Câu hỏi:
15/11/2024 263Đọc văn bản Tịch Phương Bình và thực hiện các yêu cầu nêu phía dưới.
TỊCH PHƯƠNG BÌNH
Bồ Tùng Linh
Tịch Phương Bình, người huyện Đông An. Cha tên là Liêm, tính tình ngay thẳng nhưng vụng ăn nói. Ở trong làng, Liêm có hiềm khích với một người nhà giàu họ Dương. Họ Dương chết trước. Vì thế, mấy năm sau, khi Liêm bệnh nặng sắp nguy kịch, nói với người ta rằng: “Lão Dương nay đang hối lộ dưới âm phủ sai đánh đập tôi đó”. Chốc lát, mình mẩy sưng phù bầm tím, kêu gào rồi chết. Tịch đau xót thảm thiết, không chịu ăn uống, nói: “Cha ta là người chất phác, nay bị bọn quỷ : Tình cảm và câu nói dữ lấn ép, ta xuống âm ti thay cha xin minh oan”. Từ đó, không nói gì nữa cả, khi đứng hoặc ngồi, vẻ như người ngây. Thì ra hồn đã lìa khỏi xác.
Tịch vừa thấy mình ra khỏi cửa, chưa biết đi đâu. Nhưng thấy người đi trên đường, liền hỏi đường đến thành ấp. Một lúc sau, vào thành. Thấy cha mình đã bị giữ ở trong ngục. Tịch đến cửa ngục, thấy cha nằm dưới mái hiên, bộ dạng hết sức khốn khổ. Cha Tịch ngẩng mắt lên, nhìn thấy con từ xa, chảy nước mắt giàn giụa, liền nói: “Bọn ngục lại đều ăn đút lót, ngày đêm đánh đập cha, chân cẳng đui về nát bấy cả rồi”. Tịch nổi giận lớn tiếng mắng bọn ngục tốt: “Cha ta nếu như có tội, thì đã có pháp luật âm phủ, há để bọn quỷ mị chúng bay tự tiện ngang ngược hay sao!”. Rồi lấy bút ra viết đơn kiện. Thì vừa gặp đúng buổi chầu sớm ở sở quan Thành Hoàng, liền đưa đơn vào.
Họ Dương sợ, đem hối lộ từ trong lẫn ngoài, rồi mới ra đối chất. Thành Hoàng coi rằng đơn tụng không có bằng chứng, không cho Tịch vào chầu. Tịch tức giận không biết lại kêu oan vào đâu, đi thêm một trăm dặm nữa tới quận, đem đơn kiện báo cho Quận Ti. Lâu cả nửa tháng mới được vào cật vấn. Quận Ti ra lệnh đánh đòn Tịch một trận và phê cho Thành Hoàng xét xử lại. Tịch tới ấp, thân bị cùm kẹp, không thể tự mình bày tỏ oan khuất. Thành Hoàng sợ Tịch lại đưa kiện nữa, sai quân hầu áp giải về nhà. Bọn sai dịch (đưa Tịch) tới cửa rồi bỏ về. Tịch không chịu vào nhà, lẻn trốn về âm phủ, tố cáo Quận Ti tham ô. Diêm Vương (vua âm phủ) liền cho câu lưu đối chất. Hai quan bí mật sai kẻ tâm phúc đến điều đình với Tịch, hứa cho một ngàn lạng vàng. Tịch không nghe. Được mấy ngày, chủ quán (chỗ Tịch bị giam giữ) bảo: “Ông cứng đầu quá, phủ quan muốn giải hoà mà không chịu nhận. Nghe nói các quan mang thư tới trước Diêm Vương. Tôi e việc không tốt đầu”. Tịch cho là lời đồn đại vô căn cứ nên không tin lắm. Một chốc có người áo đen gọi vào. Lên sảnh đường thấy Diêm Vương có vẻ giận dữ, không cho phép nói gì cả, ra lệnh đánh Tịch hai mươi đòn. Tịch lớn tiếng hỏi “Tôi có tội gì?” Diêm Vương làm như không nghe thấy. Tịch chịu đòn, la to: “Bị đòn là đáng kiếp! Ai bảo ngươi không có tiền”. Diêm Vương càng giận thêm, sai đem đặt lên giường lửa. Hai con quỷ lôi Tịch xuống, thấy thêm bên cạnh có đặt cái giường sắt, bên dưới có lửa đốt, mặt giường đỏ rực. Quỷ lột áo Tịch ra, đặt lên đó, lăn qua lăn lại, dày vò đè ép. Tịch cực kì đau đớn, xương thịt cháy đen, khó muốn chết mà không được. Khoảng hai giờ sau, một con quỷ nói: “Đủ rồi”. Đoạn kéo Tịch khỏi giường, cho mặc áo; may mà còn khập khễnh đi được. Tịch lại đi lên sảnh đường, Diêm Vương hỏi: “Dám kiện nữa thôi?”. Tịch nói: “Oan uống chưa bày giải xong, tấc lòng này chưa chết; nếu bảo không kiện nữa, tức là dối gạt ngài. Vậy sẽ kiện nữa”. Diêm Vương lại hỏi: “Kiện điều gì?”. Tịch nói: “Thân này phải chịu đựng những gì, đều nói ra hết”. Diêm Vương lại nổi giận, sai đem Tịch ra cưa xẻ thân thể. Hai con quỷ lôi đi, Tịch thấy một cây gỗ dựng đứng, cao chừng tám, chín thước, trên có hai tấm gỗ, ở trên ở dưới, máu đọng bê bết. Hai con quỷ sắp sửa trói Tịch vào đó, bỗng nghe trên sảnh đường hô lớn: “Tên Tịch!”. Hai con quỷ lại áp giải Tịch trở lại (chỗ cũ). Diêm Vương lại hỏi: “Còn dám kiện tụng nữa thôi?” Tịch đáp: “Vẫn kiện”. Diêm Vương ra lệnh tức tốc mang đi. Dưới cây gỗ, hai con quỷ lấy hai tấm gỗ kẹp Tịch lại, buộc lên cây gỗ. Cái cưa vừa hạ xuống, Tịch có cảm giác như óc trên đỉnh đầu từ từ nứt ra, đau đớn không chịu nổi, nhưng vẫn cắn răng không kêu la. Nghe một con quỷ nói: “Tên này cứng cỏi thiệt!”. Tiếng của soàn soạt xuống tới dưới ngực, lại nghe một con quỷ nói: “Người này chí hiếu vô tội, cưa xiên qua một bên, đừng hại vào tim”. Tịch nghe lưỡi cưa quẹo quành xuống dưới, càng đau đớn gấp bội. Một lúc sau, thân đứt làm hai. Khi hai tấm gỗ mở ra, hai nửa mình đổ xuống đất. Hai con quỷ lên sảnh đường cất tiếng thông báo (đã cưa xong). Sảnh đường truyền lệnh ráp hai nửa thân hình lại rồi đem lên xem. Hai con quỷ liền ấn hai phần thân thể dính lại với nhau và lôi đi. Tịch có cảm giác chỗ đường của đau muốn xé ra, mỗi nửa bước lại té nhào. Một con quỷ rút từ lưng ra một sợi dây đưa cho Tịch nói: “Tặng anh báo hiếu”. Tịch cầm lấy buộc vào lưng, bỗng thấy mình khoẻ khoắn, không còn chút đau đớn nào nữa. Rồi lên sảnh đường quỳ xuống. Diêm Vương lại hỏi như lần trước. Tịch khiếp sợ lại bị tra tấn khốc liệt, liền nói: “Không kiện nữa”. Diêm Vương tức thì ra lệnh dẫn Tịch đưa về dương gian.
