Câu hỏi:
27/11/2024 2,210Đọc đoạn trích:
CHUYỆN CÁI CHÙA HOANG Ở HUYỆN ĐÔNG TRIỀU
Ðời nhà Trần, tục tin thần quỷ, thần từ phật tự chẳng đâu là không có, như chùa Hoàng Giang, chùa Ðồng Cổ, chùa An Sinh, chùa Yên Tử, chùa Phổ Minh, quán Ngọc Thanh dựng lên nhan nhản khắp nơi; những người cắt tóc làm tăng làm ni, nhiều hầu bằng nửa số dân thường. Nhất là vùng huyện Ðông Triều [1], sự sùng thượng lại càng quá lắm, chùa chiền dựng lên, làng lớn có đến hơn mười nơi, làng nhỏ cũng chừng năm, sáu, bao ngoài bằng rào lũy, tô trong bằng vàng son, phàm người đau ốm, chỉ tin theo ở sự hư vô; gặp các tuần tiết thì đàn tràng cúng vái rất là rộn rịp. Thần Phật xem chừng cũng ứng giáng, nên cầu gì được nấy, linh ứng lạ thường.
Bởi vậy, người dân càng kính tin, không dám ngạo mạn. Ðời vua Giản Ðịnh [2] nhà Trần, binh lửa luôn năm, nhiều nơi bị đốt; số chùa chiền còn lại, mười không được một, mà cái số còn lại ấy, cũng mưa bay gió chuyển, đổ ngã xiêu nghiêng, tiêu điều đứng rủ ở giữa đám cỏ hoang bụi rậm. Sau khi quân Ngô [3] lui, dân trở về phục nghiệp. Có viên quan là Văn Tư Lập đến trị huyện ấy, thấy những cảnh hoang tàn đổ nát, bèn róng rả dân đinh các xã, đánh tranh kên nứa mà sửa chửa lại ít nhiều. Ngồi ở huyện ấy một năm, thấy dân quanh huyện khổ về cái nạn trộm cắp, từ gà lợn ngỗng ngan đến cá trong ao, quả trong vườn, phàm cái gì ăn được đều bị mất hết, Tư Lập than rằng:
- Ta ở vào địa vị một viên ấp tể, không có cái minh để xét ra kẻ gian, cái cứng để chế phục kẻ ác, vì nhân nhu mà hỏng việc, chính là cái lỗi tự ta.
Song Tư Lập cho rằng những đám trộm cắp vặt ấy, cũng không đến nỗi là đáng lo ngại lắm, nên chỉ sức các thôn dân, đêm đêm họ vẫn canh phòng cẩn mật. Trong khoảng một tuần, tuy canh phòng chẳng thấy gì cả, nhưng những việc trộm vặt cũng vẫn như trước. Lâu dần càng không thấy chúng kiêng sợ gì, đến nỗi lại vào bếp để khoắng hũ rượu của người ta, khi mọi người đổ đến vây bắt, thì kẻ gian đã biến đi đằng nào mất, chẳng thấy gì cả. Tư Lập cười mà nói:
- Té ra lâu nay vẫn ngờ oan cho lũ kẻ trộm, kì thực đó là loại ma quỷ, hưng yêu ác quái đó mà thôi. Những sự quấy rối bấy nay, đều tự vật này cả.
Ðó rồi đi mời khắp các thầy phù thủy cao tay, xin bùa yểm trấn. Song càng bùa bèn trừ yểm, sự quấy quắc vẫn tệ hơn trước. Tư Lập cả sợ, họp người dân thôn lại bàn rằng:
- Các người khi trước vẫn thờ Phật rất là kính cẩn, lâu nay vì việc binh hỏa mà đèn hương lễ bái không chăm, cho nên yêu nghiệt hoành hành mà Phật không cứu giúp. Nay sao chẳng đến chùa kêu cầu với Phật, tưởng cũng là một cách quyền nghi, may có thể giúp ích cho mình.
Mọi ngưòi bèn đi đốt hương lễ bái ở chùa chiền khấn rằng:
- Lũ chúng sinh này kính thờ Trời Phật, quy y đã lâu, hết lòng trông cậy ở Phật pháp. Nay ma quỷ nổi lên, quấy nhiễu dân chúng, họa hại cả đến loài lục súc, vậy mà Phật ngồi nhìn im lặng, chẳng cũng từ bi qúa lắm ư? Cúi xin mở lượng xót thương, ra uy trừng phạt, khiến thần, người chẳng lẫn, dân vật đều yên, sinh kế chưa khôi phục được, tấc gỗ mảnh ngói khó lòng xoay xở vào đâu. Ðợi khi làm ăn giàu có sẽ lại xin sửa lại chùa chiền đền công đức ấy.
Ðêm hôm ấy, trộm cắp hoành hành vẫn dữ hơn trước. Tư Lập chẳng biết làm sao được, nghe Vương Tiên sinh ở huyện Kim Thành [4] là người giỏi bói dịch, bèn đến bói một quẻ xem sao. Vương Tiên sinh bói rồi nói rằng:
Cưỡi trên ngựa tốt
Mặc áo vải săn
Túi da tên thiếc
Ðích thị người thần
Lại dặn rằng:
- Ông muốn trừ được nạn ấy, sáng ngày mai nên đi phía tả cửa huyện đi về phương Nam, hễ thấy người nào vận mặc như thế, mang xách như vậy, quyết là người ấy có thể trừ hại được, nên cố thỉnh mời, dù từ chối cũng đừng nghe.
Hôm sau, Tư Lập cùng các phụ lão theo đúng lời của Vương Tiên sinh để trông ngóng xem, những kẻ đi người lại đầy đường, chẳng thấy ai giống như thế cả. Trời đã xế chiều, ai nấy chán nản sắp muốn về, chợt có một người từ trong núi đi ra, mình mặc áo vải, đeo cung cưỡi ngựa. Mọi người cùng chạy ra phục lạy ở phía trước mặt. Người ấy ngạc nhiên hỏi, mọi người cũng kể rõ bản ý của mình. Người ấy cười mà rằng:
- Các ông sao mà tin bói toán đến thế!. Tôi từ nhỏ làm nghề săn bắn, mình không rời yên ngựa, tay không rời cung tên. Hôm qua nghe nói ở núi Yên Phụ [5] có nhiều giống nai béo, thỏ tốt nên nay định đến để săn, nào có biết lập đàn thầy pháp, bắn ma vô hình là công việc thế nào.
Tư Lập nghĩ bụng người này tất là một vị pháp đàn cao tay, vì không muốn nổi tiếng về thuật bùa bèn, sợ bị mang lụy vào thân, nên mới vào nhởn nhơ trong chốn núi khe, giấu mình ở thú chơi cung mã, bèn nhất định cố mời kì được. Người kia xem chừng không thể từ chối, phải gượng theo lời. Tư Lập mời người ấy về huyện để ở trong nhà quán xá, giường chiếu màn đệm rất sang trọng, săn sóc kính cẩn như một vị thần minh. Người ấy nghĩ riêng mình rằng:
- Họ tiếp đãi kính cẩn với ta như thế này, chỉ vì cho ta có tài trừ quỷ. Nhưng thực thì ta chẳng có tài gì về sự đó, thế mà đi hưởng sự cung cấp của người, sao cho đành tâm. Nếu không sớm liệu trốn đi thì có ngày phải xấu hổ.
Hôm ấy mới chừng nửa đêm, thừa lúc mọi người đã ngủ say, người ấy bèn rón rén bước ra khỏi huyện lị. Khi đến phía tây cái cầu ván, bấy giờ trời tối lờ mờ, trăng khuya chưa mọc, thấy có người hình thể to lớn, hớn hở từ dưới đồng đi lên, người ấy bèn lẫn vào chỗ khuất, ngồi rình để xem họ làm trò gì. Một lát, thấy họ thò tay khoắng xuống một cái ao, rồi bất cứ vớ được cá lớn cá nhỏ, đều bỏ vào mồm nhai nuốt hết, lại nhìn nhau mà cười mà nói:
- Những con cá con ăn ngon lắm, nên ăn dè dặt mới thấy thú, há chẳng hơn những thức ăn nhạt nhẽo họ thường dâng cúng chúng mình ư? Ðáng tiếc là đến bây giờ, chúng mình mới được biết những vị ngon ấy.
