Câu hỏi:
15/11/2024 27Thực hiện đề bài sau:
Đề bài: Bài viết của bạn được trao giải cuộc thi “Tác phẩm văn học – từ góc nhìn so sánh” của báo Hoa học trò. Ban tổ chức mời bạn so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ mà bạn yêu thích trong buổi lễ trao giải.
Hãy chuẩn bị bài trình bày so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ để tham dự lễ trao giải này.
Gợi ý:
- Trình bày ý kiến so sánh về điểm tương đồng, khác biệt của hai tác phẩm thơ.
- Thể hiện ý kiến đánh giá về phong cách sáng tác của hai tác phẩm thơ.
- Lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu lấy từ hai tác phẩm thơ.
Sách mới 2k7: Tổng ôn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa…. kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia 2025, đánh giá năng lực (chỉ từ 110k).
Quảng cáo
Trả lời:
Bước 1: Chuẩn bị nói
- Đề tài của bài nói có thể là hai tác phẩm thơ bạn đã so sánh, đánh giá trong bài viết hoặc hai tác phẩm thơ khác mà bạn yêu thích.
- Xác định các thành tố giao tiếp liên quan đến bài nói bằng cách tự trả lời câu hỏi: Mục đích nói là gì? Người nghe là ai? Bài nói sẽ được trình bày trong không gian nào? Thời gian bao lâu? Từ đó, chọn cách nói phù hợp, hiệu quả.
- Tìm ý, lập dàn ý: Trong trường hợp đề tài bài nói cũng là đề tài bài viết, bạn sử dụng lại các ý tưởng, thông tin, tư liệu đã có trong bài viết một cách có chọn lọc để lập dàn ý cho bãi nói. Bài nói cần có luận điểm, lí lẽ và bằng chứng. Nếu bạn chọn đề tài khác bài viết, cần dựa vào hướng dẫn tìm ý, lập dàn ý ở phần Thực hành viết theo quy trình để thực hiện.
- Đối chiếu dàn ý của bài nói với bảng kiểm trong sách giáo khoa để luyện tập trình bày so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ cho khoa học, đáp ứng yêu cầu của kiểu bài nói.
- Có thể sử dụng kết hợp phương tiện phi ngôn ngữ để bài nói thêm sinh động, hấp dẫn.
- Dự kiến một số vấn đề mà người nghe có thể thắc mắc và dự kiến các câu trả lời tương ứng một cách thuyết phục.
Bước 2: Trình bày bài nói
Khi trình bày, cần tự tin, có sự tương tác tích cực với người nghe và bám sát nội dung bài nói đã chuẩn bị.
Bước 3: Trao đổi, đánh giá
Sử dụng Bảng kiểm kĩ năng trình bày so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ để tự đánh giá bài nói của bản thân và bài trình bày của các bạn cùng nhóm/ lớp.
* Bài nói mẫu tham khảo:
Chào thầy/cô cùng toàn thể các bạn. Tôi tên Nguyễn Văn A. Sau đây tôi xin được trình bày bài so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ: Sóng – Xuân Quỳnh và Việt Bắc – Tố Hữu
Trong cuộc đời mỗi con người, ai cũng có ít nhất một niềm thương, nỗi nhớ. Niềm thương, nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong ta tạo nên những rung động mãnh liệt trong cảm xúc. Với các thi nhân, cảm xúc lại là yếu tố vô cùng quan trọng. Nó giúp cho các nhà thơ làm nên những thi phẩm say đắm lòng người. Tiếng nói từ trái tim sẽ đến được với trái tim. Đoạn thơ:
"Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.”
trích trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu và đoạn thơ:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương.”
trích trong bài thơ “Sóng“ của Xuân Quỳnh là những vần thơ dạt dào cảm xúc như thế.
Nhà thơ Tố Hữu và nhà thơ Xuân Quỳnh là hai nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại được nhiều bạn yêu thơ mến mộ. Nếu nhà thơ Tố Hữu là cánh chim đầu đàn, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam thì Xuân Quỳnh được mệnh danh là nữ hoàng của thơ tình.
Mỗi tác giả đã tạo ra thơ của mình với mỗi vẻ đẹp riêng. Thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình, chính trị; mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu mang giọng điệu ngọt ngào, tâm tình tha thiết, giọng của tình thương mến; đậm đà tính dân tộc. Thơ Xuân Quỳnh lại in đậm vẻ đẹp nữ tính, là tiếng nói của một tâm hồn giàu trắc ẩn, hồn hậu, chân thực và luôn luôn da diết, luôn khát vọng về một hạnh phúc đời thường.
Bài thơ “Việt Bắc” viết về cách mạng, còn bài thơ “Sóng” hướng tới đề tài tình yêu lứa đôi.
