tồn tại trong cuộc sống. Hồi xưa việc trọng nam khinh nữ rất trầm trọng, những người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến là những người chịu ảnh hưởng nhiều nhất, tạo nên nhiều bi kịch cho cuộc đời của người nữ. Hiện nay, hiện tượng trọng nam khinh nữ không ở mức độ trầm trọng như ngày xưa nhưng đâu đó tình trạng này vẫn còn tiếp diễn. Tuy nhiên, mức độ không phổ biến. Tình trạng trọng nam khinh nữ hiện tại phổ biến nhất tại vùng núi, miền sâu vùng xa, những người nơi đây thiếu trình độ, kiến thức xã hội, họ vẫn quan niệm rằng sinh con gái sau này cũng là con của người ta, con trai thì sẽ sống với cha mẹ cả đời. Với những quan niệm đó mà nhiều phụ nữ ở đây đã chịu nhiều cực khổ. Người xưa cho rằng phụ nữ sẽ chẳng làm nên việc gì lớn, có chăng cũng chỉ gây thất bại mà họ không nhận ra rằng họ sinh ra từ đâu, những nữ tướng quân góp nhiều công sức cho đất nước hay những hoàng hậu thống trị hậu cung giúp ổn định hậu cung để vị vua an tâm bình định và phát triển đất nước? Những cống hiến to lớn ấy họ bỏ qua xem như không thấy. Hiện nay các người phụ nữ cũng giống như những người nam họ cũng cống hiến hết mình cho nước nhà. Trong gia đình họ là người vợ đảm đang, là người mẹ hiền với các con. Trong công việc họ tận tâm, tỉ mỉ, phát huy hết tài năng của mình. Nếu như đàn ông có sức mạnh cơ thể, thì phụ nữ có sức mạnh tinh thần. Những người phụ nữ góp phần cho cuộc sống tươi đẹp và hoàn mĩ hơn. Trân trọng và nâng niu những người phụ nữ là hết sức quan trọng, có họ thì tương lai của sự sống nhân loại mới duy trì được

Mẫu 3

Trong xã hội hiện nay, có thể tình trạng " trọng nam khinh nữ " là vô cùng phổ biến. Tình trạng này xảy ra từ thời kì phong kiến ở nhiều nơi trên thế giới. Ở đất nước ta, việc " trọng nam khinh nữ" là một việc trái với đạo đức, đạo lí làm người. Dù là nam hay nữ thì họ cũng là con người , nhưng tại sao nhiều người lại chỉ yêu quý con trai mà ghét bỏ đứa con gái của mình ? Phải chăng con gái không thể làm được việc gì có ích cho gia đình, xã hội chăng ? Nhưng không, ta có thể thấy phụ nữ ta xưa và nay cũng không thua kém gì đàn ông. Họ giỏi việc chăm sóc gia đình,... Nhưng có ai tôn trọng công sức của họ không ? Nếu không có phụ nữ thì tại sao chúng ta có thể được sinh ra. Việc những gia đình, dòng họ không có con cháu trai nối dõi hiện nay vẫn bị xem là tuyệt tự và khi bố mẹ hoặc ông bà chết đi sẽ không có người và nơi thờ cúng là một thực tế. Thế nên phần lớn các gia đình hiện nay vẫn phải cố đẻ cho được con trai. Việc trọng nam khinh nữ không chỉ là việc làm trái với đạo đức mà còn làm rối loạn xã hội, an ninh đất nước. Việc làm này cũng làm phụ nữ tổn thương vô cùng. Vì vậy, chúng ta cần biết tôn trọng những người phụ nữ.

Mẫu 4

Từ xưa đến nay, ông cha ta đã có bao những quan niệm đạo lý hay, giàu ý nghĩa để răn dạy con cháu. Nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại những hủ tục mà quan niệm “Trọng nam khinh nữ” cũng là một trong số đó. “Nam” và “nữ” là đại diện cho hai giới tính khác nhau trong xã hội, nhưng lại được đặt xen kẽ trong hai động từ “trọng” và “khinh”. “Trọng” là quan trọng, là ưu ái, coi là hơn , ngược lại “khinh” là khinh thường, xem nhẹ , không tôn trọng. Như vậy, câu nói trên được truyền từ đời này qua đời khác, đặt ra một quan niệm về sự phân biệt giới tính giữa đàn ông và phụ nữ : Đàn ông mới là những người làm nên việc lớn nên sẽ luôn giữ trọng trách quan trọng, được ưu ái hơn là những người phụ nữ được coi là có địa vị thấp bé, không làm được việc lớn. Vậy thì quan niệm ấy liệu có còn đúng hay không? Trước hết, cần phải hiểu rõ, “trọng nam khinh nữ” là một quan niệm đã có từ rất lâu đời, từ xa xưa, đặt trong bối cảnh xã hội phát triển như hôm nay, thì không thể tránh khỏi sự hạn chế trong cách suy nghĩ, hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Trong các tác phẩm văn học cách đây một vài thập kỷ, ta có thể nhận thấy rất rõ ràng quan niệm này, những người phụ nữ bị chà đạp, khinh thường, chịu nhiều uẩn khúc như nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” hay người con gái trong các bài ca dao xưa “Thân em như dải lụa đào/Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Ông cha ta khi xưa quan niệm nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất, làm việc lớn, nắm vai trò trụ cột, chủ yếu trong gia đình và xã hội. Thế nhưng, trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tôi cho rằng, quan niệm ấy thật sự đã không còn đúng nữa. Có thể, người phụ nữ không được đánh giá cao về sức mạnh như người đàn ông, nhưng ngược lại họ lại có sự kiên cường, bền bỉ và đức hy sinh cao cả không thua kém gì. Rõ ràng có thể nhận thấy biết bao những tấm gương các nữ anh hùng đã bao lần làm rạng danh dân tộc như “kình ngư” Nguyễn Thị Ánh Viên , đội tuyển bóng đá nữ Việt Nam, vua đầu bếp Mỹ Christine Hà,…Nhưng, để bác bỏ đi một quan niệm mà đã có từ bao đời nay, đó không phải là điều dễ dàng. Phụ nữ dù là ở bất kỳ thời đại nào cũng khó mà có thể đạt được sự công bằng thật sự, như tình trạng bạo hành phụ nữ cẫn xảy ra thường xuyên ở Ấn Độ, hay bạo hành gia đình,..Vậy nên, để bác bỏ đi thì khó, nhưng hạn chế nó là điều mà ta cũng có thể thực hiện được. Hãy tôn trọng, yêu thương những người phụ nữ bên cạnh bạn, chia sẻ với họ, đừng khinh thường hay kì thị bất cứ một giới tính gì vì con người sinh ra, ai cũng có quyền được sống và làm điều mình yêu thích. Quan niệm “Trọng nam khinh nữ” có thể không còn phổ biến hiện nay nhưng nó vẫn như một ngọn lửa nhỏ cháy âm ỉ trong mỗi tập thể, mỗi gia đình, mỗi xã hội. Và trách nhiệm để dập tắt ngọn lửa ấy chính là của mỗi người, mỗi cá nhân của cuộc sống này.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP