Câu hỏi:

05/01/2023 544

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá tác phẩm truyện Cuộc tu bổ lại các giống vật.

Quảng cáo

Trả lời:

verified
Giải bởi Vietjack

Mẫu 1

Trong hệ thống thần thoại Việt Nam, em vô cùng ấn tượng với truyện "Cuộc tu bổ lại các giống vật". Truyện kể về việc Ngọc Hoàng tạo ra các loài vật nhưng do một số yếu tố mà cơ thể của các con vật chưa được hoàn chỉnh. Để bù đắp cho những thiếu sót ấy, Ngài đã sai ba vị Thiên thần xuống núi hoàn thiện cho những con vật mang khiếm khuyết. Câu chuyện đã thể hiện cách con người thời cổ lí giải về một số đặc điểm, tập tính của loài vật. "Cuộc tu bổ lại các giống vật" có cốt truyện đơn giản, diễn biến câu chuyện được diễn ra trong không gian vũ trụ, thời gian không xác định, mang tính vĩnh hằng. Sự xuất hiện của hệ thống nhân vật Ngọc Hoàng, ba vị Thiên thần mang sức mạnh phi thường, thực hiện công việc sáng tạo, tu bổ lại các giống vật. Tính cách nhân vật chủ yếu được khắc họa qua hành động. Với những đặc sắc nghệ thuật về nhân vật, cốt truyện, không gian, thời gian, truyện "Cuộc tu bổ lại các giống vật" đã cho ta thấy được cách người xưa quan sát về các hiện tượng, sự vật diễn ra xung quanh và giải thích chúng thông qua trí tưởng tượng phong phú của mình.

Mẫu 2

Thần thoại là một thể loại truyện của Việt Nam mang những yếu tố huyền ảo, giải thích cho những sự vật, hiện tượng chưa có lời giải. Đặc sắc trong những truyện này cũng có thể kể đến truyện Cuộc tu bổ lại các giống vật, một truyện thần thoại giải thích về quá trình tạo ra các loài vật trên Trái đất. Câu chuyện kể về nguồn gốc ban đầu của các loài vật là do Ngọc Hoàng tạo nên, tuy nhiên bằng gì thì lại chưa nêu được rõ. Trong lúc vội vàng, Ngọc Hoàng chưa thể hoàn chỉnh được cơ thể các con vật nên đã cử 3 vị thiên thần xuống hoàn thiện lại để bù đắp những thiếu sót. Nghe được tin, các con vật tranh nhau đến để sử lại các bộ phận còn thiếu. Qua chi tiết này, người ta cũng giải thích được một số đặc điểm trong cách sống của các loài vật như chim, chó,... Câu chuyện là cái nhìn của những người xưa về các loài vật và lý giải những tập tính của chúng. Cuộc tu bổ lại các giống vật không dài, cốt truyện cũng không có quá nhiều những chi tiết huyền ảo mà thể hiện tinh thần thoại của nó ở các yếu tố thời gian, không gian và nguyên liệu không xác định. Nhân vật Ngọc Hoàng và 3 vị thiên thần chính là hiện thân của sức mạnh phi thường, là những người tạo ra và tu bổ lại các giống loài trên Trái đất. Tính cách của nhân vật không được đề cập tới, nhưng ta có thể thấy được nó qua những hành động của nhân vật. Sử dụng nhiều yếu tố nghệ thuật đặc sắc, truyện đã cho ta thấy cái nhìn mới lạ của những người xưa về các loài vật. Cuộc tu bổ lại các giống vật đến nay vẫn được xem là một truyện thần thoại đặc sắc, là một tài liệu tốt và giúp người đọc thấy được một cách giải thích về sự hình thành muôn loài rất sáng tạo.

Mẫu 3

Thần thoại là một thể loại truyện rất đặc sắc, có chứa nhiều yếu tố kỳ ảo và được sử dụng để giải thích về nguồn gốc của người hay việc. Trong nền văn học Việt Nam có rất nhiều thần thoại ra đời nhằm giải thích sự hình thành đất trời, con người, lúa nước,... Truyện thần thoại Cuộc tu bổ lại các giống vật lại cho người đọc thấy được nguồn gốc hình thành nên những loài vật trên trái đất ngày nay. Theo như trong truyện, ban đầu Ngọc Hoàng tạo thành các loại động vật trên trái đất, nhưng do thời gian không kịp nên chưa thể hoàn thiện được các bộ phận của chúng. Để sửa chữa sai lầm này, người cử 3 vị thiên thần xuống mặt đất để giúp các loài vật. Khung cảnh ấy được tác giả miêu tả rất sáng tạo khi sử dụng đến những vật dụng như chân nhang, chân ghế. Tuy nhiên, nhờ những chi tiết đó người đọc mới hiểu được một số tập tính hiện nay của các loài vật như “hai giống vật này khi ngủ đều giơ một cẳng lên trên không.” hay “các loài chim vẫn giữ thói quen chơi với ba lần để thử đặt chân trước khi đậu”. Đây chính là những tập tính trong hiện thực của các loài kể trên, nhờ câu chuyện này người đọc có thể tìm hiểu được nguyên nhân của nó. Những nhân vật như Ngọc Hoàng và các vị thiên thần trong truyện thể hiện sức mạnh của mình, là cách khéo léo để những người xưa thể hiện được ước mơ chinh phục và tôn sùng những sức mạnh mạnh mẽ ấy. Truyện có nhiều yếu tố nghệ thuật đặc sắc, cốt truyện đơn giản đã giúp người đọc hiểu nhanh về chủ đề và nội dung tác giả muốn truyền đạt. Cuộc tu bổ lại các giống vật giúp chúng ta hiểu về nguồn gốc các loài vật và sự hình thành những tập tính của chúng.

Mẫu 4

Với mỗi vùng văn hóa khác nhau, dân gian lại có cách lý giải về nguồn gốc của muôn ngàn vạn vật khác nhau. Tuy nhiên, các sáng tạo ấy vẫn gặp nhau tại một điểm tương đồng nào đó. Nếu như bạn bắt gặp vị thần lơ đễnh, đãng trí Ê-pi-mê-tê trong "Prô-mê-tê và loài người" của thần thoại Hy Lạp thì khi đến với "Cuộc tu bổ lại các giống vật" của thần thoại Việt Nam, các bạn sẽ lại thấy sự hấp tấp, vội vã của Ngọc Hoàng. Truyện "Cuộc tu bổ lại các giống vật" được sưu tầm và in trong "Lược khảo về thần thoại Việt Nam" là truyện có chủ đề gần gũi với con người và hình thức nghệ thuật độc đáo.

Truyện "Cuộc tu bổ lại các giống vật" kể về việc Ngọc Hoàng tạo ra các loài vật nhưng cơ thể chúng lại không hoàn chỉnh. Để khắc phục những thiếu sót ấy, ngài đã phái ba vị Thiên thần xuống trần gian để tu bổ lại các loài vật. Qua câu chuyện, ta thấy được cách lý giải sáng tạo của con người về những đặc tính, tập quán của loài vật. Quá trình tu bổ lại các giống vật của Ngọc Hoàng được diễn ra vào lúc sơ khai. Khi ấy, thế giới còn chưa được tạo lập nên Ngọc Hoàng luôn mong muốn "có một thế giới ngay" Trước khi sáng tạo ra con người, ngài đã nặn ra vạn vật nhưng do thiếu nguyên liệu và vội vàng muốn tạo ra thế giới ngay lập tức nên nhiều con vật không có đủ bộ phận trên cơ thể như ngày nay. Để có thể bù đắp những thiếu sót ấy, Ngọc Hoàng phái ba vị Thiên thần mang theo các nguyên liệu xuống núi để thực hiện công việc tu bổ, bù đắp cho những con vật có cơ thể chưa đầy đủ. Ba vị Thiên thần với những cố gắng đã giúp cho loài vật có được những bộ phận còn thiếu. Trong thời gian tu bổ ấy, vì vịt, chó và chim đến muộn nên ba vị Thiên thần có tấm lòng tốt bụng đã lấy chân ghế chắp cho vịt và chó, chân hương gắn cho chim. Thế là các con vật đều có đủ các bộ phận như chúng mong muốn. Tuy nhiên, câu chuyện không đơn thuần kể về quá trình bù đắp các khiếm khuyết mà còn là những quan sát tỉ mỉ về đặc điểm, tập tính của con vật. Con người thời cổ đã phát hiện ra những điều lí thú gắn với đặc điểm cơ thể mỗi loài nên mong muốn có một đáp án chính xác. Vì thế, bằng trí tưởng tượng của mình, họ sáng tạo nên câu chuyện gắn liền với chân sau của chó, chân còn thiếu của vịt và thói quen chới với ba lần để thử đặt chân trước khi đậu của các loài chim. Như vậy, chủ đề của tác phẩm đã trở nên gần gũi hơn với con người khi xoay quanh các sự vật gắn liền đời sống hàng ngày.

Mẫu 5

Truyện "Cuộc tu bổ lại các giống vật" không chỉ là sự lý giải của con người về sự hình thành của các con vật mà truyện còn là bài học về sự hấp tấp vội, vội vàng và sự thích nghi với cuộc sống. Ngọc Hoàng vì vội vàng muốn tạo ra thế giới cho nên khi nặn ra các loài vật thì lại có những loài thiếu đi một bộ phận nào đó trên cơ thể. Cho nên, trong cuộc sống chúng ta cần phải suy nghĩ kĩ càng, lên kế hoạch, mục tiêu cụ thể trước khi hành động để tránh gặp phải những sai lầm không đáng có. Bên cạnh đó, việc làm của ba vị Thiên thần còn giúp chúng ta học được sự bao dung và vị tha cùng tấm lòng nhân hậu khi vịt, chó và chim đến muộn nhưng ba vị thần vẫn cố gắng hết mực để giúp đỡ chúng để chúng có một cuộc sống tốt hơn.

Một trong những điểm đặc sắc tạo nên sự thành công của truyện "Cuộc tu bổ lại các giống vật" đó chính là ở cách xây dựng cốt truyện và vận dụng các yếu tố hư cấu, kì ảo vào trong truyện. Truyện có cốt truyện đơn giản, gần gũi với đời sống con người Việt Nam bởi nội dung xoay quanh các con vật thường thấy trong cuộc sống như vịt, chó,... Truyện đã lý giải các đặc tính, tập quán của các con vật này một cách thú vị và hấp dẫn qua các yếu tố kì ảo. Yếu tố hư cấu kì ảo cùng ngôn ngữ giản dị được thể hiện ở việc ba vị Thiên thần dùng chân ghế để chắp cho vịt và chó, chân hương để gắn cho chim khiến câu chuyện trở nên hài hước hơn. Đây là cách lý giải đầy hóm hỉnh, tạo tiếng cười cho người đọc. Bên cạnh đó, cách xây dựng nhân vật cũng tạo nên đặc sắc cho truyện và đóng góp thành công trong việc làm nổi bật chủ đề. Ngọc Hoàng - vị thần có sức mạnh siêu nhiên khi có thể tạo ra muôn loài nhưng lại có nét tính cách tương đồng với con người. Vì tính nóng vội khi "muốn có một thế giới ngay trong một sớm một chiều" nên các loài vật mà Ngọc Hoàng nặn ra đã bị thiếu một bộ phận nào đó trên cơ thể.

Mẫu 6

Truyện "Cuộc tu bổ lại các giống vật" mang đậm dấu ấn của truyện dân gian cùng với những yếu tố hư cấu, kì ảo, ngôn từ giản dị đã giải thích về các đặc điểm, tập tính của các con vật quen thuộc với chúng ta. Qua câu chuyện, chúng ta hiểu biết hơn về trí tuệ và trí tưởng tượng phong phú của dân gian xưa.

ất cả mọi sinh thể trên đời này từ khi sinh ra đã không hề được toàn thiện và hoàn mĩ , tất cả đều phải trải qua quá trình thích nghi với những điều kiện xung quanh để dần đạt đươc hình thái thích hợp nhất. Từ loài người, cho đến các loài vật, kể từ lúc xuất hiện trên mặt đất họ chưa thể có những đặc điểm về bề ngoài và lối tư duy hiện đại như vậy, con người thuở ban sơ chỉ là loài vượn cổ, các loài vật cũng như vậy, nó mang hình thái chưa được hoàn thiện của tổ tiên chúng, đó là theo cách hiểu của khoa học hiện đại. Vậy thì từ xa xưa, con người, loài có nền văn mình sớm nhất, họ cũng có những nhu cầu về vấn đề tìm hiểu chuyển biến của các loại sinh vật, của chính họ, những người Việt cổ đại quan niệm như thế nào về chuyện này ? Người Việt cổ đại sáng tạo ra những câu chuyện thần thoại li kì để giải thích cho nguồn gốc của các hiện tượng xung quanh mình, họ tin những gì có mặt trên đời này, cách thức hoạt động của nó ra sao đều dựa vào một tay của các vị thần tiên ở trên trời làm nên. Những câu chuyện về các vị thần ấy được lưu giữ bằng cách truyền miệng trong nhiều tác phẩm thần thoại kì ảo, nhưng nó vẫn có những điểm đáng suy nghĩ bởi có liên quan thực tế đến biểu hiện của các hiện tượng trong cuộc sống thực. Thần thoại liên quan đến những điều thật trong đời sống, chính vì vậy chiếm được lòng tin của người xưa, họ tin vào thần thánh, dần dần trở thành tín ngưỡng trong lòng. Thần thoại “Cuộc tu bổ lại các giống vật” là một trong những truyện kể về quá trình hoàn thiện của các loại sinh vật trong quá trình thích nghi với điều kiện sống, không chỉ đem lại những kiến thức thú vị mà nó còn giải thích những hiện tượng mà những thứ khác khó lòng mang được màu sắc ấy

Mẫu 7

Thần thoại là các câu chuyện kể về các vị thần, những công lao của họ trong quá trình sáng tạo nên thế giới, được con người tin tưởng và nhớ ơn, bởi vậy các vị thần ấy trở thành những điều thiêng liêng trong suy nghĩ của loài người. Thần thánh là những người có quyền năng, có sức mạnh phi thường tạo nên những điều không tưởng, được sinh ra từ những câu chuyện đời thường của con người, chính vì vậy họ tượng trưng cho lí tưởng và ước mơ của loài người. Việc tạo nên những tác phẩm thần thoại để giải thích cho các hiện tượng đời sống xuất phát từ sự ham học hỏi, tìm tòi và sáng tạo của người Việt cổ đại, họ muốn thấu hiểu và tường tận những điều đang xảy ra xung quanh mình, những kiến thức mà họ tạo ra đã một phần nào thể hiện được sự sáng tạo trong nếp nghĩ, làm cho nền văn minh của người xưa trở nên phong phú và đồ sộ hơn. Điều đặc biệt làm nên nét kì bí và lôi cuốn người đọc của thế loại này là mô tuýp nhân vật được thần thánh hoá, không gian và thời gian thuở xa xưa, cốt truyện biến hoá theo lối hoang đường kì ảo, và cuối cùng là những thông điệp được gửi gắm một cách dễ hiểu với thế giới này. Những vị thần trong truyện thần thoại không chỉ có sức mạnh kì diệu một tay tạo ra thế giới này mà còn là người đồng hành trong suốt chặng đường tiến hoá và tồn tại của các loài sinh vật, kể cả con người. Trong thần thoại “Cuộc tu bổ của các giống vật” các vị thần được lệnh của Ngọc Hoàng đã tiến hành bổ sung những bộ phận còn thiếu để hoàn thiện cho những loài vật ở trần gian. Truyện đã giải thích quá trình tu bổ lại các giống vật, bù đắp những phần cơ thể còn thiếu để chúng có hình dạng giống ngày nay. Qua câu chuyện hấp dẫn ấy là những bài học về sự công bằng và nét kì thú trong cuộc trò chuyện giữa thần và vật. 

                      Thuở xa xưa ấy trước khi loài người được tạo ra Ngọc Hoàng đã tạo ra các giống vật trước, nhưng vì nóng lòng muốn có một thế giới nên đã không cẩn thận, chính vì sự qua loa ấy của Ngọc Hoàng mà những loài vật do ông tạo ra có một số loài chưa được hoàn thiện về thân thể, có loài thì thiếu mất đi đôi cánh, có loài thì mất đi cả đôi chân,… Chính vì vậy vào một ngày nọ Ngọc Hoàng đã sai ba vị Thiên thần hạ phàm và đem theo các nguyên liệu để tiến hành bổ sung và hoàn thiện quá trình tạo ra các loài vật đang còn dang dở của Ngọc Hoàng. Khi biết tin như vậy tất cả các con vật đều đổ xô tới để xin được các vị thần giúp đỡ, ai ai cũng đều có phần. Các loài vật đã hoàn thành xong tâm nguyện cũng là lúc nguyên liệu vừa hết, lúc ấy chó và vịt đến để nài nỉ các vị thần ban thêm chó chúng một cái chân, dù đã hết nguyên liệu những các vị thần vẫn giúp chúng bằng cách bẻ một chân cái ghế chắp vào cho chúng, con chó từ ba chấn biến thành bốn chân, con vịt một chân nay hoá thành hai, bọn chúng mừng lắm. Nhưng thần dặn dò khi ngủ đừng để chân ấy xuống đất kẻo lâu ngày ngấm bùn nước bị mục ruỗng, thế là mãi cho đến ngày nay chó và vịt khi ngủ cả hai loài ấy đều có một chân giơ lên trời. Thật là lí thú phải không các bạn, câu chuyện trên đã đem đến cho ta một kiến thức dân gian vô cùng thú vị. Trong khi nhiều lĩnh vực ngày nay để đi tìm câu trả lời cho câu trả lời này, ai cũng đều có những lí lẽ riêng của mình, câu chuyện thần thoại trên cũng là một cách hiểu, mặc dầu theo hướng hoang đường những cũng khá hợp tình hợp lí theo cách tưởng tượng của người xưa. Dù không bám sát thực tế nhưng những lí lẽ ấy tượng trưng cho sự sáng tạo và tò mò trong nhận thức và cách học hỏi của người xưa, nó vẫn mang những giá trị tinh thần mà không phải một câu trả lời khoa học nào cũng có thể thay thế được.

 

Sau khi vịt và chó trở về, một đám chim lại kéo đến, có cả chiền chiện, đỏ nách , ốc cau,… bọn chúng cùng nhau kéo đến để xin các vị thần giúp đỡ. Vì quá vội vàng trong việc tạo ra các giống loài nên cả ba loài chim này đều thiếu đi cả hai cái chân. Dù vậy thần vẫn không chịu giúp đỡ vì đã hết nguyên liệu, bọn chúng lấy cớ nghe tin các vị thần hạ phàm trễ và vì không có chân nên đi đến đây rất lâu. Một trong só các vị thần cảm thấy thương tình nên bèn bẻ một nhúm tăm hương làm cho chúng cặp chân, nhưng lại bị bọn chúng chê yếu ớt, không làm được gì. Các vị thần khuyên chúng bao giờ muốn đậu ở đâu đó thì chịu khó thử đặt chân xuống xem có vững không rồi đầu. Thế là từ đó các loài chim ấy có tập tính chới với ba lần trước khi muốn đậu ở đâu đó. Cũng giống như mẫu chuyện của Vịt và chó, việc các vị thần ban cho chúng những bộ phận trên cơ thể để chúng có thể dùng trong cuộc sống của mình đã giải thích cho những tập tính của các loài trong cuộc sống đời thường. 

 

                     Qua những mẫu chuyện ấy, ta có thể ngầm hiểu được cách mà người xưa sáng tạo ra những câu chuyện hoang đường để giải thích các hiện tượng đời sống cho con cháu họ không chỉ mang những giá trị đơn thuần mà chứa đựng nhiều bài học bổ ích. Mỗi một loài vật đều được sửa sang lại cho phù hợp với điều kiện sống, ai ai cũng đều có phần, đó là bài học về sự công bằng trong cuộc sống này. Người xưa muốn cho con cháu họ biết công bằng là một điều tất yếu trong cuộc sống, con người hay loài vật, ai cũng có một giá trị riêng. Đã tồn tại trên thế giới này đều phải có trách nhiệm đối với nó. Những câu chuyện thần thoại luôn truyền tải các bài học bổ ích một cách dễ hiểu, không trừu tượng, để người đọc có thể tiếp thu trong quá trình thưởng thức.  Ta thấy Thần thoại không chỉ đơn thuần là những chuỗi các sự kiện hoang đường, mà nó còn chưa đựng nhiều thông điệp nhân văn cao cả. Chỉ những tác phẩm văn học mang giá trị nhân bản mới tồn tại và phát triển đến ngày nay.

 

                     Câu chuyện thần thoại về việc tu bổ lại các giống vật đã mở mang cho ta những thông tin lí thú để trả lời cho các tập tính của loài vật hiện nay, tại sao chó và vịt khi ngủ lại giơ một chân lên trời, tại sao các loài chim nước lại có cặp chân mảnh khảnh và chới với trước khi chạm đất. Bên cạnh nội dung truyền tài không thể thiếu những đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm. Cốt truyện biến hoá kì ảo với những yếu tố siêu thực đã mở ra trong trí tưởng tượng người đọc một thế giới nhiệm màu, ở đó các con vật có thể nói chuyện, các vị thần tiên hạ phàm giúp đỡ mọi sinh vật, đó là những điểm thú vị thu hút người đọc. Những yếu tố không có thật ấy dù đi ngược lại với các quan điểm hiện đại nhưng nó vẫn có những giá trị nhất định trong nếp văn hoá người Việt ta, ởi dân gian là nơi bắt nguồn của mọi tri thức trên cõi đời này, dù đúng hoặc phi thực tế. Bên cạnh đó các nhân vật không có trên thực tế được thể hiện một các vô cùng sinh động, nào là Ngọc Hoàng, nào là các loài động vật có thể nói chuyện giống như on người, tất cả đã tạo nên một thế giới diệu kì, ở đó không có những mặt tiêu cực của xã hội mà chỉ chứa những điều tốt đẹp, nhân văn, và các bài học về lẽ sống quý giá. Các nhân vật ấy càng ngày càng gắn kết với đời sống tinh thần của con người hơn, xuất hiện trong các hoạt động văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo, bổ sung sự đa dạng trong nền văn hoá xứ sở lâu đời. Đất Việt ta tồn tại với truyền thống tôn thờ thần linh, tin vào những việc mà họ tác động đến đời sống thực, chính vì vậy nững câu chuyện thần thoại như vậy chưa bao giờ bị phai nhoà, bởi những thứ quý giá mà nó mang lại đối với tinh hoa truyền thống Việt Nam. 

                      Chuyện Thần thoại về “Cuộc tu bổ lại các giống vật” đã mang đến cho bạn đọc nhiều kiến thức hay và hấp dẫn về những thói quen tập tính của các loaì vật bắt nguồn từ đâu. Những yếu tố siêu thực được gây dựng trong tác phẩm đã góp phần làm cho những ý nghĩa nhân văn bộc lộ ra một cách dễ hiểu, đó là sự công bằng trong cuộc sống. Người xưa không chỉ sáng tạo ra các tác phẩm thần thoại chỉ để ca ngợi các vị thần và giải thích các hiện tượng, mà qua đó còn thể hiện chức năng giáo dục của văn học nghệ thuật. Dù ở trong bất kì khoảng thời gian nào, đã được gọi là văn học nghệ thuật thì những sản phẩm ấy không chỉ hay về nội dung hình thức mà còn phải có những ý nghĩa sâu xa. Đó chính là điều cốt lõi để thể loại này được tồn tại và ngày càng đến gần với cuộc sống hiện đại hơn.

 

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

Mẫu 1

Nhắc đến những câu chuyện cổ tích của nước ta, không thể bỏ qua truyện “Cây khế”. Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện cổ tích đặc sắc nhất trong kho tàng truyện dân gian của nước ta.

Truyện kể về hai anh em nhà nọ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống nương tựa vào nhau. Cha mẹ mất để lại cho hai anh em một cây khế và một chút ruộng vườn, của cải, tuy không khá giả nhưng hai anh em vẫn có cuộc sống no đủ. Từ khi người anh trai lấy vợ bỗng sinh ra lười nhác, mọi việc đều đổ hết lên đầu vợ chồng người em. Thậm chí sợ em tranh công nên anh trai đã chia gia tài, chiếm hết của nải, đẩy vợ chồng em ra túp lều nát với cây khế của cha mẹ để lại. Vợ chồng người em chăm chỉ làm lụng, chăm bẵm cho cây khế ra quả, chim quý đến ăn và đã trả công vợ chồng em trai bằng vàng bạc. Tiếng đồn đến tai người anh, người anh tham lam nên gạ đổi gia tài lấy cây khế. Chim quý cũng đến ăn và hứa trả ơn bằng vàng, nhưng vì tính tham lam vô độ của người anh nên đã bị chim quý hất xuống biển sâu. Cốt truyện tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.

Truyện “Cây khế” phản ánh cuộc xung đột giữa hai tuyến nhân vật trong một gia đình, một bên là vợ chồng người em trai hiền lành, chăm chỉ, chịu khó; một bên là vợ chồng người anh trai tham lam, ích kỉ, chỉ nghĩ đến đồng tiền. Thông qua khai thác xung đột trong gia đình này, tác giả dân gian đã phản ánh chủ đề của chuyện đó là phê phán sự tham lam, ích kỉ của con người, ca ngợi những con người chịu khó, chăm chỉ, biết sống lương thiện, biết thế nào là đủ. Câu chuyện còn là lời cảnh tỉnh cho những ai đã và đang xem nhẹ tình anh em trong gia đình, cắt đứt tình máu mủ ruột rà chỉ vì những cái lợi trước mắt. Chủ đề truyện này không mới nhưng nó vẫn có giá trị không riêng với thế giới cổ tích mà còn cả xã hội hiện thực bây giờ.

Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu sắc trong truyện Cây khế thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.

Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Tình huống truyện chia gia tài, vốn rất quen thuộc trong truyện kể dân gian. Nhờ tình huống này bản chất xấu xa tham lam của vợ chồng người anh trai được bộc lộ. Tình huống thứ hai, góp phần giúp mạch truyện tiến triển là tình huống chim quý xuất hiện và ăn khế của vợ chồng em trai. Nhờ chim quý vợ chồng em trai được đền đáp xứng đáng cho tấm lòng, sự lương thiện của mình. Cũng nhờ chim quý mà vợ chồng người anh trai đã bị trừng trị thích đáng cho bản tính tham lam, mờ mắt vì tiền của mình. Nhân vật chim quý đóng vai trò là nhân vật chức năng, thế lực siêu nhiên, thay nhân dân thực hiện mong ước của họ. Đây cũng là kiểu nhân vật khá quen thuộc trong truyện cổ tích Việt Nam.

Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng cũng là một nét nổi bật cho truyện cổ tích Việt Nam. Trong đó người anh trai là tuyến nhân vật đại diện cho kiểu người tham lam, chỉ nghĩ đến đồng tiền; nhân vật em trai là đại diện cho tuyến nhân vật bất hạnh, mồ côi, chịu nhiều thiệt thòi, cam chịu. Hai tuyến nhân vật chính - tà khá quen thuộc trong truyện cổ tích, là đại diện cho các kiểu người trong xã hội phân chia giai cấp thời bấy giờ.

Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ, hành động của nhân vật. Nhân vật trong truyện cổ tích vốn chưa có những tâm lý hay nét tính cách độc đáo, riêng biệt như trong văn xuôi của các tác giả văn học. Nhưng thông qua lời thoại, ngôn ngữ, hành động chúng ta cũng thấy được phần nào những nét tính cách đặc trưng của nhân vật. Chẳng hạn qua thái độ “rối rít, mừng quýnh, vái lấy vái để “ khi gặp chim thần của vợ chồng anh trai cũng đủ thấy vợ chồng anh ta là người tham lam, ích kỉ, tôn sùng vật chất, luôn trông chờ vào vận may; hành động “nhét đầy vàng vào tay áo, ống quần, lết mãi mới ra khỏi hang” đủ thấy anh trai tham lam đến mờ lý trí… còn vợ chồng người em trai thấy con chim thần chỉ biết than “ ông chim ơi, ông ăn hết khế nhà cháu…” rồi hành động “chỉ nhặt vừa đủ vàng bạc nhét vào túi rồi ra về” cũng đủ thấy người em trai vốn bản tính lương thiện, hiền lành. Nhân vật chỉ được khắc họa qua hành động, ngôn ngữ nhưng những nét tính cách nổi bật vẫn hiện lên tương đối đậm nét.

Những phân tích ở trên đây cho thấy Cây khế là một truyện cổ tích tiêu biểu trong kho tàng truyện cổ Việt Nam. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán đến những người có lối sống ham vật chất, coi thường tình cảm máu mủ. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, hành động để nhân vật bộc lộ rõ cá tính của mình, thông qua đó chủ đề truyện cũng được tô đậm.

Câu chuyện là một bài học đắt giá cảnh tỉnh những người tham lam, không coi trọng tình cảm gia đình, sớm hay muộn cũng sẽ nhận phải một kết cục không may mắn.

Mẫu 2

“Thần Trụ Trời” là một tác phẩm dân gian truyền miệng của người Việt cổ được sản sinh từ thời tối cổ và còn tồn tại đến ngày nay, được nhà khảo cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, kể lại bằng bản văn trong “Lược khảo về thần thoại Việt Nam”. Qua truyện thần thoại này, người Việt cổ muốn giải thích nguồn gốc các hiện tượng thiên nhiên như vì sao có trời, có đất và vì sao trời với đất lại được phân đôi, vì sao mặt đất lại không bằng phẳng có chỗ lõm có chỗ lồi, vì sao có sông, núi, biển, đảo.

Cho thấy người Việt cổ cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã cố gắng tìm để hiểu rõ những gì có xung quanh họ. Vì cũng chưa tìm hiểu được nhưng họ lại không chịu bó tay, họ bèn sáng tạo ra một vị thần khổng lồ để giải thích tự nhiên vũ trụ một cách hết sức ngây thơ và đáng yêu. Độc giả ngày nay cảm nhận được trong đó cái hồn nhiên và ước mơ của những người Việt cổ muốn vươn lên để giải thích thế giới tự nhiên quanh mình.Mọi chi tiết kể và tả Thần Trụ Trời đều gợi những vòng hào quang, điểm tô tính chất kỳ lạ, phi thường của nhân vật, thần thoại. Truyện đã nhân cách hóa vũ trụ thành một vị thần.

Hành động đầu tiên khi Thần Trụ Trời xuất hiện là “vươn vai đứng dậy, ngẩng cao đầu đội trời lên, giang chân đạp đất xuống,…” cũng là hành động và việc làm có tính phổ biến của nhiều vị thần tạo thiên lập địa khác trên thế giới. như ông Bàn Cổ trong thần thoại Trung Quốc cũng đã làm giống hệt như vậy. Tuy nhiên vẫn có điểm khác biệt chính là sau khi đã xuất hiện trong cõi hỗn độn giống như quả trứng của vũ trụ, ông đạp cho quả trứng tách đôi, nửa trên là trời, nửa dưới là đất và ông tiếp tục đẩy trời lên cao, đạp đất xuống thấp bằng sự biến hóa, lớn lên không ngừng của bản thân ông chứ không phải như Thần Trụ Trời đã xây cột chống trời.

Như vậy cho thấy việc khai thiên lập địa của ông Thần Trụ Trời ở Việt Nam và ông Bàn Cổ ở Trung Quốc vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Và đó cũng chính là nét chung và nét riêng có ở trong thần thoại của các dân tộc. Từ cái ban đầu vốn ít ỏi, người Việt cổ cũng như các dân tộc khác trên thế giới không ngừng bổ sung, sáng tạo làm cho nền văn học, nghệ thuật ngày một đa dạng hơn. Chúng ta cũng có thể đánh giá về kho tàng thần thoại Việt Nam đối với nền nghệ thuật Việt Nam như thế nào. Cũng nhờ nghệ thuật phóng đại mà các nhân vật thần thoại có được sức sống lâu bền, vượt qua mọi thời gian để còn lại với chúng ta ngày nay. Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt.

Truyện thần thoại “Thần Trụ Trời” vừa cho các bạn đọc biết được sự hình thành của trời đất, sông, núi, đá,…vừa cho thấy sự sáng tạo của người Việt cổ. Tuy truyện có nhiều yếu tố hoang đường, phóng đại nhưng cũng có cái lõi của sự thật là con người thời cổ đã khai khẩn, xây dựng, tạo lập đất nước.

Mẫu 3

"Thần Trụ Trời” là một tác phẩm dân gian truyền miệng của người Việt cổ được sản sinh từ thời tối cổ và còn tồn tại đến ngày nay, được nhà khảo cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, kể lại bằng bản văn trong “Lược khảo về thần thoại Việt Nam”. Qua truyện thần thoại này, người Việt cổ muốn giải thích nguồn gốc các hiện tượng thiên nhiên như vì sao có trời, có đất và vì sao trời với đất lại được phân đôi, vì sao mặt đất lại không bằng phẳng có chỗ lõm có chỗ lồi, vì sao có sông, núi, biển, đảo.

Cho thấy người Việt cổ cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã cố gắng tìm để hiểu rõ những gì có xung quanh họ. Vì cũng chưa tìm hiểu được nhưng họ lại không chịu bó tay, họ bèn sáng tạo ra một vị thần khổng lồ để giải thích tự nhiên vũ trụ một cách hết sức ngây thơ và đáng yêu. Độc giả ngày nay cảm nhận được trong đó cái hồn nhiên và ước mơ của những người Việt cổ muốn vươn lên để giải thích thế giới tự nhiên quanh mình.Mọi chi tiết kể và tả Thần Trụ Trời đều gợi những vòng hào quang, điểm tô tính chất kỳ lạ, phi thường của nhân vật, thần thoại. Truyện đã nhân cách hóa vũ trụ thành một vị thần.

Hành động đầu tiên khi Thần Trụ Trời xuất hiện là “vươn vai đứng dậy, ngẩng cao đầu đội trời lên, giang chân đạp đất xuống,…” cũng là hành động và việc làm có tính phổ biến của nhiều vị thần tạo thiên lập địa khác trên thế giới. như ông Bàn Cổ trong thần thoại Trung Quốc cũng đã làm giống hệt như vậy. Tuy nhiên vẫn có điểm khác biệt chính là sau khi đã xuất hiện trong cõi hỗn độn giống như quả trứng của vũ trụ, ông đạp cho quả trứng tách đôi, nửa trên là trời, nửa dưới là đất và ông tiếp tục đẩy trời lên cao, đạp đất xuống thấp bằng sự biến hóa, lớn lên không ngừng của bản thân ông chứ không phải như Thần Trụ Trời đã xây cột chống trời.

Như vậy cho thấy việc khai thiên lập địa của ông Thần Trụ Trời ở Việt Nam và ông Bàn Cổ ở Trung Quốc vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Và đó cũng chính là nét chung và nét riêng có ở trong thần thoại của các dân tộc. Từ cái ban đầu vốn ít ỏi, người Việt cổ cũng như các dân tộc khác trên thế giới không ngừng bổ sung, sáng tạo làm cho nền văn học, nghệ thuật ngày một đa dạng hơn. Chúng ta cũng có thể đánh giá về kho tàng thần thoại Việt Nam đối với nền nghệ thuật Việt Nam như thế nào. Cũng nhờ nghệ thuật phóng đại mà các nhân vật thần thoại có được sức sống lâu bền, vượt qua mọi thời gian để còn lại với chúng ta ngày nay. Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt.

Truyện thần thoại “Thần Trụ Trời” vừa cho các bạn đọc biết được sự hình thành của trời đất, sông, núi, đá,…vừa cho thấy sự sáng tạo của người Việt cổ. Tuy truyện có nhiều yếu tố hoang đường, phóng đại nhưng cũng có cái lõi của sự thật là con người thời cổ đã khai khẩn, xây dựng, tạo lập đất nước.

Mẫu 4

Có lẽ, những bí ẩn về thiên nhiên vẫn là một câu hỏi lớn đối với con người thời cổ. Chính vì vậy, họ đã sáng tạo nên các câu chuyện để trả lời cho những thắc mắc của bản thân. Đọc truyện "Thần Trụ trời", ta thấy được cách phân chia bầu trời và mặt đất. Đọc "Prô-mê-tê và loài người", ta được giải đáp về cách các vị thần tạo ra muôn vật và loài người. Không giống hai tác phẩm trên, truyện "Đi san mặt đất" lại là những lí giải đơn giản về quá trình loài người chung lòng, góp sức san phẳng mặt đất để làm ăn mà không có sự xuất hiện của các vị thần. Truyện gây ấn tượng bởi những đặc sắc trong chủ đề và hình thức nghệ thuật.

Truyện "Đi san mặt đất" có chủ đề viết về quá trình khai hoang và cải tạo tự nhiên của người Lô lô xưa, quá trình này cần có sự giúp sức của tất cả mọi người lúc bấy giờ. Người Lô Lô xưa đã có những nhận thức khá nguyên sơ, đơn giả về thế giới vũ trụ, đồng thời họ cũng có ý thức trong việc cải tạo thế giới sống quanh mình Khi Trái Đất vẫn còn hoang sơ thì người xưa đã cùng nhau đi trình khai hoang và cải tạo tự nhiên. Đó là thời gian không thể xác định, mà người cổ xưa chỉ biết là:

"Ngày xưa, từ rất xưa...
Người già không nhớ nổi
Mấy năm mấy nghìn đời
Ngày xưa từ rất xưa...
Người trẻ không biết tới
Mấy nghìn, mấy vạn năm"

Mốc thời gian không cụ thể khiến chúng ta không thể biết chính xác đó là thời điểm nào. Khoảng thời gian ấy xưa đến mức người già cũng không thể nhớ nổi, người trẻ thì lại chẳng thể biết tới. Và cuộc sống con người lúc bấy lại thật đơn giản. Trước khi đi san mặt đất, con người vẫn sống chung, ở chung và ăn chung với nhau. Người Lô Lô xưa đã biết tận dụng điều kiện tự nhiên để trồng bắp, lấy nước uống từ "bụng đá" "Trồng bắp trên núi cao/ Uống nước từ bụng đá". Tuy nhiên, sống trong không gian hoang sơ, thiếu thốn khi "Bầu trời nhìn chưa phẳng/ Mặt đất còn nhấp nhô" nên con người thời cổ đã khẩn trương cùng nhau đi tái tạo thế giới.

Để có thể san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời thì người Lô Lô đã biết tận dụng sức mạnh của các loài vật xung quanh lúc bấy giờ:

"Kiếm con trâu sừng cong
Chọn con trâu sừng dài"

Họ kiếm những con trâu sừng phải cong, phải dài vì đây là những con trâu khỏe, trâu tốt. Chúng đi cày bừa san đất mà không quản gì mệt nhọc. Có sức giúp đỡ của chúng thì công cuộc cải tạo mặt đất của người Lô Lô xưa chẳng mấy chốc mà thành. Thế nhưng công việc san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời là công việc chung của muôn loài nên con người đã đi chuột chũi cóc, ếch. Đáp lại lời kêu gọi của người Lô Lô xưa, các con vật đều tìm cớ trốn tránh, thoái thác. Không thể trông cậy vào chúng, con người đã tập hợp sức mạnh của nhau để cải tạo thiên nhiên "Giống nào cũng không đi/ Người gọi nhau làm lấy". Truyện "Đi san mặt đất" của người Lô Lô không chỉ đơn thuần là lời lí giải về sự bằng phẳng của mặt đất và bầu trời mà còn phản ánh nhận thức của người Lô Lô xưa về quá trình tạo lập thế giới. Theo cách lí giải của họ, để có được mặt đất, bầu trời bằng phẳng như ngày nay thì người Lô Lô xưa đã phải đi san mặt đất. Con người đã tự biết tập hợp sức mạnh của cộng đồng để chung tay thực hiện công việc. Và qua đây, ta thấy được con người trong buổi sơ khai đã có ý thức trong việc cải tạo thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của chính mình.

Không chỉ độc đáo ở chủ đề, truyện "Đi san mặt đất" còn có những đặc sắc ở khía cạnh nghệ thuật. Người Lô Lô xưa đã sáng tạo truyện thần thoại bằng hình thức thơ ca với giọng điệu vui tươi, nhí nhảnh tạo cảm giác thích thú cho người đọc.

Bên canh đó, truyện còn sử dụng biện pháp nhân hóa cùng với ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Các con vật được nhân hóa có những cử chỉ giống con người đã giúp cho chuyện trở nên sinh động hơn. Người Lô Lô xưa đã sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giản dị giúp cho bạn đọc ở mọi lứa tuổi dễ dàng tiếp nhận truyện.

"Đi san mặt đất" là một trong những truyện thần thoại đặc sắc của người Lô Lô. Truyện đã thể hiện những lí giải nguyên sơ của người xưa về vũ trụ, về thế giới qua thể thơ năm chữ kết hợp sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Qua câu chuyện, ta càng thêm ấn tượng với trí tưởng tượng của người xưa trong việc sáng tạo những giá trị văn hóa dân gian.

Mẫu 5

Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh lầ một trong những truyền thuyết lâu đời nhất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam và đã gắn liền với tuổi thơ của biết bao người. Câu chuyện thể hiện niềm khao khát chế ngự thiên nhiên của nhân dân ta, trước nỗi lo thiên tai bão lụt vẫn thường hoành hành hằng năm qua.

Đàu tiên, truyền thuyết này như muốn nói về hiện tượng thiên tai, bão lũ hàng năm cũng như lòng quyết tâm chống lại thiên tai của nhân dân ta. Sơn Tinh Thuỷ Tinh kể về đời vua Hùng thứ 18. Kể rằng vua Hùng có một người con gái vô cùng xinh đẹp, lại nết na, hiền dịu có tên là Mị Nương. . Nay nàng đến tuổi thành thân, nên vua cha muốn kén cho nàng một người chồng xứng đáng. Trong số đó có hai chàng trai kiệt xuất là Sơn Tinh và Thủy Tinh. Một người là ''chúa vùng non cao''. Một người là ''vua vùng nước thẳm''. Vì đưa được sính lễ tới trước là ''voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao'' nên Sơn tinh đã cưới được Mị Nương về làm vợ. Tức tối, ghen ghét vì thua cuộc , Thủy Tinh đã hô mưa gọi gió, tạo ra lũ lụt để đánh bại Sơn Tinh.Thủy Tinh dâng nước thì Sơn Tinh dời núi non. Thủy Tinh đại diện cho thiên nhiên giông bão, lũ lụt; còn Sơn Tinh là nhân vật biểu trưng cho nhân dân ta với tinh thần kiên cường bất khuất, sự mưu trí và anh dũng không chịu đầu hàng trước thiên tai, số phận.

Tiếp đó, tác giả dân gian đã lựa chọn được hình ảnh, nghệ thuật đặc sắc để diễn tả được hình ảnh thiên tai bão lũ và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trước thiên tai. Đây là câu chuyện được viết theo kiểu thần thoại Việt Nam nên có thể thấy được truyện chưa nhiều yếu tố kỳ ảo để nói về những hiện tượng thiên nhiên. Từ tình huống vua Hùng kén rể , ta có thể tháy đươc là núi non, nhân dân luôn được đặt lên hàng đầu . Vua Hùng đặt ra sính lễ là''voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao''. Những lễ vật này có thể thấy được là dễ dàng tìm ở vùng núi rừng chứ không phải biển cả. Sơn tinh đã có một lợi thế rõ ràng trước Thủy TInh. Sau đó, một loạt những chi tiết kỳ ảo như ''Thủy tinh hô mưa, gọi gió.'', ''Nước dâng lên cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi, núi mọc cao lên bấy nhiêu.'' như vẽ nên bức tranh thiên tai ngày xưa. Lũ lụt càng lên cao, dân ta càng gắng sức chiến đấu, chống lại thiên tai. Cùng với đó là hình ảnh người dân Văn Lang cùng Sơn Tinh chống lại cuộc tấn công của Thủy tinh càng tô đậm vẻ kiên cường của nhân dân Việt Nam trước bão lũ.

Câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh được khắc họa qua các chi tiết kỳ ảo, sinh động về hai vị thần rất thành công trong việc đưa người đọc đến với hình ảnh của người dân thời xưa đối mặt với sự tức giận từ thiên nhiên như thế nào. Truyện gắn mãi với bao thế hệ, luôn nhắc nhở chúng ta về tình đoàn kết của nhân dân trước mọi khó khăn, thử thách.

Mẫu 6

Nhắc đến những câu chuyện ngụ ngôn nước ngoài, ta không thể bỏ qua truyện Con cáo và chùm nho của nhà văn nổi tiếng Hy Lạp Aesop (Aisōpos, khoảng năm 620-564 trước CN). Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện ngụ ngôn nước ngoài hay và đặc sắc về chủ đề cùng những hình thức nghệ thuật xuất sắc.

Truyện kể về con cáo vào một hôm xuống triền núi và thấy phía trước là một vườn nho căng tròn mọng nước khiến anh ta thèm thuồng tới mức nước bọt cứ trào ra. Vì thế, cáo đã tìm mọi cách để có thể chén được no nê những chùm nho đó. Nhưng thật không may mắn, từ cây cao đến cây thấp, cáo vẫn không thể nhảy đến chùm nho. Thậm chí, chùm thấp nhất khiến Cáo tự đắc rằng không gì có thể làm khó được nó cũng thất bại. Sau một hồi cố gắng, Cáo đành thở dài và cho rằng những chùm nho vỏ xanh kia chắc là chưa chín, vừa chua vừa chát, không ăn được. Cốt truyện tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.

Đọc Con cáo và chùm nho của nhà văn Hy Lạp Aesop, ta có thể dễ dàng nhìn ra rằng giá trị của truyện trước hết thể hiện qua chủ đề và bài học cuộc sống mà nó gửi gắm. Hình ảnh con cáo đã được tác giả hình tượng hóa để đề cập đến vấn đề về sự biện hộ và tự cao của cá nhân. Điều mà câu chuyện muốn cảnh tỉnh là đừng quá đề cao bản thân, mình phải tự biết khả năng của mình đang nằm ở vị trí hay con số nào; khi sai lầm hoặc thất bại, hãy tự biết nhận lỗi, rút ra bài học cho bản thân và đừng bao giờ đổ lỗi cho hoàn cảnh. Bản chất là một truyện ngụ ngôn, Con cáo và chùm nho đã mượn câu chuyện về con vật để ám chỉ về lối sống của con người. Chủ đề của truyện mang tính chất khái quát bởi không chỉ đúng trong đất nước hay con người Hy Lạp – nơi nó được sinh ra, mà đó là lời nhắn nhủ, cảnh tỉnh dành cho tất cả mọi người. Chúng ta đừng như con cáo kia, đừng cho mình là nhất bởi ngoài kia còn rất nhiều người giỏi hơn và khi thất bại cũng đừng đổ lỗi cho bất kì ai, bất kì điều gì; hãy phát huy điểm mạnh bạn đang có, khắc phục điểm yếu, từ thất bại rút ra những bài học kinh nghiệm để vươn tới thành công.

Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu sắc trong Con cáo và chùm nho thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.

Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Thông thường, khi muốn thể hiện lối ứng xử, tính cách của nhân vật, tác giả truyện ngụ ngôn sẽ đặt nhân vật của mình vào những tình huống nhất định. Con cáo và chùm nho cũng không ngoại lệ, Aesop đã xây dựng tình huống về cuộc gặp gỡ giữa con cáo với những chùm nho căng mọng nước trong vườn và cách xử lí của nó để có được một bữa ăn no nê. Tình huống tuy khá đơn giản nhưng qua đó người đọc thấy được cách ứng xử của con cáo khi gặp khó khăn và chủ đề mà người kể chuyện muốn nói đến ở đầu truyện càng được làm sáng rõ.

Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng là một thủ pháp nghệ thuật khá quan trọng trong thể loại truyện ngụ ngôn. Cáo là biểu trưng cho những người luôn cho mình là nhất, mình luôn đúng trong mọi chuyện, nếu sai thì cũng chỉ do hoàn cảnh tác động, không dám chấp nhận sự thật về sự thất bại của bản thân. Chùm nho tượng trưng cho những yếu tố ngoại cảnh. Trong truyện, con cáo không với tới chùm nho nên đã tự nhủ nho còn xanh, chua và chát để biện hộ cho việc không hái được nho của mình, tức là do tác động của ngoại cảnh chứ không phải mình vô dụng.

Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua lời thoại. Trong Con cáo và chùm nho, tác giả đã để nhân vật tự độc thoại với chính mình và tính cách sẽ được bộc lộ qua từng câu chữ, lời nói đó. Khi thấy những chùm nho khác thấp hơn, Cáo đã tự đắc không có gì làm khó được mình nhưng kết quả vẫn là sự thất bại. Sau nhiều lần cố gắng, Cáo đã buông xuôi và nói: “Làm sao mình lại cứ phải ăn mấy chùm nho như này nhỉ? Vỏ thì xanh thế, chắc chắn là chưa chín rồi. Không biết chừng còn vừa chua vừa chát, không nuốt được”. Từ đó ta thấy được Cáo là  một người luôn tự đắc và chỉ biết đổ lỗi cho hoàn cảnh. Chính những lời độc thoại đó càng làm nổi bật nhân cách, điểm mạnh, điểm yếu của nhân vật.

Những phân tích ở trên đây cho thấy Con cáo và chùm nho là một truyện ngụ ngôn tiêu biểu trong kho tàng các sáng tác truyện của Aesop. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán đến những người có lối sống thắng lợi tinh thần. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, lời thoại để nhân vật bộc lộ rõ nhất tính cách của mình để qua đó các bài học nhân sinh được lột tả.

Đọc câu chuyện này, dường như em cảm thấy có đôi lúc em cũng giống như con cáo kia và bây giờ mình cần phải thay đổi để xóa bỏ tính cách không tốt đó.

Mẫu 7

Truyền thuyết dân gian vốn là món ăn tinh thần vô cùng phong phú của dân tộc ta, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Thuở ấu thơ ta lớn lên nhờ những câu chuyện kể của bà, của mẹ, lúc trưởng thành ta lại ru con ngủ bằng chính những câu chuyện hấp dẫn ấy. Có rất nhiều câu chuyện đã trở nên quen thuộc trong lòng mỗi người ví như Tấm Cám, Sọ Dừa, Sơn Tinh Thủy Tinh hay Thánh Gióng,... Tựu chung lại những truyền thuyết, những câu chuyện cổ ấy đều phản ánh chân thực khát khao của nhân dân ta về một cuộc sống tốt đẹp, lương thiện, về việc chế ngự thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm với một niềm tin tích cực. Sự tích Hồ Gươm cũng chính là một truyền thuyết như vậy. Bối cảnh của truyền thuyết diễn ra trong lúc giặc Minh đô hộ nước ta, tuy đã có nghĩa quân Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa chống giặc, nhưng buổi đầu thế lự còn non yếu, nên vẫn thường thua trận. Long Quân thấy nghĩa quân anh dũng, xả thân vì nước nên quyết định cho mượn gươm thần. Tuy nhiên, việc cho mượn gươm Long Quân cũng thiết kế một cách rất tinh tế, như là một thử thách cho Lê Lợi, bởi cái gì dễ có được người ta thường không trân trọng. Hơn thế nữa việc cho mượn gươm có phần thử thách ấy còn giúp Lê Lợi thu nạp được thêm một vị tướng tài là Lê Thận.

Lê Thận ban đầu vốn làm nghề đánh cá, có lẽ Long Quân đã thấy được khí chất anh hùng và tiềm năng của chàng trai miền biển này nên đã cố tình gửi gắm lưỡi gươm cho Lê Thận. Sau ba lần thả lưới ở ba khúc sông khác nhau mà vẫn vớt được cùng một lưỡi gươm kỳ lạ, đen thui, giống một thanh sắt không hơn không kém, Lê Thận đã quyết định đem về dựng ở xó nhà, vì linh cảm của một người thông minh thì gươm này ắt có điều bí ẩn, sau này có thể dùng được. Theo dòng chảy định mệnh, Lê Thận tham gia nghĩa quân Lam Sơn, trở thành phụ tá đắc lực, lập nhiều công lớn, chiến đấu anh dũng, thế nên có lần Lê Lợi đã ghé nhà Lê Thận chơi. Dương như đã nhận ra chủ tướng Lê Lợi, nên lưỡi gươm đen sì, vốn vẫn gác xó nhà lại sáng rực lên bất thường. Lê Lợi cầm lên xem thì thấy hai chữ "Thuận Thiên", như báo trước cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi lãnh đạo là hợp ý trời, được trời cao ủng hộ. Tuy nhiên đến đây những con người trần mắt thịt vẫn chưa thể nào liên hệ đến sự thần kỳ của lưỡi gươm kỳ lạ ấy.

Chỉ đến một lần, nghĩa quân thất thế, Lê Lợi phải chạy một mình vào rừng tránh sự truy lùng của giặc, lúc này đây vô tình phát hiện ra ánh sáng kỳ lạ ở một ngọn cây trong rừng, Lê Lợi tò mò trèo lên xem thì phát hiện một chuôi gươm nạm ngọc cực đẹp. Là người nhanh nhạy Lê Lợi lập tức liên tưởng đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, ông liền đem chuôi gươm ấy về. Qủa đúng như vậy, khi lắp lưỡi gươm vào chuôi gươm thì vừa in, sau nhiều lần thử thách cuối cùng chuôi và lưỡi gươm cũng tìm được nhau, ý trời đã phó thác cho Lê Lợi làm việc lớn. Ngoài ra sự tương hợp của chuôi và lưỡi gươm còn thể hiện một lời nhắc nhở rất hay của Long Quân, rằng muốn làm việc lớn trước hết cần sự đoàn kết, nếu chỉ có chuôi gươm đẹp đẽ thì cũng chẳng thể chém đầu tên địch nào, còn nếu chỉ có lưỡi gươm thì cũng chẳng thể dùng bởi thiếu mất chuôi. Hình ảnh chuôi gươm cũng đại diện cho vị chủ tướng là Lê Lợi người lãnh đạo nghĩa quân, lúc nào cũng phải sáng suốt và mạnh mẽ. Hình ảnh lưỡi gươm là đại diện cho quân đội của ta, tiêu biểu là những vị tướng dưới trướng như Lê Thận, người sẽ giúp Lê Lợi chém đầu từng tên giặc cướp nước. Như vậy sự vừa vặn của chuôi và lưỡi gươm chính là biểu hiện của sự phối hợp ăn ý giữa chủ tướng Lê Lợi và nghĩa quân dưới trướng, đó là sức mạnh tổng hòa làm nên chiến thắng của nhân dân ta.

Từ khi có sự trợ giúp của thanh gươm thần, nghĩa quân ta liên tục thắng trận, quân giặc bị đánh đuổi không còn một mảnh giáp, phải đầu hàng và rút quân về nước trong sự nhục nhã. Có được chiến thắng ấy, một phần là nhờ sự thần kỳ của gươm thần mà Long Quân cho mượn, đồng thời gươm ấy đã mang lại niềm tin và nhuệ khí cho nghĩa quân ta, giúp sức mạnh nghĩa quân tăng gấp bội.

Chuyện sau khi Lê lợi đã lên làm vua, trong một lần du thuyền trên hồ Tả Vọng (hồ Gươm bây giờ), thì có rùa Thần lên đòi gươm về cho Long Quân có nhiều ý nghĩa. Đầu tiên là lý lẽ có mượn có trả, Lê Lợi đã chiến thắng quân Minh, đất nước ta đã yên bình, thanh gươm cũng không còn phận sự gì nữa thì nên được trả về cho chủ cũ. Thứ hai là Long Quân muốn gửi gắm một điều rằng, sự trợ giúp của thần linh âu cũng chỉ là một phần nhỏ, còn nếu muốn vận nước hưng thịnh lâu dài thì phải dựa vào tài trị quốc của Lê Lợi, đừng nên ỷ vào việc có gươm thần mà lơ là cảnh giác, bài học của An Dương Vương vẫn còn sáng mãi cho đến tận bây giờ. Dù bất kỳ lý do nào, Long Quân đòi lại gươm cũng thật xác đáng. Câu chuyện trả Gươm cũng giải thích lý do hồ Tả Vọng còn có tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.

Sự tích Hồ Gươm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn rất phong phú về nghệ thuật Trong truyền thuyết này có hai câu chuyện vừa lồng ghép vừa tách bạch với nhau: câu chuyện mượn gươm và câu chuyện trở gươm. Chúng có nội dung riêng nhưng đồng thời bổ sung nghĩa cho nhau. Không chỉ vậy văn bản là sự kết hợp giữa yếu tố thực và yếu tố tưởng tượng, kì ảo một cách hài hòa, hợp lí. Với sự kết hợp hài hòa các yếu tố kì ảo và sự bền bỉ với các yếu tố lịch sử, Sự tích Hồ Gươm không chỉ giải thích, nguồn gốc ra đời của tên gọi Hồ Gươm. Mà qua câu chuyện này còn nhám ca ngơi, tôn vinh tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân của khởi nghĩa Lam Sơn Tên họ Hoàn Kiếm đồng thời cũng dùng để đánh dấu chiến thắng của dân tộc, thể hiện ước mơ, khát vọng hòa bình của nhân dân.

Truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm là một truyền thuyết có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện lòng tin và khát vọng mạnh mẽ của nhân dân ta về sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Bởi cuộc chiến của nhân dân ta là cuộc chiến vì chính nghĩa, có sự trợ giúp của thần linh, là thuận theo ý trời, những kẻ hung tàn bạo ngược ắt phải thất bại. Sự tích ấy còn là lời lý giải lý thú về những cái tên khác của hồ Gươm.

Mẫu 8

Mời các em tham khảo mẫu phân tích Thần mưa được bài viết chia sẻ chi tiết dưới đây:

Trong nền văn hóa của dân tộc Việt Nam, từ bao đời nay, ông cha ta luôn lưu truyền những câu chuyện thần thoại kỳ ảo huyền bí để có thể giải thích cho sự hình thành quê hương đất tổ. giải thích được cho con cháu đời sau về sự hình thành của trời đất, của nước non hùng vĩ. Trong hệ thống thần thoại đó, ông cha ta đã giải thích về việc sáng lập vũ trụ. Và tác phẩm Thần Trụ Trời là mở đầu, tiếp theo là một loại các thần thoại khác như Thần Mưa, Thần Biển, Thần Mặt Trời, Mặt Trăng lần lượt ra đời. Tiếp chân của những thần thoại khai phá ra vũ trụ kia là các thần thoại về các vị thần sáng tạo ra muôn loài….

Qua tác phẩm Thần Trụ Trời, ta có thể biết được để tách biệt trời đất như ngày nay. Thần trụ trời đã phải đào đất, khiêng đá đắp thành cột để chóng trời, từ đó mới hình thành ra các vị thần khác cùng thần trụ trời cai quản. và một trong các vị thần cùng cai quản và nối tiếp cho khoảng vũ trụ được hình thành đó có sự sống thì phải kể đến vị Thần Mưa - vị thần tạo ra sự sinh thái cân bằng cho trời đất, là tiền đề duy trì sự sống cho muôn loài do các vị thần sáng tạo ra muôn loài tạo lên.

Đầu tác phẩm, tác giả đã giải thích vị Thần Mưa có hình rồng, thường bay lượn xuống hạ giới hút nước biển, nước sông vào bụng rồi bay lên trời để tạo ra mưa. Qua lời giải thích đó, ta có thể biết được vị thần có hình dáng là một con rồng, được Trời giao phó là hút nước dưới trần thế để tạo ra mưa cho loài người cày cấy, sinh hoạt. Cho cây cỏ sinh sôi và phát triển, muôn thú có nước để duy trì hệ sinh thái của mình. Đây là một công việc vô cùng quan trọng, ấy nhưng vị thần này lại có tính hay quên, có vùng đất cả năm không ghé mặt để phân phát nước khiến nhiều vùng bị hạn hán nghiêm trọng. Muôn thú, cỏ cây khó có thể duy trì sự sống. Điều đó được tác giả nói rõ “Thần Mưa có tính hay quên, có vùng cả năm không đến, sinh ra hạn hán ở hạ giới, có vùng lại đến luôn, làm thành lụt lội. Do đó mà có lần ở hạ giới phải lên kiện trời vì Thần Mưa vắng mặt lâu ngày”. Qua đó ta có thể thấy rõ vị Thần này đãng trí đến nỗi khiến Muôn loài ở các vùng đất hạn hán đó bất mãn đến mức nào, khiến họ phải kiện đến cả trời xanh. Điều này được thể hiện khá rõ tại tác phẩm “cóc kiện Trời”, bởi sự trễ nải này mà khiến cỏ cây héo úa, muôn thú khát khô cả cổ chỉ vì sự văng mặt lâu ngày của Thần Mưa.

Nhưng tiếp đó, tác phẩm cũng đã giải thích một phần lí do sự trễ nải này của thần Mưa “Công việc phân phối nước cho khắp mặt đất rất nặng nề, một mình thần Mưa có khi không làm hết”. Một phần vì tính hay quên của Thần, một phần vì trời đất bao la rộng lớn quá, công việc nặng nhọc này cũng chỉ có mỗi Thần đảm nhiệm nên nhất thời lo không xuể. Chính vì lo không hết khiến công việc quá tải, muôn loài oán than. Vì để giảm bớt gánh nặng cho Thần Mưa, cũng như xoa dịu được sự nóng giận của muôn loài dưới hạ dưới, nên Trời đã mở cuộc thi chọn loài giúp sức cho công việc của Thần Mưa qua việc mở cuộc thi chọn giống loài thủy tộc có tài năng để giúp Rồng hút nước tạo mưa. Cuộc thi được Nhà Trời chọn đại điểm là ở cửa Vũ (Vũ Môn) thuộc tỉnh Hà Tĩnh ngày nay để có thể lên Thần hóa rồng trợ giúp Nhà Trời và Thần Mưa tạo mưa cho muôn loài.

Mồng ba cá đi ăn thề,

Mồng bốn cá về cá vượt Vũ Môn

Qua hai câu thơ trên, cho thấy Nhà Trời rất coi trọng cuộc thi này, vì trước kia khi mới sáng lập ra trời và đất, công việc tạo mưa là do đích than Trời làm để cho muôn loài, cỏ cây phía dưới tồn tại sinh sống và làm ăn. Sau đó vì đất trời tạo ra bao la quá, công việc khó nhọc không thể đảm nhiệm được nữa nên mới sai rồng lấy nước để làm ra mưa. Nhưng trong chính tác phẩm cũng đã nêu rõ vì số lượng rồng trên trời quá ít không thể đảm nhiệm nổi công việc nên Trời đã ban lệnh Xuống cho Thủy Phủ để kén chọn loài có thể cùng rồng làm công việc điều hòa sự sống cho muôn loài.

Qua lời bộc bạch của tác giả qua từng câu chữ trong tác phẩm, ta có thể thấy được yếu tố kỳ ảo của tác phẩm, sự sinh động từng câu chữ khiến cho tác phẩm thật sinh động hiện ra trước mắt để có thể đi sâu vào tâm hồn người đọc.

