Câu hỏi:

11/07/2024 509 Lưu

Dựa vào thông tin trong bài, em hãy:

- Cho biết hành vi của anh H và anh B trong các trường hợp 1, 2 đã vi phạm quy định nào của pháp luật về quyền sở hữu và giải thích.

- Cho biết hành vi vi phạm này có thể dẫn tới hậu quả gì.

Quảng cáo

Trả lời:

verified Giải bởi Vietjack

♦ Yêu cầu số 1:

- Trường hợp 1.

+ Bố mẹ chị K tặng cho chị một mảnh đất (đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) trước khi chị kết hôn với anh H. Theo quy định tại Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn. Như vậy, đây là tài sản riêng của chị K, chị có quyền sử dụng và định đoạt miếng đất này theo ý chí của mình.

+ Việc anh H muốn đồng đứng tên miếng đất này, thì phải được sự đồng ý của chị K.

+ Tuy nhiên, chị K đã không đồng ý thực hiện các thủ tục nhập tài sản riêng thành tài sản chung theo yêu cầu của anh H.  Do đó, hành vi của anh H vi phạm quyền sở hữu tài sản của công dân.

- Trường hợp 2.

+ Hợp đồng thuê tài sản là sự thoả thuận giữa các bên. Theo đó, bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, bên thuê phải trả tiền thuê theo Điều 472 Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy, pháp luật không quy định về hình thức của hợp đồng thuê tài sản, các bên có thể lựa chọn hình thức của hợp đồng thuê: bằng lời nói, bằng văn bản,... Do đó, hợp đồng thuê xe ô tô giữa anh A và anh B là hợp pháp. Thời hạn thuê, tiền thuê, phương thức thanh toán giá trị tài sản thuê do các bên thoa thuận, nếu không có thoả thuận thì được xác định theo mục đích thuê. Như vậy, khi hết thời hạn thuê thì bên thuê phải có trách nhiệm trả lại tài sản thuê, thanh toán tiền thuê theo đúng thoa thuận.

+ Trong trường hợp bên thuê chậm trả tài sản thuê thì bên cho thuê có quyền yêu cầu bên thuê trả lại tài sản thuê, trả tiền thuê trong thời gian chậm trả và phải bồi thường thiệt hại; bên thuê phải trả tiền phạt vi phạm do chậm trả tài sản thuê, nếu có thoả thuận.

=> Vì vậy, Anh B đã vi phạm quyền sở hữu tài sản của công dân.

♦ Yêu cầu số 2:

- Trường hợp 1. Theo Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), anh H có hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt như sau:

+ Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với người có hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản.

+ Khung 2: Phạt tù từ 3 năm đến 10 năm đối với người có hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc một trong các trường hợp sau đây: có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200 000 000 đồng; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tái phạm nguy hiểm.

+ Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm đối với người có hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc một trong các trường hợp sau đây: chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500 000 000 đồng; lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

+ Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm đối với người có hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc một trong các trường hợp sau đây: chiếm đoạt tài sản trị giá 500 000 000 đồng trở lên; lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

+ Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính nêu trên, người phạm tội cưỡng đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ 10 000 000 đồng đến 100 000 000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Hành vi của anh H có thể cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản.

- Trường hợp 2.

+ Nếu bên thuê là anh B vẫn không trả lại tài sản khi anh C có yêu cầu thì anh C có quyền khởi kiện ra Toà án cấp huyện nơi mà người đó cư trú để yêu cầu trả lại tài sản thuê và tiền thuê, tiền thuê do chậm trả. Kèm theo đơn khởi kiện anh C phải cung cấp chứng cứ về hợp đồng thuê, thoả thuận tiền thuê và thời hạn thuê (người làm chứng, đoạn ghi âm, ghi hình) và chứng cứ người kia cầm giữ tài sản của anh C.

+ Nếu người thuê tài sản là anh B có đủ dấu hiệu cấu thành của tội phạm theo quy định tại Điều 174 và 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội danh và mức hình phạt tương ứng.

+ Theo những thông tin ban đầu mà anh C cung cấp thì anh B có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

- Nhận định a sai vì quyền sở hữu tài sản là quyền của công dân đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.

- Nhận định b sai vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân, đại diện chủ sở hữu là Nhà nước nên quyền sở hữu tài nguyên khoáng sản thuộc về Nhà nước. Nhà nước nắm giữ quyền kiểm soát tài nguyên khoáng sản và căn cứ theo các tiêu chí cụ thể trong Luật Khoáng sản năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) hay hợp đồng khoáng sản để cấp quyền khai thác khoáng sản cho các cá nhân và tổ chức có hoạt động khoáng sản.

- Nhận định c sai vì người không phải là chủ sở hữu có quyền chiếm hữu khi được uỷ quyền quản lí tài sản; khi phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp; khi người được giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự hoặc các trường hợp khác do pháp luật quy định.

- Nhận định d đúng vì theo khoản 2 Điều 2 Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản năm 2008 thì trưng dụng tài sản là việc Nhà nước sử dụng có thời hạn tài sản của tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư thông qua quyết định hành chính trong trường hợp thật cần thiết vì lí do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia.

Lời giải

(*) Tham khảo:

Ngày 17/2/2023, trên đường đi học về qua quán tạp hóa Tân Nay (tại thôn Bến, xã Trân Châu), em Phạm Doãn Hiệp  học sinh lớp 9A1 Trường Tiểu học và THCS Hà Sen, huyện Cát Hải, tỉnh Hải Phòng) đã nhặt được chiếc nhẫn vàng 2 chỉ 9999, trị giá hơn 10 triệu đồng. Sau khi hỏi mọi người xung quanh đều không ai nhận, em đã tới Trụ sở Công an xã Trân Châu để trình báo. Sau thời gian ngắn, chiếc nhẫn đã được xác minh và trả lại cho người bị đánh mất, đó là chị Phạm Thị Hoàn nhân viên công tác tại Công an huyện Cát Hải.

Mặc dù hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ không có công việc ổn định, phải nuôi 3 anh em ăn học, bản thân Hiệp phải ở nhờ nhà bác (chị gái mẹ) để tiếp tục được đến trường nhưng em vẫn luôn thực hiện tốt nhiệm vụ của người học sinh, chăm ngoan, học giỏi. Hiệp chia sẻ: “Em luôn được bố mẹ, thầy cô nhắc nhở về việc nhặt được của rơi phải trả lại người đánh mất, dù đó là món đồ trị giá to hay nhỏ, họ mất cũng như mình mất. Tuyệt đối không được lấy của ai vật gì và nếu có được thì phải tìm cách trả lại cho người bị đánh mất. Việc làm đó chính là thể hiện lòng tốt và đạo đức của mỗi người”.

Hành động đẹp của Hiệp là một việc làm mang tính nhân văn sâu sắc. Đây cũng là một trong những hành động đẹp hướng tới kỷ niệm 60 năm phong trào “Nghìn việc tốt”. Em xứng đáng là tấm gương sáng cho tất cả đội viên nhi đồng trong toàn Liên đội cũng như mọi người học tập và noi theo.