Tháng 10/1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tình lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc” in trong tập thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ trích trong bài Việt Bắc là lời người ra đi đáp lại người ở lại.
Bốn câu thơ giống như một lời thề nguyền, lời khẳng định gắn bó thủy chung trước sau như một mà những cán bộ cách mạng miền xuôi muốn gửi tới đồng bào Việt Bắc. Lời thơ óng ả, dịu dàng, tình tứ và lối xưng hô thân mật, ngọt ngào của ca dao, dân ca “mình - ta” được sử dụng một cách linh hoạt. Nỗi nhớ của người cách mạng về quê hương Việt Bắc giống như nỗi nhớ của những đôi lứa yêu nhau. Sự sắp xếp từ liền đôi, quấn quýt không muốn rời xa của “ta” và “mình”, vừa khéo léo khẳng định tấm lòng của “ta” cũng như “mình”. Tình cảm của người về với Việt Bắc là thứ tình cảm thắm thiết, mặn mà, gắn chặt trong tim, ghim chặt trong lòng. Tình cảm ấy còn được khẳng định bằng một hình ảnh thơ so sánh “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Trong tiềm thức của người Việt Nam nước trong nguồn là dòng nước không bao giờ vơi cạn, chảy bất tận. Ý thơ trở nên sâu sắc hơn khi tác giả sử dụng cặp từ so sánh tăng tiến “bao nhiêu,… bấy nhiêu”. Đó là sự so sánh giữa một cái vô tận với một cái bất tận.
Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 nhân chuyến đi thực tế ở Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). Bài thơ được viết khi Xuân Quỳnh còn trẻ khoảng 25 tuổi nhưng đã trải qua không ít những thăng trầm, đổ vỡ trong tình yêu.
Ở khổ thơ trên “Sóng” được khám phá theo chiều rộng của không gian ở hai miền “xuôi”, “ngược”. Sóng dù xuôi về hướng Bắc, dù ngược về phương Nam thì cuối cùng vẫn hướng về bờ:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương.”
Thông thường người ta hay nói xuôi Nam, ngược Bắc nhưng ở đây Xuân Quỳnh lại nói xuôi Bắc, ngược Nam, dường như cái lô-gic của lí trí thông thường đã bị lu mờ, chỉ còn lại hai miền xuôi ngược để trăn trở tìm nhau, để khao khát bên nhau. Cách nói ấy cũng khiến người đọc hình dung về những gian nan, cách trở mà trái tim yêu phải vượt qua.
Con “sóng” kia muôn đời thao thức để khắc khoải xuôi ngược tìm bờ thì em cũng chỉ duy nhất hướng về “phương anh”. Đây là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh khi đưa khái niệm không gian để nói về mức độ thủy chung, bốn phương Đông - Tây - Nam - Bắc là của vũ trụ này, chỉ có duy nhất nơi anh là phương trời của em. Giữa cuộc đời rộng lớn, thơ anh vẫn mới là bến bờ hạnh phúc, là nơi duy nhất em tìm về. Ý thơ bộc bạch rất thật, sáng lên vẻ đẹp của tình yêu chung thủy. Hóa ra ở trung tâm nỗi nhớ là anh nên dẫu có đi về phương nào thì em cũng hướng về phương anh. Câu thơ giống như một lời nguyện thề thủy chung, da diết, đằm thắm.
Nếu ở khổ 5 nhân vật trữ tình bộc bạch "lòng em nhớ đến anh” thì ở đây cảm xúc đã dâng lên một bậc “Nơi nào em cũng nghĩ”. “Nghĩ” có cả yêu thương, mong nhớ, có cả phấp phỏng lo âu, hờn ghen, giận dỗi. Anh trở thành ý nghĩ thường xuyên, thường trực trong lòng, canh cánh trong lòng. “Nhớ” là tình cảm, cảm xúc tự nhiên, hồn nhiên thì “nghĩ” là sự suy tư, chín chắn, sâu sắc. Người con gái khẳng định sự duy nhất, tuyệt đối gắn bó thủy chung trong tình yêu.
Khổ thơ cho ta thấy tình yêu của người phụ nữ, sự thủy chung son sắt duy nhất. Nhân vật trữ tình đã trực tiếp thể hiện cảm xúc của mình. Khẳng định tình yêu thủy chung cũng là khao khát, là khát vọng người yêu thương phải xứng đáng với mình.
Cả hai đoạn thơ đều là những rung động, những xúc cảm nhớ thương của một tình yêu con người, đất nước trong lòng người bởi một tình cảm đẹp, sự thủy chung son sắt không đổi thay. Trên phương diện nghệ thuật, cả hai đoạn thơ đều là những ngôn từ giản dị nhưng lại giàu giá trị nghệ thuật. Giọng thơ trữ tình tha thiết nhưng cũng khẳng định mạnh mẽ, chắc chắn, đinh ninh như một lời thề.