Tác phẩm thể hiện rõ yếu tố truyền kỳ qua từng câu chữ qua việc vua Thủy Tể loan tin để cho muôn loài dưới Thủy cung ganh đua mà dự thi. Cuộc thi được phân chia làm ba kỳ, mỗi kỳ lại nâng một độ khó khác nhau mỗi kỳ vượt qua một đợt sóng, con vật nào đủ sức đủ tài, vượt được cả ba đợt, thì mới lấy đỗ mà cho hóa Rồng” có thể thấy tính chất của cuộc thi nghe thì dễ nhưng mà thực hiện thì khó qua việc phải vượt qua cả ba đợt song mới lấy làm đỗ để có thể hóa rồng. Cả một đoạn của tác phẩm đã thể hiện cản tượng tranh tài của bao loài Thủy sinh dưới nước thể hiện hết sức mình nhưng đều bị loại cả vì không thể vượt qua đợt sống. Từ “sống” được đặt ở cuối câu như vậy để thể hiện tính chất của cuộc thi thật khắc nghiệt, để có thể vượt qua cuộc sát hạnh này, với mong muốn được hóa rồng mà có thể nhiều loài đã từ bỏ mạng sống của mình. Có loài cá rô nhảy qua được một đợt nên chỉ được một điểm, điều này khiến cá rô nhà ta mất đi cơ hội hóa rồng đành phải về yên vị ở đồng như trước. Tiếp đến, có con tôm nhảy qua được hai đợt hóa được một nửa rồng rồi, điều đó được tác giả nêu rõ “Có con tôm nhẩy qua được hai đợt, ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi đã gần hóa Rồng thì đến lượt thứ ba, đuối sức ngã bổ xuống lưng cong khoăm lại và chất thải lộn lên đầu.” Qua câu từ như vậy, ta cũng có thể hiểu được lí do tại sao tôm lại bơi giật lùi, thân cong và chất thải lại bị lộn lên đầu như vậy. Qua lời kể trên, ta đã học hiểu được nhiều điều qua lời kể đầy xúc tích, dễ hiểu đến như vậy qua việc diễn tả tôm, cá rô, cá chép vượt qua như thế nào. Điều đó ngầm ý muốn cho khung cảnh cuộc thi trở lên sinh động trước mắt người đọc.

Sau nhiều đợt tuyển chọn, tưởng chừng chẳng có con vật nào có thể qua được. Đến lượt cá chép vào thi thì thì vô cùng thuận lợi. Tác giả đã dung từ “ào ào” đề diễn tả sự thiên tàng địa lợi của cá chép, cá chép nhờ đó mà vượt cả ba phần sát hạch và vào được cửa Vũ Môn. Qua lời miêu tả của tác phẩm, cá chép đỗ, đuôi, râu, sừng tự nhiên đầy đủ như rồng. Một hình dáng oai nghi, cùng với Thần mưa đảm nhiệm công việc ban phát mưa xuống trần thế.

Việt Nam ta hình thành qua bao nhiêu đời nay luôn gắn liền với một kho tàng thần thoại khổng lồ gắn liền với sự hình thành của Đất Việt - sự trường tồn, phồn vinh và lưu truyền muôn đời để thế hệ mai sau có thể biết được sự thiêng liêng của Đất Nước, trong các tác phẩm đó thì Thần Mưa cũng là một trong những thần thoại to lớn luôn trường tồn với thời gian. Nó vẫn luôn tồn tại những giá trị tinh thần mà người xưa muốn gửi gắm lại cho đời sau những giá trị nhân văn của dân tộc, nói lên ước mơ khát vọng vượt qua khó khăn để đạt được danh vọng qua nhân vật Cá chép. Qua đó, mong thế hệ mai sau tiếp nối, giữ gìn và thực hiện.

 

Lời giải

Dàn ý

a. Mở bài

Trong văn hóa thần thoại việt nam, luôn lưu truyền nhiều thần thoại về vác vị thần khai phá ra vũ trụ như giải thích vì sao có Thần Trụ Trời và tiếp theo đó là ác vị thần gió, vị thần sáng tạo ra muôn loài. Nhưng qua đó cũng không thể thiếu vị Thần Mưa, cung cấp nguồn nước để duy trì sự sống cho muôn loài dưới trần thế.

  b. Thân Bài

* Hình dáng và công việc của Thần Mưa

- Thần có hình Rồng, thường bay xuống hạ giới hút nước biển vào bụng rồi bay lên trời cao phun nước làm mưa.

- Thần Mưa thường theo lệnh Trời đi phân phát nước ở các nơi.

- Thần Mưa có tính hay quên, có vùng cả năm không đến, sinh ra hạn hán ở hạ giới, có vùng lại đến luôn, làm thành lụt lội. Do đó mà có lần ở hạ giới phải lên kiện trời vì Thần Mưa vắng mặt lâu ngày.

- Công việc nặng nhọc, Thần Mưa làm không xuể.

* Cuộc thi tuyển chọn Thủy loài hóa Rồng và Cá chép vượt Vũ Môn

- Công việc phân phối nước cho khắp mặt đất rất nặng nề, một mình thần Mưa có khi không làm hết, nên có lần Trời mở một cuộc thi chọn các giống thủy tộc có tài trở thành rồng hút nước phun mưa giúp sức thần Mưa.

- Hạch có ba kỳ, mỗi kỳ vượt qua một đợt sóng, con vật nào đủ sức đủ tài, vượt được cả ba đợt, thì mới lấy đỗ mà cho hóa Rồng.

- Trong một tháng trời, bao nhiêu loài Thủy tộc. đến thi đều bị loại cả.

- Cá rô nhảy qua được một đợt song thì rơi; tôm nhảy được hai đợt ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi đã gần hóa Rồng thì đến lượt thứ ba, đuối sức ngã bổ xuống lưng cong khoăm lại và chất thải lộn lên đầu. Hai con cùng phải trở lại yên nghiệp ở đồng như trước.

  - Cá chép vào thi qua cả ba đợt thành công qua cửa Vũ Môn hóa Rồng cùng Thần Mưa phun nước làm mưa.

c. Kết bài

Tổng kết lại giá trị của truyện Thần Thoại cũng như tác phẩm Thần Mưa muốn truyền đạt.

Mẫu 1

Trong nền văn hóa của dân tộc Việt Nam, từ bao đời nay, ông cha ta luôn lưu truyền những câu chuyện thần thoại kỳ ảo huyền bí để có thể giải thích cho sự hình thành quê hương đất tổ. giải thích được cho con cháu đời sau về sự hình thành của trời đất, của nước non hùng vĩ. Trong hệ thống thần thoại đó, ông cha ta đã giải thích về việc sáng lập vũ trụ. Và tác phẩm Thần Trụ Trời là mở đầu, tiếp theo là một loại các thần thoại khác như Thần Mưa, Thần Biển, Thần Mặt Trời, Mặt Trăng lần lượt ra đời. Tiếp chân của những thần thoại khai phá ra vũ trụ kia là các thần thoại về các vị thần sáng tạo ra muôn loài….

Qua tác phẩm Thần Trụ Trời, ta có thể biết được để tách biệt trời đất như ngày nay. Thần trụ trời đã phải đào đất, khiêng đá đắp thành cột để chóng trời, từ đó mới hình thành ra các vị thần khác cùng thần trụ trời cai quản. và một trong các vị thần cùng cai quản và nối tiếp cho khoảng vũ trụ được hình thành đó có sự sống thì phải kể đến vị Thần Mưa - vị thần tạo ra sự sinh thái cân bằng cho trời đất, là tiền đề duy trì sự sống cho muôn loài do các vị thần sáng tạo ra muôn loài tạo lên.

Đầu tác phẩm, tác giả đã giải thích vị Thần Mưa có hình rồng, thường bay lượn xuống hạ giới hút nước biển, nước sông vào bụng rồi bay lên trời để tạo ra mưa. Qua lời giải thích đó, ta có thể biết được vị thần có hình dáng là một con rồng, được Trời giao phó là hút nước dưới trần thế để tạo ra mưa cho loài người cày cấy, sinh hoạt. Cho cây cỏ sinh sôi và phát triển, muôn thú có nước để duy trì hệ sinh thái của mình. Đây là một công việc vô cùng quan trọng, ấy nhưng vị thần này lại có tính hay quên, có vùng đất cả năm không ghé mặt để phân phát nước khiến nhiều vùng bị hạn hán nghiêm trọng. Muôn thú, cỏ cây khó có thể duy trì sự sống. Điều đó được tác giả nói rõ “Thần Mưa có tính hay quên, có vùng cả năm không đến, sinh ra hạn hán ở hạ giới, có vùng lại đến luôn, làm thành lụt lội. Do đó mà có lần ở hạ giới phải lên kiện trời vì Thần Mưa vắng mặt lâu ngày”. Qua đó ta có thể thấy rõ vị Thần này đãng trí đến nỗi khiến Muôn loài ở các vùng đất hạn hán đó bất mãn đến mức nào, khiến họ phải kiện đến cả trời xanh. Điều này được thể hiện khá rõ tại tác phẩm “cóc kiện Trời”, bởi sự trễ nải này mà khiến cỏ cây héo úa, muôn thú khát khô cả cổ chỉ vì sự văng mặt lâu ngày của Thần Mưa.

  Nhưng tiếp đó, tác phẩm cũng đã giải thích một phần lí do sự trễ nải này của thần Mưa “Công việc phân phối nước cho khắp mặt đất rất nặng nề, một mình thần Mưa có khi không làm hết”. Một phần vì tính hay quên của Thần, một phần vì trời đất bao la rộng lớn quá, công việc nặng nhọc này cũng chỉ có mỗi Thần đảm nhiệm nên nhất thời lo không xuể. Chính vì lo không hết khiến công việc quá tải, muôn loài oán than. Vì để giảm bớt gánh nặng cho Thần Mưa, cũng như xoa dịu được sự nóng giận của muôn loài dưới hạ dưới, nên Trời đã mở cuộc thi chọn loài giúp sức cho công việc của Thần Mưa qua việc mở cuộc thi chọn giống loài thủy tộc có tài năng để giúp Rồng hút nước tạo mưa. Cuộc thi được Nhà Trời chọn đại điểm là ở cửa Vũ (Vũ Môn) thuộc tỉnh Hà Tĩnh ngày nay để có thể lên Thần hóa rồng trợ giúp Nhà Trời và Thần Mưa tạo mưa cho muôn loài.