Một người cười mà nói:
- Chúng mình to đầu mà dại, bấy nay bị chúng nó lừa dối, ai lại đem cái oản, một vài lẻ gạo để lấp cái bụng ngàn cân mà đi giữ cửa cho chúng nó bao giờ. Nếu không có những buổi như buổi hôm nay mà cứ trường chay mãi như trước thì thật là một đời sống uổng.
Một người nói:
- Tôi xưa nay vẫn ăn đồ mặn không phải ăn chay như các ông. Nhưng hiện giờ dân tình vẫn nghèo kiết, chúng nó chẳng có gì để cúng vái mình. Bụng đói miệng thèm, không biết mùi thịt là cái gì đã trải qua một thời gian lâu lắm, chẳng khác gì chí đức Khổng Tử ở nước Tề ba tháng không được đụng đến miếng thịt. Song đêm nay trời rét nước lạnh, khó lòng ở lâu chỗ này được, chi bằng lên quách vườn mía mà bắt chước Hổ đầu tướng quân [6] ngày xưa.
Ðoạn rồi họ dắt nhau đi lên, vào vườn mía, ngồi nhổ trộm mà tước, mà hít. Người kia đang ngồi núp một chỗ, liền giương cung lấy cắp tên, thình lình bắn ra, tin luôn ngay được hai người. Bọn gian kêu ấm ớ mấy tiếng rồi ồ chạy cả, chừng được mấy chục bước, đều mờ khuất hết. Song lúc đó còn có thấy tiếng mắng nhau:
- Ðã bảo ngày giờ không tốt thì đừng nên đi. Không nghe lời ta bây giờ mới biết.
Người kia kêu réo ầm ĩ lên, dân làng quanh đấy giật mình tỉnh dậy, cùng đốt đèn thắp đuốc chia nhau mỗi người đi một ngả. Họ soi thấy dấu máu vấy trên mặt đất, bèn theo dấu đi về phía tây. chừng hơn nữa dặm đến một cái chùa hoang, vào thấy hai pho tượng Hộ pháp xiêu vẹo trong chùa, trên lưng mỗi tượng đều thấy một phát tên cắm vào sâu lắm. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, cho là một sự lạ xưa nay chưa có bao giờ. Họ liền hẩy đổ hai pho tượng. Trong lúc ấy còn nghe có tiếng nói rằng:
- Vẫn tưởng kiếm cho no bụng, ai ngờ phải đến nát thân. Nhưng bày ra mưu này là tự lão Thuỷ thần kia. Hắn là chủ mưu mà được khỏi nạn còn chúng ta theo hắn mà phải chịu vạ, thật cũng đáng phàn nàn lắm.
Đó rồi họ sai người đến miếu Thủy thần, thấy pho thần tượng đắp bằng đất, bỗng biến nét mặt, mặt tái đi như chàm đỗ, mấy cái vảy cá vẫn còn dính lèm nhèm trên mép. Bèn lại phá hủy luôn cả pho tượng ấy.
Quan huyện Văn Tư Lập dốc hết hòm rương để trả ơn người kia chở nặng mà về. Từ đấy yêu tà tuyệt tịch không còn thấy tăm bóng đâu nữa.
(Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục, NXB Hội Nhà văn, 2018)
Chú thích:
[1] Đông Triều: nay là huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
[2] Vua Giản Định: tên là Ngỗi, dấy quân chống quân xâm lược Minh từ 1407, niên hiệu Hưng Khánh.
[3] Quân Ngô: chỉ quân xâm lược Minh.
[4] Huyện Kim Thành: thời Trần thuộc châu Đông Triều, nay thuộc địa phận tỉnh Hải Dương.
[5] Núi Yên Phụ: nguyên chú: “Núi ở huyện Giáp Sơn”, có lẽ nay là vùng Kinh Môn thuộc tỉnh Hải Dương.
[6] Hổ đầu tướng quân: đời vua Tấn An Đế, Cố Hải Chi làm chức Hổ đầu tướng quân, người đương thời gọi là Cố Hổ đầu. Mỗi lần ăn mía, Cố đều ăn từ ngọn xuống gốc, lại nói: “Ăn như thế thì mỗi lúc mới đi đến chỗ thú vị”.
* Nguyễn Dữ là một danh sĩ thời Lê sơ, thời nhà Mạc sống vào khoảng thế kỷ 16 và là tác giả sách Truyền kì mạn lục, một tác phẩm truyền kì nổi tiếng tại Việt Nam.
Liệt kê các sự việc chính trong văn bản Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều (Nguyễn Dữ) và cho biết sự việc nào quan trọng nhất?
Sách mới 2k7: Tổng ôn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa…. kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia 2025, đánh giá năng lực (chỉ từ 110k).
Quảng cáo
Trả lời:
- Các sự việc:
+ Tình trạng ma, quỷ, hưng yêu tác quái, trộm cắp, nhũng nhiễu ở Đông Triều khiến viên quan Tư Lập phải tìm cách trừ khử.
+ Theo lời của Vương tiên sinh, Tư Lập mời người thần về trừ khử yêu quái, hậu đãi người thần, nhưng anh ta vốn chỉ là một người thợ săn.
+ Đêm đến, người thợ săn trốn đi, tình cờ phát hiện thủ phạm, bắn tên, hô hoán dân chúng vây bắt.
+ Thủ phạm bị phát giác hoá ra là tượng thuỷ thần và mấy pho tượng trong ngôi chùa hoang ở Đông Triều. Dân chúng đập đổ các pho tượng và từ đó cuộc sống của dân trong vùng trở lại yên bình.
- Sự việc quan trọng nhất: Người săn bắn phát hiện ra hai pho tượng Hộ pháp trong chùa hoang là thủ phạm gây ra nạn trộm cắp vặt.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Xác định một số yếu tố tiêu biểu của truyện truyền kì trong văn bản Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều (Nguyễn Dữ).
Lời giải của GV VietJack
- Truyện có nhân vật không thuộc thế giới thực: hai pho tượng Hộ pháp trong chùa hoang tượng Thủy thần.
- Truyện có yếu tố kì ảo: hai pho tượng Hộ pháp xiêu vẹo trong chùa, trên lưng mỗi tượng đều có một phát tên cắm vào sâu lắm.
Câu 3:
Phân biệt lời người kể chuyện và lời nhân vật trong văn bản trên.
Lời giải của GV VietJack
- Lời người kể chuyện và lời nhân vật trong văn bản:
+ Lời nhân vật: dẫn gián tiếp lời nói (hay ý nghĩ) của nhân vật.
VD: - Ta ở vào địa vị một viên ấp tể, không có cái minh để xét ra kẻ gian, cái cứng để chế phục kẻ ác, vì nhân nhu mà hỏng việc, chính là cái lỗi tự ta. (lời than của Văn Tư Lập)
- Họ tiếp đãi kính cẩn với ta như thế này, chỉ vì cho ta có tài trừ quỷ. Nhưng thực thì ta chẳng có tài gì về sự đó, thế mà đi hưởng sự cung cấp của người, sao cho đành tâm. Nếu không sớm liệu trốn đi thì có ngày phải xấu hổ. (ý nghĩ của vị pháp đàn cao tay)
+ Lời người kể chuyện: không được đánh dấu bởi các gạch đầu dòng.
Câu 4:
Phân tích đôi nét về một số nhân vật yêu ma, thần trong văn bản Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều và nhận xét khái quát đặc điểm, vai trò của hệ thống nhân vật này đối với tác phẩm?
Lời giải của GV VietJack
Nhân vật yêu ma:
+ Hai tên yêu quái: Đây là hai nhân vật chính gây ra nạn trộm cắp vặt ở huyện Đông Triều. Hai tên yêu quái này có hình dáng to lớn, dữ tợn, chuyên đi ăn trộm cá, trộm mía của dân làng. Chúng là những kẻ tham lam, lười biếng, chỉ biết lợi dụng tín ngưỡng của dân chúng để trục lợi.
+ Thủy thần: Thủy thần là kẻ chủ mưu đứng đằng sau hai tên yêu quái. Thủy thần là một kẻ xảo quyệt, gian trá, luôn tìm cách lợi dụng những kẻ khác để thực hiện mục đích của mình.
- Nhân vật thần: Người săn bắn có phép thuật cao cường, có thể trừ được yêu ma. Người săn bắn là một người bình dị, chất phác, nhưng lại có tấm lòng lương thiện, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác.
- Đặc điểm, vai trò của hệ thống nhân vật yêu ma, thần:
+ Được xây dựng dựa trên những quan niệm dân gian về yêu ma, thần linh, có vai trò quan trọng trong việc tạo nên cốt truyện, tình huống truyện. Góp phần thể hiện ý nghĩa của tác phẩm.
+ Về mặt nghệ thuật, các nhân vật yêu ma, thần trong tác phẩm đã góp phần tạo nên màu sắc kì ảo, hấp dẫn cho tác phẩm. Những nhân vật này được xây dựng dựa trên những quan niệm dân gian về yêu ma, thần linh, tạo nên sự gần gũi, thân thuộc với người đọc.
Câu 5:
Đánh giá ý nghĩa, bức thông điệp của tác phẩm Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều (Nguyễn Dữ).
Lời giải của GV VietJack
- Tác phẩm phê phán những kẻ lợi dụng tín ngưỡng của dân chúng để trục lợi. Hai tên yêu quái trong truyện là hiện thân của những kẻ này. Chúng đã lợi dụng lòng tin của dân chúng vào thần linh để thực hiện những hành vi xấu xa, gây hại cho dân làng. Hành động của hai tên yêu quái đã bị nhân dân lên án và trừng trị đích đáng.
- Thể hiện niềm tin của nhân dân vào những người tài giỏi, có khả năng trừ tà, trừ yêu. Ông thợ săn là người bình dị, chất phác, có tấm lòng lương thiện, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Sự xuất hiện của người săn bắn đã giải thoát cho dân làng khỏi nạn trộm cắp vặt, đồng thời thể hiện niềm tin của nhẫn dân vào những người tài giỏi, có khả năng trừ tà, trừ yêu.
- Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều là một tác phẩm có nhiều ý nghĩa và bức thông điệp sâu sắc: phê phán những kẻ lợi dụng tín ngưỡng của dân chúng để trục lợi, đồng thời thể hiện niềm tin của nhân dẫn vào những người tài giỏi, có khả năng trừ tà, trừ yêu.
Câu 6:
Viết bài văn phân tích các sự việc/chi tiết tiểu biểu làm nổi bật phẩm chất đáng quý ở nhân vật Văn Tư Lập trong văn bản Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều.
Lời giải của GV VietJack
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận
- Học sinh biết tạo lập một bài văn nghị luận đảm bảo đủ cấu trúc 3 phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Viết bài văn phân tích các sự việc/chi tiết tiểu biểu làm nổi bật phẩm chất đáng quý ở nhân vật Văn Tư Lập trong văn bản “Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều”.
c Triển khai vấn đề nghị luận
- Chia vấn đề nghị luận thành các luận điểm, luận cứ phù hợp, có sức thuyết phục; sử dụng tốt các thao tác lập luận; biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng.
- HS có thể triển khai theo những cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác phẩm “Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều” và nhân vật Văn Tư Lập.
- Khẳng định vai trò của các chi tiết, sự việc tiêu biểu trong việc làm nổi bật phẩm chất đáng quý của nhân vật Văn Tư Lập.
2. Thân bài
a. Khái quát về tác phẩm và nhân vật:
- “Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều” là một câu chuyện mang đậm màu sắc dân gian, phản ánh tinh thần đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác trong xã hội.
- Nhân vật Văn Tư Lập là một người nông dân bình thường nhưng có phẩm chất trung thực, kiên quyết và dũng cảm.
b. Phân tích các sự việc/chi tiết tiêu biểu làm nổi bật phẩm chất của nhân vật:
- Sự việc 1: Văn Tư Lập phát hiện điều bất thường ở cái chùa hoang
+ Mô tả chi tiết: Khi biết cái chùa hoang đang trở thành nơi tụ tập của những kẻ bất lương, Văn Tư Lập quyết định quan sát và điều tra.