Tình cảm trong đoạn thơ Việt Bắc là tình cảm lớn lao, tình cảm cách mạng, tình cảm chính trị. Nỗi nhớ ấy gắn liền với cuộc chia ly của người cán bộ cách mạng rời căn cứ địa kháng chiến để trở về thủ đô. Chủ thể của nỗi nhớ là những con người kháng chiến nhớ những kỉ niệm với quê hương Việt Bắc, đồng bào Việt Bắc ân tình đùm bọc, cưu mang trong suốt những tháng ngày gian khổ của cuộc kháng chiến. Còn tình cảm trong “Sóng” là tình yêu đôi lứa, cảm xúc của chủ thể trữ tình “em”, một phụ nữ đang yêu vừa gián tiếp, vừa trực tiếp. “Sóng” là hóa thân mà cũng là phân thân của chủ thể trữ tình. “Sóng” là ẩn dụ để diễn tả nỗi nhớ. Sắc thái của nỗi nhớ trong đoạn thơ chỉ duy nhất hướng về một nơi ở phương anh một cách chung thủy, sắt son.
Đoạn thơ “Việt Bắc” sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc. Giọng điệu ngọt ngào như một khúc trữ tình sâu lắng, da diết. Sóng - đoạn thơ sử dụng thể thơ năm chữ và ẩn dụ nghệ thuật sóng. Thể thơ và nhịp điệu thơ đã gợi hình hài và nhịp điệu bất tận vào ra của những con sóng nỗi nhớ tình yêu. Nhờ nghệ thuật ẩn dụ, nỗi lòng của người phụ nữ khi yêu được thể hiện chân thành, nữ tính, duyên dáng mà không kém phần mãnh liệt, sâu sắc.
Vẻ đẹp trong thơ Tố Hữu luôn gắn với ca dao đậm đà, còn Xuân Quỳnh thì mãnh liệt, nồng nàn. Từ hai nỗi nhớ được thể hiện trong đoạn thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được đặc sắc của hai giọng điệu thơ mà cũng thấy được vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam yêu thương đằm thắm, dịu dàng mà mãnh liệt, tình nghĩa thủy chung, son sắt.
Trên đây là phần trình bày của tôi về việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ: Sóng – Xuân Quỳnh và Việt Bắc – Tố Hữu. Hi vọng nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn. Cảm ơn mọi người đã chú ý lắng nghe.
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 1:
Xác định chủ thể trữ tình của bài thơ Thu vịnh và Đây mùa thu tới. Chủ thể ấy xuất hiện theo dạng thức nào (chủ thể có từ nhân xưng rõ ràng; chủ thể hoá thân vào nhân vật; chủ thể ẩn)?
Câu 2:
Xác định phong cách sáng tác của bài thơ Thu vịnh, Đây mùa thu tới và cho biết căn cứ vào đâu để bạn xác định được như vậy.
Câu 3:
Bài thơ Thu vịnh đã đáp ứng các yêu cầu về thi luật của thể thơ thất ngôn bát cú luật Đường như thế nào?
Câu 4:
Vẽ sơ đồ bố cục của bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ.
Câu 5:
Trình bày đặc điểm của ngôn ngữ trang trọng. Phân tích một ví dụ để minh hoạ.
Câu 6:
Ngôn ngữ trang trọng là gì? Loại ngôn ngữ này có thể xuất hiện ở những dạng nào?
Câu 7:
Đọc văn bản 1, văn bản 2 và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Văn bản 1
ĐÂY MÙA THU TỚI
Xuân Diệu
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng. [1]
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luôn trong gió…
Đã vắng, người sang những chuyến đò…
Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia li, [2]
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì. [3]
(In trong Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học Hà Nội, 1988, tr. 109)
[1] Tưởng tượng
Bạn hình dung như thế nào về bức tranh thu trong dòng thơ này?
[2] Suy luận
Bức tranh tả mùa thu vào thời điểm nào trong ngày?
[3] Suy luận
Bạn hiểu như thế nào về tâm trạng của “ít nhiều thiếu nữ” trong hai dòng cuối bài thơ?
Văn bản 2
THU VỊNH
Nguyễn Khuyến
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trống như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. [1]
(In trong Nguyễn Khuyến – tác phẩm chọn lọc,
Lại Văn Hùng giới thiệu và tuyển chọn, NXB Giáo dục, 2009, tr. 48 – 49)
[1] Suy luận
Vì sao tác giả lại viết “thẹn với ông Đào”?
Phân tích bức tranh mùa thu trong hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây mùa thu tới. Bạn có nhận xét gì về cách miêu tả bức tranh thu ấy?
về câu hỏi!