Lính canh dẫn Tịch ra cửa phía bắc, chỉ cho đường về, rồi quay trở lại (âm phủ). Tịch nghĩ âm ti còn ám muội hơn cả trần gian, nhưng khốn nỗi không biết đường nào kêu tới Thượng Đế. Tục truyền Nhị Lang ở Quán Khẩu là người có công huân với Thượng Đế, là bậc thần thông minh, chính trực, cầu xin chắc được linh ứng. Mừng thấy hai tên lính canh đã đi khỏi rồi, Tịch liền xoay mình đi về hướng nam. Trong lúc đang tất tả chạy, thì có hai người đuổi theo:“Diêm Vương đã ngờ nhà ngươi không chịu về, quả nhiên là thế!”. Chúng nó liền dẫn trở về gặp lại Diêm Vương. Tịch thầm nghĩ Diêm Vương sẽ nổi nóng hơn nhiều, tai vạ càng dữ dội thêm nữa. Nhưng Diêm Vương không có vẻ giận chi cả, bảo Tịch rằng: “Ngươi thật chí hiếu. Còn oan khuất của cha ngươi, ta đã rửa sạch như tuyết rồi. Bây giờ đã được đầu thai ở nhà giàu sang, thì ngươi còn kiện cáo âm phủ làm chi. Nay đưa ngươi về, cho ngươi nghìn lạng vàng làm tài sản, tăng thêm tuổi thọ, ngươi bằng lòng chưa?”. Rồi ghi vào sổ, đóng con dấu thật to, đưa cho Tịch xem tận mắt. Tịch lạy tạ, lui xuống. Hai con quỷ cùng ra theo, tới ngoài đường, vừa xua đi vừa chửi Tịch: “Thằng giặc gian trá, bao lần tráo trở, làm bọn tao vất vả muốn chết. Mi mà làm như thế nữa, sẽ bắt mi bỏ vào cối xay, nghiền thành bột. Tịch trợn mắt quát lớn: “Đồ quỷ tầm bậy. Tính ta sợ dao cưa, chứ không sợ đánh đập. Cứ về hỏi lại Diêm Vương; Diêm Vương ra lệnh cho ta tự về, sao lại mất công dẫn đi theo làm gì?”. Đoạn chạy ngược lại. Hai con quỷ sợ, xuống giọng khuyên nhủ Tịch trở về. Tịch cố ý đi chậm chạp, đi vài bước lại nghỉ bên đường. Hai con quỷ nuốt hận, không dám nói gì nữa.
Khoảng nửa ngày, đến một xóm nọ, có một cửa hé mở, hai con quỷ dẫn Tịch cùng ngồi. Tịch liền ngồi ở bậc cửa. Hai con quỷ thừa dịp bất ngờ, đẩy Tịch vào trong cửa. Khi định thần nhìn lại thì mình đã hoá thành một đứa bé sơ sinh. Phẫn uất kêu khóc, ba ngày không bú rồi chết non. Hồn vất vưởng không quên Quán Khẩu. Đi được chừng mấy chục dặm, bỗng thấy lọng kích ngang đường. lịch vì muốn tránh, vượt qua đường, nên phạm phải nghi trượng, bị lính đi trước ngựa bắt, trói đem giải lên trước xe. Ngẩng lên trông thấy trong xe có một người trẻ tuổi, dáng dấp khôi ngô tuấn tú. Người thiếu niên hỏi Tịch: “Ai đấy?”. Tịch chính vì oan khuất chưa biết bày tỏ nơi đâu, nghĩ rằng đây là một viên quan to, có thể tác oai tác phúc, nên nói ra hết mọi điều oan ức khổ sở mà mình đã chịu dựng. Người trong xe ra lệnh cởi trói cho Tịch và sai cho đi theo xe. Một lúc sau đến một nơi, có cả hơn chục quan viên nghênh đón bên trái đường. Người trong xe hỏi thăm từng người. Xong chỉ Tịch và nói với một ông quan rằng: Đây là một người dưới trần vừa muốn kêu nài, nên xét xử ngay lập tức”. Tịch hỏi người được dặn bảo chính là Nhị Lang. Tịch nhìn Nhị Lang, thân hình cao lớn, mặt theo hầu mới biết người trong xe là Cửu Vương điện hạ của Thượng Đế, và người mày râu ria rậm rạp, không giống như thế gian truyền tụng. Cửu Vương đi rồi, Tịch theo Nhị Lang đến một sở quan, chính là chỗ cha Tịch và lão họ Dương bị giam giữ. Chốc lát trong xe tù có tù nhân chui ra, thì là Diêm Quận Ti và Thành Hoàng. Mọi lời thẩm vấn đối chất đều không sai khác những lời Tịch đã khai. Ba quan run sợ, trông như chuột mắc bẫy. Nhị Lang cầm bút phán quyết. Một lát sau, bản án truyền xuống, cho mọi người trong vụ án xem. Quyết định như sau:
Xét rằng Diêm Vương, được phong tước vương, thụ ơn Thượng Đế. Lẽ ra phải giữ mình trong sạch để dẫn dắt thuộc quan, không được tham ô mà bị chê bai, chỉ trích. Thế mà y nghi trượng nghênh ngang, chỉ khoe khoang cấp bậc cao sang; tham lam, ác độc như giống cừu loài sói, làm nhơ nhuốc phẩm cách bề tôi. Búa đánh, dao chặt, cha con xương thịt còn chi. Cá lớn nuốt cá bé, cá ăn tôm; đàn kiến nhỏ nhoi đáng xót. Phải vốc nước Tây giang đem mi ra rửa ruột; đem đốt nóng giường đông, cho ngươi vào hũ.
Xét rằng Thành Hoàng, Quận Ti, là quan cha mẹ dân đen, chăn dắt bò dê cho Thượng Đế. Tuy chức phận ở hàng dưới, (nhưng là) người tận tuỵ há chịu khom lưng; dù bị quan trên chèn ép, kẻ vững chí phải nên cứng cổ. Thế mà lại làm tay chân cho loài diều loài ó, quên nghĩ tới thân phận dân nghèo. Lại còn vênh váo thói khi vượn gian manh, chẳng hiềm làm loài quỷ đói. Chuyên ăn bòn đút lót làm điều trái phép, đúng là bầy mặt người dạ thú. Phải cho rút tuỷ thay lông, lột da đổi vỏ mà đi đầu thai kiếp khác.
Xét rằng mấy tên sai dịch, đã ở cùng lũ quỷ, đâu phải loài người. Cửa công nên gắng tu sửa, hòng mong trở lại kiếp người. Cớ sao biển khổ dậy sóng, gây nên oan nghiệt tày trời? Vênh vang ngang ngược, mặt chó (tạo điều oan khuất) khiến cho sương rơi tháng hạ. Náo loạn kêu gào, oai hổ cắt ngang đường lớn. Phóng túng doạ dẫm nơi âm phủ, ai ai đều biết cai tù đáng nể. Theo hùa giúp rập bọn quan tham tàn ác độc, mọi người cùng khiếp phường đồ tể. Đáng đưa chúng nó ra pháp trường chặt đứt chân tay; lại đem bỏ vào vạc sôi dầu bỏng, vớt ra chỉ còn Xét rằng lão họ Dương, giàu có nhưng không có lòng nhân; gian giảo nhiều mánh lới. Ánh vàng bạc rọi đất, khiến cho hết thảy điện đài ở cõi âm cũng phải lu mờ. Hơi đồng ngút trời, làm cho những người chết oan trong thành không còn thấy được mặt trời, mặt trăng. Mùi tiền bạc tanh tưởi sai khiến được quỷ, sức mạnh của nó làm lay động tới cả bậc thần. Nên truyền lệnh tịch biên gia sản họ Dương, đem tưởng thưởng lòng chí hiếu của ông Tịch. Tức khắc giao phó cho thần núi Thái Sơn.
(In trong Bồ Tùng Linh, Liêu trai chí dị,
Cao Tự Thanh dịch, NXB Văn hoá Sài Gòn, 2005, tr. 122 – 125)
Xác định đề tài, chủ đề của truyện và nếu căn cứ để xác định chủ đề.
Quảng cáo
Trả lời:
- Đề tài: truyện viết về lòng hiếu nghĩa, cốt cách cương trực.
- Chủ đề: truyện thể hiện lòng hiếu nghĩa và hành trình đấu tranh của Tịch Phương Bình nhằm giải nỗi oan, đòi công lí cho cha mình.
Hot: 500+ Đề thi thử tốt nghiệp THPT các môn, ĐGNL các trường ĐH... file word có đáp án (2025). Tải ngay
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
a. Gợi ý:
1. Mở bài
* Giới thiệu chung::
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ và Nguyễn Tuân.
- Giới thiệu hai tác phẩm: Chuyện chức phán sự đền Tản Viên và Trên đỉnh non Tản.
- Nêu vấn đề nghị luận: So sánh và đánh giá vai trò của yếu tố kì ảo trong hai tác phẩm
2. Thân bài
- Vai trò của yếu tố kì ảo trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ):
+ Mô tả yếu tố kì ảo: Các yếu tố kỳ ảo như phép thuật, sự xuất hiện của các thần linh, và các hiện tượng không giải thích được.
+ Tác dụng: Tăng cường sự huyền bí và tạo nên không khí thần thoại, giúp làm nổi bật các bài học đạo đức và ý nghĩa xã hội trong câu chuyện.
- Vai trò của yếu tố kì ảo trong Trên đỉnh non Tản (Nguyễn Tuân):
+ Mô tả yếu tố kì ảo: Những mô tả về vẻ đẹp kỳ vĩ của núi Tản Viên, các yếu tố thần thoại như sự giao thoa giữa con người và thiên nhiên.
+ Tác dụng: Tạo nên hình ảnh phong cảnh hùng vĩ, làm nổi bật vẻ đẹp tự nhiên và tinh thần của con người trong mối liên hệ với thiên nhiên
- So sánh và đánh giá:
+ Tương đồng: Cả hai tác phẩm đều sử dụng yếu tố kỳ ảo để nâng cao giá trị nghệ thuật và thể hiện các ý tưởng trung tâm của tác phẩm.
+ Khác biệt: Chuyện chức phán sự đền Tản Viên chú trọng vào các yếu tố thần thoại để phản ánh các giá trị đạo đức và xã hội, trong khi Trên đỉnh non Tản tập trung vào mô tả vẻ đẹp thiên nhiên và sự kết nối giữa con người với thiên nhiên
3. Kết bài
- Tổng kết:
+ Tóm tắt những điểm nổi bật về vai trò của yếu tố kì ảo trong hai tác phẩm.
+ Đánh giá chung về cách mỗi tác giả sử dụng yếu tố kỳ ảo để đạt được mục tiêu nghệ thuật và ý nghĩa của tác phẩm
- Nhận xét và liên hệ:
+ Nhận xét về ảnh hưởng của yếu tố kì ảo trong việc làm nổi bật các chủ đề chính của từng tác phẩm.
+ Liên hệ với ảnh hưởng của yếu tố kì ảo trong văn học dân gian và hiện đại
b. Gợi ý:
1. Mở bài
- Giới thiệu chung:
+ Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Nguyễn Nhược Pháp.
+ Giới thiệu hai tác phẩm: Trên đỉnh non Tản và Sơn Tinh, Thủy Tinh
+ Nêu vấn đề nghị luận: So sánh và đánh giá hình tượng nhân vật Sơn Tinh trong hai tác phẩm
2. Thân bài
- Hình tượng Sơn Tinh trong Trên đỉnh non Tản (Nguyễn Tuân):
+ Mô tả hình tượng: Sơn Tinh được mô tả là một nhân vật hào hùng, gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên, đặc biệt là núi Tản Viên.
+ Đặc điểm và vai trò: Nhấn mạnh tính cách kiên cường, vẻ đẹp kỳ vĩ, và sự hòa hợp với thiên nhiên. Sơn Tinh không chỉ là một người bảo vệ núi non mà còn là biểu tượng của vẻ đẹp tự nhiên và sức mạnh của thiên nhiên.
- Hình tượng Sơn Tinh trong Sơn Tinh, Thủy Tinh (Nguyễn Nhược Pháp):
+ Mô tả hình tượng: Sơn Tinh trong tác phẩm này thường được miêu tả với tính cách anh hùng, mạnh mẽ, và có khả năng siêu phàm.
+ Đặc điểm và vai trò: Sơn Tinh là người chiến thắng trong cuộc chiến chống lại Thủy Tinh, thể hiện sức mạnh và trí tuệ, đồng thời tượng trưng cho sự bảo vệ chính nghĩa và nhân dân.
- So sánh và đánh giá:
+ Tương đồng: Cả hai tác phẩm đều thể hiện Sơn Tinh như một nhân vật anh hùng với sức mạnh phi thường, bảo vệ công lý và chống lại các thế lực xâm lược.
+ Khác biệt: Trong Trên đỉnh non Tản, Sơn Tinh được nhấn mạnh như một biểu tượng của thiên nhiên và sự hòa hợp với nó, trong khi Sơn Tinh, Thủy Tinh tập trung vào khía cạnh anh hùng và chiến đấu của nhân vật
3. Kết bài
- Tổng kết:
+ Tóm tắt các điểm nổi bật về hình tượng Sơn Tinh trong từng tác phẩm.
+ Đánh giá chung về sự khác biệt và tương đồng trong cách xây dựng hình tượng Sơn Tinh của mỗi tác giả.
- Nhận xét và liên hệ:
+ Nhận xét về ảnh hưởng của hình tượng Sơn Tinh đối với ý nghĩa và chủ đề của từng tác phẩm.
+ Liên hệ với hình tượng Sơn Tinh trong văn học dân gian và các tác phẩm khác.
c. Gợi ý:
1. Mở bài
- Giới thiệu chung:
+ Giới thiệu về tác giả Nguyễn Huy Tưởng và William Shakespeare.
+ Giới thiệu hai tác phẩm: Vĩnh biệt Cửu Trùng đài (trích từ Vũ Như Tô) và Hamlet (Sống hay không sống - đó là vấn đề).
+ Nêu vấn đề nghị luận: So sánh và đánh giá cách xây dựng hình tượng nhân vật bi kịch trong hai tác phẩm
2. Thân bài
- Hình tượng nhân vật bi kịch trong Vĩnh biệt Cửu Trùng đài (Nguyễn Huy Tưởng):
+ Mô tả nhân vật: Vũ Như Tô là một nhân vật bi kịch vĩ đại, bị giằng xé giữa lý tưởng và thực tại, giữa lòng yêu nước và tình yêu cá nhân.
+ Tính cách và xung đột: Nhấn mạnh những xung đột nội tâm, sự thất bại trong việc thực hiện lý tưởng xây dựng đài cửu trùng và sự phản bội từ những người xung quanh.
+ Đánh giá: Nhân vật bi kịch của Nguyễn Huy Tưởng thể hiện sự đấu tranh không ngừng với số phận và xã hội, đồng thời phản ánh những quan điểm sâu sắc về bản chất của con người và xã hội.
- Hình tượng nhân vật bi kịch trong Hamlet (William Shakespeare):
+ Mô tả nhân vật: Hamlet là nhân vật bi kịch nổi tiếng với sự phân vân, do dự, và cuộc đấu tranh nội tâm không dứt.
+ Tính cách và xung đột: Nhấn mạnh những xung đột nội tâm, sự tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống và sự mâu thuẫn giữa trách nhiệm và cảm xúc cá nhân
+ Đánh giá: Hamlet đại diện cho sự đấu tranh cá nhân với bản chất của con người, những vấn đề về sự tồn tại và ý nghĩa cuộc sống, cùng với sự mâu thuẫn giữa lý trí và cảm xúc.
- So sánh và đánh giá:
+ Tương đồng: Cả hai nhân vật đều trải qua cuộc đấu tranh nội tâm sâu sắc và thể hiện sự xung đột giữa lý tưởng và thực tại. Họ đều phải đối mặt với sự thất bại và đau khổ.
+ Khác biệt: Vũ Như Tô là biểu tượng của sự thất bại trong việc đạt được lý tưởng xã hội và cá nhân, trong khi Hamlet đại diện cho sự phân vân và mâu thuẫn nội tâm về sự tồn tại và trách nhiệm cá nhân. Vũ Như Tô bị giam cầm trong các yếu tố xã hội và chính trị, còn Hamlet bị giằng xé bởi các yếu tố tâm lý và triết lý
3. Kết bài
- Tổng kết:
+ Tóm tắt các điểm nổi bật về hình tượng nhân vật bi kịch trong từng tác phẩm.
+ Đánh giá chung về sự khác biệt và tương đồng trong cách xây dựng hình tượng nhân vật bi kịch của mỗi tác giả.
- Nhận xét và liên hệ:
+ Nhận xét về ảnh hưởng của hình tượng nhân vật bi kịch đối với chủ đề và thông điệp của từng tác phẩm.
+ Liên hệ với các tác phẩm bi kịch khác trong văn học cổ điển và hiện đại.
Lời giải
- Yếu tố kì ảo trong Tịch Phương Bình:
+ Sự hiện diện của hồn ma: Hồn ma của Tịch Phương Bình hiện ra để trả thù sau khi bị bức hại, một chi tiết phi thường mà không thể xảy ra trong đời thực.
+ Cuộc đối thoại giữa người sống và hồn ma: Việc nhân vật chính có thể giao tiếp với hồn ma là yếu tố kì ảo, đưa người đọc vào thế giới huyền bí, nơi người sống và người chết có thể tương tác.
- Vai trò của yếu tố kì ảo:
+ Phản ánh hiện thực xã hội: Yếu tố kì ảo trong tác phẩm nhấn mạnh sự bất công và sự đàn áp trong xã hội phong kiến. Qua đó, tác giả phê phán chế độ tàn bạo đã gây ra đau thương cho những người vô tội.
+ Tăng cường tính hấp dẫn và gợi mở: Yếu tố kì ảo giúp câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn, mở ra một thế giới đầy bí ẩn và kích thích trí tưởng tượng của người đọc.
- So sánh với truyện kể dân gian:
+ Tương đồng: Yếu tố kì ảo trong cả Tịch Phương Bình và truyện dân gian đều phục vụ việc truyền tải thông điệp đạo đức hoặc phản ánh hiện thực xã hội. Chúng cũng giúp người đọc đi vào thế giới siêu nhiên, gợi lên những bài học triết lý.
+ Khác biệt: Trong khi truyện kể dân gian thường dùng yếu tố kì ảo để dạy những bài học cuộc sống đơn giản, Tịch Phương Bình của Bồ Tùng Linh lại mang tính triết lý sâu sắc hơn, phản ánh hiện thực xã hội đen tối của thời đại, cũng như sự trả thù và đấu tranh chống lại áp bức.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 3)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 4)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 4)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 2)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 5)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 1)
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 12 Cánh diều có đáp án - Đề 7
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 12 Chân trời sáng tạo có đáp án - Đề 4
Hãy Đăng nhập hoặc Tạo tài khoản để gửi bình luận