+ Phân tích: Sự việc này cho thấy sự nhạy bén và tinh thần trách nhiệm của Văn Tư Lập. Dù là người nông dân bình thường, anh vẫn quan tâm đến những diễn biến bất thường trong làng.
- Sự việc 2: Văn Tư Lập tố cáo bọn bất lương với chính quyền
+ Mô tả chi tiết: Văn Tư Lập dũng cảm đứng ra tố cáo hành vi sai trái của bọn người ở chùa hoang dù biết rằng điều này có thể mang đến nguy hiểm cho bản thân.
+ Phân tích: Chi tiết này cho thấy sự trung thực và dũng cảm của Văn Tư Lập, sẵn sàng đối mặt với cái ác để bảo vệ lợi ích chung của cả cộng đồng.
- Sự việc 3: Đối mặt với sự đe dọa của bọn xấu
+ Mô tả chi tiết: Sau khi tố cáo, Văn Tư Lập bị bọn bất lương đe dọa, nhưng anh không hề nao núng mà tiếp tục khẳng định sự quyết tâm bảo vệ sự thật.
+ Phân tích: Chi tiết này thể hiện tính kiên định, không khuất phục trước bạo lực và sự uy hiếp của kẻ xấu.
- Sự việc 4: Cuối cùng, chính quyền ra tay trừng trị bọn ác
+ Mô tả chi tiết: Nhờ sự quyết tâm và kiên định của Văn Tư Lập, chính quyền đã vào cuộc, trừng trị bọn người ở chùa hoang.
+ Phân tích: Chi tiết này cho thấy sự thông minh và tinh thần đấu tranh đến cùng của nhân vật. Qua đó, Văn Tư Lập trở thành biểu tượng của sức mạnh công lý và niềm tin vào điều thiện.
c. Đánh giá chung về phẩm chất đáng quý của Văn Tư Lập:
- Dũng cảm, kiên cường: Dám đứng lên đấu tranh với cái xấu, không khuất phục trước nguy hiểm.
- Trung thực và có tinh thần trách nhiệm: Luôn bảo vệ sự thật và lợi ích của cộng đồng.
- Tinh thần kiên định và niềm tin vào công lí: Tin rằng cái ác sẽ bị trừng trị và chính nghĩa sẽ chiến thắng.
3. Kết bài
- Khẳng định ý nghĩa của các sự việc, chi tiết tiêu biểu trong việc xây dựng nhân vật Văn Tư Lập.
- Nhấn mạnh vai trò của nhân vật trong việc thể hiện bài học về tinh thần đấu tranh chống lại cái ác và bảo vệ công lý trong xã hội.
d. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩ
e. Sáng tạo
- Bài viết có luận điểm rõ ràng, lập luận thuyết phục, diễn đạt trong sáng, bài viết thể hiện được sự sáng tạo, độc đáo riêng.
- Chữ viết sạch đẹp, rõ ràng, văn phong lưu loát; không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ, đặt câu.
n chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 1:
Viết đoạn văn nghị luận xã hội về một vấn đề cần giải quyết: Là một học sinh, em hãy đề xuất những giải pháp phù hợp để giải quyết tình trạng ô nhiễm tiếng ồn tại các thành phố lớn ở Việt Nam hiện nay.
Câu 2:
Xác định một số yếu tố tiêu biểu của truyện truyền kì trong văn bản Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều (Nguyễn Dữ).
Câu 4:
Phân tích đôi nét về một số nhân vật yêu ma, thần trong văn bản Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều và nhận xét khái quát đặc điểm, vai trò của hệ thống nhân vật này đối với tác phẩm?
Câu 5:
Đánh giá ý nghĩa, bức thông điệp của tác phẩm Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều (Nguyễn Dữ).
Câu 6:
Viết bài văn phân tích các sự việc/chi tiết tiểu biểu làm nổi bật phẩm chất đáng quý ở nhân vật Văn Tư Lập trong văn bản Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều.
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 2)
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Cánh diều có đáp án (Đề 1)
Đề minh họa thi vào lớp 10 môn Ngữ văn năm 2025 - Sở GD Hải Dương
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 1)
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 9)
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 9 Cánh diều có đáp án ( Đề 8)
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án ( Đề 1 )
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 8)
về câu hỏi!