Mồng ba cá đi ăn thề,

Mồng bốn cá về cá vượt Vũ Môn

Qua hai câu thơ trên, cho thấy Nhà Trời rất coi trọng cuộc thi này, vì trước kia khi mới sáng lập ra trời và đất, công việc tạo mưa là do đích than Trời làm để cho muôn loài, cỏ cây phía dưới tồn tại sinh sống và làm ăn. Sau đó vì đất trời tạo ra bao la quá, công việc khó nhọc không thể đảm nhiệm được nữa nên mới sai rồng lấy nước để làm ra mưa. Nhưng trong chính tác phẩm cũng đã nêu rõ vì số lượng rồng trên trời quá ít không thể đảm nhiệm nổi công việc nên Trời đã ban lệnh Xuống cho Thủy Phủ để kén chọn loài có thể cùng rồng làm công việc điều hòa sự sống cho muôn loài.

Mẫu 2

Qua lời bộc bạch của tác giả qua từng câu chữ trong tác phẩm, ta có thể thấy được yếu tố kỳ ảo của tác phẩm, sự sinh động từng câu chữ khiến cho tác phẩm thật sinh động hiện ra trước mắt để có thể đi sâu vào tâm hồn người đọc.

Tác phẩm thể hiện rõ yếu tố truyền kỳ qua từng câu chữ qua việc vua Thủy Tể loan tin để cho muôn loài dưới Thủy cung ganh đua mà dự thi. Cuộc thi được phân chia làm ba kỳ, mỗi kỳ lại nâng một độ khó khác nhau mỗi kỳ vượt qua một đợt sóng, con vật nào đủ sức đủ tài, vượt được cả ba đợt, thì mới lấy đỗ mà cho hóa Rồng” có thể thấy tính chất của cuộc thi nghe thì dễ nhưng mà thực hiện thì khó qua việc phải vượt qua cả ba đợt song mới lấy làm đỗ để có thể hóa rồng. Cả một đoạn của tác phẩm đã thể hiện cản tượng tranh tài của bao loài Thủy sinh dưới nước thể hiện hết sức mình nhưng đều bị loại cả vì không thể vượt qua đợt sống. Từ “sống” được đặt ở cuối câu như vậy để thể hiện tính chất của cuộc thi thật khắc nghiệt, để có thể vượt qua cuộc sát hạnh này, với mong muốn được hóa rồng mà có thể nhiều loài đã từ bỏ mạng sống của mình. Có loài cá rô nhảy qua được một đợt nên chỉ được một điểm, điều này khiến cá rô nhà ta mất đi cơ hội hóa rồng đành phải về yên vị ở đồng như trước. Tiếp đến, có con tôm nhảy qua được hai đợt hóa được một nửa rồng rồi, điều đó được tác giả nêu rõ “Có con tôm nhẩy qua được hai đợt, ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi đã gần hóa Rồng thì đến lượt thứ ba, đuối sức ngã bổ xuống lưng cong khoăm lại và chất thải lộn lên đầu.” Qua câu từ như vậy, ta cũng có thể hiểu được lí do tại sao tôm lại bơi giật lùi, thân cong và chất thải lại bị lộn lên đầu như vậy. Qua lời kể trên, ta đã học hiểu được nhiều điều qua lời kể đầy xúc tích, dễ hiểu đến như vậy qua việc diễn tả tôm, cá rô, cá chép vượt qua như thế nào. Điều đó ngầm ý muốn cho khung cảnh cuộc thi trở lên sinh động trước mắt người đọc.

  Sau nhiều đợt tuyển chọn, tưởng chừng chẳng có con vật nào có thể qua được. Đến lượt cá chép vào thi thì thì vô cùng thuận lợi. Tác giả đã dung từ “ào ào” đề diễn tả sự thiên tàng địa lợi của cá chép, cá chép nhờ đó mà vượt cả ba phần sát hạch và vào được cửa Vũ Môn. Qua lời miêu tả của tác phẩm, cá chép đỗ, đuôi, râu, sừng tự nhiên đầy đủ như rồng. Một hình dáng oai nghi, cùng với Thần mưa đảm nhiệm công việc ban phát mưa xuống trần thế.

Việt Nam ta hình thành qua bao nhiêu đời nay luôn gắn liền với một kho tàng thần thoại khổng lồ gắn liền với sự hình thành của Đất Việt - sự trường tồn, phồn vinh và lưu truyền muôn đời để thế hệ mai sau có thể biết được sự thiêng liêng của Đất Nước, trong các tác phẩm đó thì Thần Mưa cũng là một trong những thần thoại to lớn luôn trường tồn với thời gian. Nó vẫn luôn tồn tại những giá trị tinh thần mà người xưa muốn gửi gắm lại cho đời sau những giá trị nhân văn của dân tộc, nói lên ước mơ khát vọng vượt qua khó khăn để đạt được danh vọng qua nhân vật Cá chép. Qua đó, mong thế hệ mai sau tiếp nối, giữ gìn và thực hiện.

Mẫu 3

Có thể thấy trong nền văn hóa của dân tộc ta, ông cha luôn truyền tai nhau những câu chuyện thần thoại mang nhiều yếu tố kì ảo huyền bí để giải thích cho con cháu sau này về những hiện tượng đời sống quanh ta. Trong những câu chuyện thần thoại được lưu truyền đó có các câu chuyện kể về sự hình thành lên vũ trụ. Đó là các tác phẩm Thần Trụ Trời, Thần Biển, Thần Mưa, Thần Mặt Trời, Mặt Trăng lần lượt ra đời. Qua tác phẩm thần Thần Trụ Trời có nhắc đến Thần Mưa.

Thần Mưa có hình rồng, ông tạo ra mưa bằng cách bay lượn xuống hạ giới uống nước biển, nước sông rồi bay quay lại bầu trời để tạo mưa cho nhân loại. Thần Mưa tạo nên sự cân bằng sinh thái cho hệ thống sinh thái trên Trái Đất., đây cũng là vị thần duy trì sự sống cho toàn nhân loại được các vị thần khác tạo lên. Thần Mưa tạo mưa giúp cho các hoạt động sinh hoạt, nuôi trồng của người dân được thuận lợi hơn. Thần Mưa là vị thần đảm nhiệm công việc vô cùng quan trọng nhưng lại có tính hay quên. Những lúc như vậy, vùng đất không được ông ghé qua sẽ bị hạn hán vô cùng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của muôn thú hay cây cỏ ở đó. 

Tác phẩm còn giải thích lí do tại sao lại có sự việc như trên là do trần đất quá bao la, rộng lớn mà một một thần Mưa không thể đảm nhiệm được hết. Nhưng lòng dân không hiểu, luôn trách móc, oán than nên Trời đã phải mở một cuộc thi để tìm ra một loài thủy tộc có khả năng hút nước và tạo mưa để giúp Thần Mưa trong công việc. Cửa Vũ (Vũ Môn) thuộc tỉnh Hà Tĩnh chính là địa điểm được chọn làm điểm thi. Nhà Trời rất coi trọng cuộc thi này, vì đó sẽ giúp cuộc sống của muôn loài, sinh vật được sinh sống trên Trái Đất được thuận lợi và bớt khó khăn hơn. Sau nhiều đợt tuyển chọn, cá chép là nhân vật duy nhất có thể thuận lợi vượt qua được cửa Vũ Môn. Tác giả miêu tả ngoại hình của cá chép có đầy đủ yếu tố như rồng - hình dáng toát lên vẻ oai nghi, oai phong. Vì vậy, cá chép đã được đảm nhiệm vai trò ban phát mưa xuống trần thế cùng với Thần Mưa. Các yếu tố kì ảo mà tác giả viết lên khiến cho tác phẩm trở nên sinh động, để lại dấu ấn trong lòng người đọc. Cũng là để lí giải hiện tượng gây mưa trên toàn nhân gian này.

Mẫu 4

Kho tàng truyện thần thoại Việt Nam được gắn liền với quá trình hình thành đất nước, với sự phát triển, phồn vinh và sẽ được lưu truyền mãi đến cho các thế hệ sau này. Nó mang giá trị tinh thần lớn, đó cũng có thể là món quà mà người xưa muốn gửi gắm đến cho thế hệ sau này. Đó là những giá trị nhân văn của cả dân tộc, nói lên được sự khát vọng, ước mơ và kiên cường, mạnh mẽ của cá chép mà vượt qua được tất cả khó khăn trước mắt. Đấy chính là tinh thần, sức mạnh của người con Đất Việt và mong các thế hệ mai sau sẽ luôn tiếp nối những truyền thống tốt đẹp đó.

Mỗi câu chuyện thần thoại đều mang đến cho chúng ta hiểu biết về một vị thần nào đó. Câu chuyện " Thần mưa" sẽ làm cho chúng ta hiểu rõ về nó và lý giải được về hiện tượng mưa.

Đặc điểm nổi bật của truyện thần thoại là luôn luôn nhân vật chính là một vị thần. Thần mưa có ngoại hình mang hình rồng. Công việc của thần Mưa là bay xuống hạ giới hút hết nước biển, nước sống rồi bay lên trời phun xuống để tưới cho cây cối, muôn loài Nhưng một đặc điểm của thần mưa đó là hay quên. Việc này cũng đã phần nào lý giải được hiện tượng lũ lụt và hạn hán. Có nơi thần mưa quên mà cả vùng đó cả năm không có mưa, đất khi khô cằn, hạn hán. Có vùng lại phun quá nhiều khiến lũ lụt. 

Chúng ta đã lý giải được nhiều hiện tượng của thiên nhiên như lũ lụt và hạn hán ở dưới hạ giới. Đó cũng là những kiến thức hữu ích cho cuộc sống của mỗi chúng ta.

Mẫu 5

Mỗi câu chuyện thần thoại đều mang đến cho chúng ta hiểu biết về một vị thần nào đó. Câu chuyện " Thần mưa" sẽ làm cho chúng ta hiểu rõ về nó và lý giải được về hiện tượng mưa.

Đặc điểm nổi bật của truyện thần thoại là luôn luôn nhân vật chính là một vị thần. Thần mưa có ngoại hình mang hình rồng. Công việc của thần Mưa là bay xuống hạ giới hút hết nước biển, nước sống rồi bay lên trời phun xuống để tưới cho cây cối, muôn loài Nhưng một đặc điểm của thần mưa đó là hay quên. Việc này cũng đã phần nào lý giải được hiện tượng lũ lụt và hạn hán. Có nơi thần mưa quên mà cả vùng đó cả năm không có mưa, đất khi khô cằn, hạn hán. Có vùng lại phun quá nhiều khiến lũ lụt. 

Chúng ta đã lý giải được nhiều hiện tượng của thiên nhiên như lũ lụt và hạn hán ở dưới hạ giới. Đó cũng là những kiến thức hữu ích cho cuộc sống của mỗi chúng ta.

 

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP