Câu hỏi:
20/12/2024 65VŨ NHƯ TÔ XÂY CỬU TRÙNG ĐÀI
(Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng)
Tóm tắt vở kịch Vũ Như Tô
Hồi 1: Vũ Như Tô, một kiến trúc sư thiên tài, bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. Vốn là một nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, cho nên mặc dù bị Lê Tương Dực dọa giết, Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân và kiến quyết từ chối xây Cửu Trùng đài.
Hồi 2: Đan Thiềm, cung nữ đã thuyết phục Vũ Như Tô chấp nhận yêu cầu của Lê Tương Dực, lợi dụng quyền thế và tiền bạc của hắn, trổ hết tài năng để xây dựng cho đất nước tòa lâu đài vĩ đại “bền như trăng sao”, có thể “tranh tinh xảo với hóa công”để cho dân ta nghìn thu còn hãnh diện.
Hồi 3: Theo lời khuyên, Vũ Như Tô đã thay đổi thái độ, chấp nhận xây Cửu Trùng đài. Từ đó, ông dồn hết tâm trí và bằng mọi giá xây dựng toà đài sao cho thật hùng vĩ, tráng lệ.
Hồi 4: Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Quận công Trịnh Duy Sản – kẻ cầm đầu phe đối lập trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ làm phản, giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm. Cửu Trùng đài bị chính những người thợ nổi loạn đập phá, thiêu hủy.
Hồi thứ tư
Bốn tháng sau – Cũng cảnh ấy, một đêm hè. Những phiến đá đã dọn đi. Xa xa là nửa một thứ “khải hoàn môn, một bên (về phía con rồng) là bức tường đá ong thấp, trên có tượng một kỵ mã, mũ trụ, áo giáp, đeo cung kiếm.
Lớp I (Vũ Như Tô – Thị Nhiên)
Họ ở Khải Hoàn môn đi ra. Vũ Như Tô phải chống gậy đi khập khiễng, tay trái cầm một chiếc đèn lồng, chàng thúng thắng họ.
THỊ NHIÊN:
Đây là cái gì, tôi rờn rợn người làm sao ấy. Cái cổng này cao như núi, nó như nuốt tôi đi không bằng. Mà sao bày lắm tượng thế này. Trời đất ơi! (đếm). Tất cả mười pho, mỗi hàng năm chạy dài dằng dặc, cưỡi ngựa trông gớm chết, như đánh ai thế kia? (bước ra). Mà cái bực đá này nữa, sao mà cao, mà lắm bực thế? Ngã một cái thì chết mất thôi. To quá, cao quá, gió thổi mạnh quá. Tôi chóng mặt lắm, thầy nó ạ. Tôi chịu thôi, cho tôi ra khỏi chỗ tin này (bíu lấy chồng).
VŨ NHƯ TÔ (cười) – Việc gì mà chóng mặt.
THỊ NHIÊN:
– Tôi sợ lắm (chợt nhìn chồng). Mà sao thầy nó không bước đi được thế kia… Khốn nạn. Có đau lắm không? Việc gì phải giấu tôi mới được chứ?
VŨ NHƯ TÔ: (có vẻ đau nhưng gượng): Tôi có làm sao đâu. Mẹ nó đến hay lo.
THỊ NHIÊN:
– Nghe tin thầy nó ngã từ trên nóc nhà xuống, đá đè lên cả người tôi cứ rụng rời ra. Phúc làm sao mà lại được vô sự. Nhưng thế này cũng thành tật! Què mất thôi!
VŨ NHƯ TÔ:
– Đành chịu chứ làm thế nào? Mình đã thấm vào đâu. (trông chung quanh nói một mình) Được đấy! (gật gù hỏi vợ) Mẹ nó trông có đẹp không?
THỊ NHIÊN:
– Thì tôi đã bảo tôi đang sợ hết vía lên đây. Tượng kia cứ như xô lại đánh tôi. Mà cái cổng kia, nói dại, nó đổ xuống thì chết (rùng mình)…
VŨ NHƯ TÔ:
– Mẹ nó mới chỉ biết cảnh ban đêm. Chứ buổi chiều lúc mặt trời lặn, buổi sáng lúc mặt trời mọc, chỗ sáng, chỗ tối, bóng người bóng ngựa, lóng la lóng lánh, trông còn rực rỡ, đẹp đẽ bằng trăm, bằng nghìn.
THỊ NHIÊN:
– Thầy nó nói đến khéo. à phải, tôi thấy nhiều người khen cái đài này lắm.
VŨ NHƯ TÔ: – Thế à, có thật không?
THỊ NHIÊN:
– Bao nhiêu người đi xem đấy, ai về cũng trầm trồ khen đẹp, khen lớn. Họ khen rồi họ chê đấy.
VŨ NHƯ TÔ: – Họ chê ở chỗ nào?
THỊ NHIÊN: – Có người chê đài chỉ toàn là cảnh An Nam, xấu lắm. Mấy lị họ chê ở chỗ xây đài phí tiền.
VŨ NHƯ TÔ: – Họ thì biết gì, cứ ruộng nhiều là tốt.
THỊ NHIÊN:
– Chứ gì. ấy cứ có ruộng, có thóc, có khoai, có đỗ, thể là thích nhất. Tôi cũng cứ thế đấy. à thầy nó ạ, lúa chiêm năm nay hỏng cả.
VŨ NHƯ TÔ: (mơ màng) – Hỏng à?
THỊ NHIÊN: – Vụ chiêm hỏng, mà lụt luôn mấy năm nay. Đói kém lắm thầy nó ạ.
VŨ NHƯ TÔ: (nói mơ hồ) – Phó Độ mà chạm thì không còn phải nói nữa.
THỊ NHIÊN:
– Thầy nó nói gì thế!… ở làng ta, mà cả ở quanh vùng, độ này cướp bóc nhiều lắm. Không biết rồi có yên không? Bên làng Cuội, có cả giặc nổi lên. Lý trưởng đến thu thuế, chúng giết cả Lý trưởng.
VŨ NHƯ TÔ: – Phiền nhỉ?…
THỊ NHIÊN: – Còn thằng cu Nhớn tôi cho nó đi học cụ Đồ rồi đấy. Nhưng cái Bé thì cứ quặt quẹo luôn. Khốn nạn lúc nào cũng hỏi bố ở đâu, mà bố chẳng hỏi con bao giờ. Nghĩ gì thế thầy nó?
VŨ NHƯ TÔ:
– Để nhiều khoảng rộng thế này mới đẹp, mới hùng. To lớn tự khắc là oai nghiêm.
THỊ NHIÊN: – Thôi cho tôi về.
VŨ NHƯ TÔ: – Đêm tối thế này về thế nào được!
THỊ NHIÊN:
– Thầy nó còn lạ gì tôi ngược xuôi buôn bán, làm ruộng, làm áng, quen với đêm khuya rồi. Thầy nó tính chẳng ra: Thân mình thì tàn tật, việc nhà thì bỏ, con cái cũng chẳng nhìn…
VŨ NHƯ TÔ:
– Mẹ nó nói thế nào tôi cũng xin chịu. Thôi bao nhiêu việc ở nhà xin trông vào mẹ nó đấy.
THỊ NHIÊN:
– Tôi có trách gì thầy nó đâu… Việc nuôi con, tôi xin lo liệu đâu có đấy. Nhưng biết bao giờ thầy nó về cho con nó mừng, cho cửa nhà vui vẻ. Con có cha như nhà có nóc. Nói thực cho tôi yên lòng nào…
VŨ NHƯ TÔ: – Độ năm năm nữa thôi.
THỊ NHIÊN: (buồn)
– Hãy còn lâu thế cơ? (ghé vào tai chồng) à này, tôi thấy người ta nói thầy nó có tình ý với cái người cung nữ Thiềm gì ấy, có phải không?
VŨ NHƯ TÔ: (tái mặt) – Chỉ bậy.
THỊ NHIÊN:
– Đàn ông thì ba vợ bảy nàng hầu, tôi có cấm đoán gì thầy nó, nhưng là nơi vua chúa, thì rồi chết cả họ!
VŨ NHƯ TÔ:
(tức giận) – Không hiểu làm sao thiên hạ lại đồn như thế? Bậy hết sức.
THỊ NHIÊN:
– Thì tôi có dám nghi ngờ thầy nó đâu? Thôi tôi về đây, nhất định năm năm nữa chứ?
VŨ NHƯ TÔ: – Năm năm nhất định. Mẹ nó ở lại đây, mai tôi dẫn đi xem chỗ đẹp hơn.
THỊ NHIÊN:
– Thôi thế là đủ, đẹp lắm rồi! Năm năm nữa. Gớm, thầy nó đến là hay vẽ chuyện. Cứ làm nho nhỏ cũng được. Người nghèo thì làm cái nhà bé, nước nhỏ thì xây cái đài nhỏ, ai lại… Đấy, lại làm thầy nó tức. Thầy nó ở lại nhé. Thế là thành tật đấy. Khổ quá. Mai bảo con là bố sắp về thì chúng nó phải biết là vui.
VŨ NHƯ TÔ:- Chán quá, chả có gì cho con.
THỊ NHIÊN:
– Thôi, tôi đi đường mua mấy cái bánh tẻ, bảo là của bố cho con thế cũng được (cắp nón đi xuống). Gớm cao quá đi mất thôi. Thầy nó có xuống được không? Đưa đèn đây tôi xách cho (giằng lấy).
VŨ NHƯ TÔ:
– Tôi xuống được. Còn giỏi chán. Mẹ nó vịn vào con rồng này mà xuống cho khỏi rợn. Còn một tay đưa tôi dắt. (Họ cùng xuống).
THỊ NHIÊN: (thè lưỡi) – Lèo ơi! Cứ như núi ấy thôi.
(Họ lần bước xuống. Khi xuống đến bực dưới cùng, vào khuất thì Thái tử Chiêm và tên thợ Chiêm ở phía tượng kỵ mã đi ra).
Lớp II: Thái tử Chiêm Thành – Một tên thợ Chiêm thành
THÁI TỬ:
– Gió mạnh quá nhỉ (trông chung quanh). Đài này kể ra thì đẹp thực! Người An Nam họ cũng tài, mà đây là họ mới bắt đầu đấy. Đến khi xong cả thì đẹp biết chừng nào. Trông lớn lao đồ sộ thực.
TÊN THỢ:
– Tưởng Thái tử không nên giúp họ xây cái đài này mới phải. Nào tải đá, nào kén thợ, nào mộ phu để bây giờ thuyền đắm, người chết hàng nghìn. Họ lại mượn cớ dọa không cho Thái tử về nước nữa.
THÁI TỬ:
– Mi hiểu làm sao được. Ta giúp họ xây đài là vì hai cớ. Cớ thứ nhất là để được chóng về nước; cớ thứ hai là để báo thù cho giống Hời ta.
TÊN THỢ: – Bẩm giúp họ xây cái đài thì sao gọi là báo thù được?
THÁI TỬ: – Mi ngu lắm. Họ với ta có cái thù truyền kiếp. Họ đã cướp đất ta, giết dân ta, bắt hàng vạn người về làm nô tỳ. Vua Chế Bồng Nga xưa dùng võ để báo thù không xong; nay ta muốn dùng kế khác. Thấy vua họ muốn xây Cửu trùng đài, ta mừng lắm, họ trúng kế ta. Mi có biết không? Nước ta bại chỉ vì nay làm đền, mai đẽo tượng, rút cục cả vua lẫn dân chết vì đền đài, còn họ chỉ nai lưng khơi sông, đắp đê, khai khẩn ruộng hoang; cho nên dân họ đông, nước họ mạnh, người họ hùng cường mới lấn áp ta được. Mi bảo nước ta xây đài cho đẹp, có ích gì không? Thế mà bây giờ họ lại bắt chước ta, ta nên cố giúp cho vua họ xây đài, cho hao người tốn của, cho họ kiệt quệ như ta. Bao nhiêu tinh anh, đổ cả vào cái đài này. Mi đã biết chưa? Rồi họ chết!
TÊN THỢ – Thái tử thật là khôn ngoan.
THÁI TỬ:
– Vì có mấy chuyến thuyền bị bão, chúng nhất định giữ ta lại suốt đời ở đây, không còn bao giờ trông thấy nước non, cha mẹ, hoàng phi nữa. Ta cũng đành lòng, miễn là chúng cứ xây đài. Ta chờ ngày chúng nó chết.
TÊN THỢ:
– Bẩm Thái tử, có tiếng người. (Có tiếng phó Độ hát: Buồn trông con nhện chăng tơ, nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?) Xin Thái tử đừng nói nữa.
THÁI TỬ:
– Mi theo ta, đi xem chỗ khác. Đêm hè nóng nực ta nhớ nước không sao ngủ được. (Họ ra, trong khi bọn phó Cõi ở cửa Khải hoàn đi vào).
(Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng, NXB Kim Đồng, 2020)
————-
(1) Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) là nhà văn, nhà viết kịch Việt Nam nổi tiếng. Ông là tác giả của tiểu thuyết lịch sử, vở kịch lớn như: Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì, Bắc Sơn, Sống mãi với Thủ đô.
Dòng nào nói lên các sự việc trong đoạn trích kịch bản Vũ Như Tô xây Cửu Trùng đài?
Sách mới 2k7: Tổng ôn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa…. kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia 2025, đánh giá năng lực (chỉ từ 110k).
Quảng cáo
Trả lời:
B. Cuộc nói chuyện Thị Nhiên với Vũ Như Tô, Thái tử Chiêm Thành với tên thợ Chiêm thành nơi xây Cửu Trùng đài.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Đoạn sau đứng ở vị trí nào, đảm nhiệm chức năng gì đối với lớp kịch 1?
Bốn tháng sau – Cũng cảnh ấy, một đêm hè. Những phiến đá đã dọn đi. Xa xa là nửa một thứ “Khải Hoàn môn”, một bên (về phía con rồng) là bức tường đá ong thấp, trên có tượng một kỵ mã, mũ trụ, áo giáp, đeo cung kiếm.
Lời giải của GV VietJack
A. Ở đầu hồi kịch, thông báo thời gian, không gian và bối cảnh hồi kịch.
Câu 3:
Dòng chữ: Lớp I (Vũ Như Tô – Thị Nhiên) cung cấp cho độc giả thông tin nào?
Lời giải của GV VietJack
C. Nhân vật chính của lớp kịch 1.
Câu 4:
“Họ ở Khải Hoàn môn đi ra. Vũ Như Tô phải chống gậy đi khập khiễng, tay trái cầm một chiếc đèn lồng, chàng thúng thắng ho” là thành phần nào trong kịch bản, chúng có vai trò gì?
Lời giải của GV VietJack
B. Là chỉ dẫn sân khấu. Chỉ dẫn diễn xuất cho nhân vật.
Câu 5:
Những chi tiết nào không nói lên nói lên không gian cuộc nói chuyện của vợ chồng Vũ Như Tô:
Lời giải của GV VietJack
D. Lời nói của người thợ Chiêm Thành.
Câu 6:
Thị Nhiên nói những gì với chồng – Vũ Như Tô: Thể hiện nỗi gì của người vợ?
Lời giải của GV VietJack
B. Về Cửu Trùng đài về sức khỏe của chồng về nỗi nhớ cha của đứa con..; Người vợ đảm đang luôn hướng về chồng con.
Câu 7:
“Năm năm nhất định. Mẹ nó ở lại đây, mai tôi dẫn đi xem chỗ đẹp hơn” thể hiện điều gì ở Vũ Như Tô?
Lời giải của GV VietJack
A. Niềm tin vào sự thành công của Cửu Trùng đài.
Câu 8:
Dòng nào nói lên mâu thuẫn xung đột trong lớp kịch 1,2?
Lời giải của GV VietJack
B. Xây đài tốn kém, dân tình đang đói khổ, mất mùa.
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 1:
Em có đồng ý với nhận xét của Thái tử Chiêm Thành (sau đây) không? Hãy nói rõ quan điểm của mình.
Nước ta bại chỉ vì nay làm đền, mai đẽo tượng, rút cục cả vua lẫn dân chết vì đền đài, còn họ chỉ nai lưng khơi sông, đắp đê, khai khẩn ruộng hoang; cho nên dân họ đông, nước họ mạnh, người họ hùng cường mới lấn áp ta được.
Câu 2:
Phân tích bi kịch (hiện thực, khát vọng lớn lao của người nghệ sĩ) được thể hiện qua nhân vật Vũ Như Tô trong trích đoạn đọc hiểu trên.
Câu 3:
Đọc đoạn sau và trả lời câu hỏi:
Đây là cái gì, tôi rờn rợn người làm sao ấy. Cái cổng này cao như núi, nó như nuốt tôi đi không bằng. Mà sao bày lắm tượng thế này. Trời đất ơi! (đếm). Tất cả mười pho, mỗi hàng năm chạy dài dằng dặc, cưỡi ngựa trông gớm chết, như đánh ai thế kia? (bước ra). Mà cái bực đá này nữa, sao mà cao, mà lắm bực thế? Ngã một cái thì chết mất thôi. To quá, cao quá, gió thổi mạnh quá. Tôi chóng mặt lắm, thầy nó ạ. Tôi chịu thôi, cho tôi ra khỏi chỗ này (bíu lấy chồng).
a. Đoạn sau đây gồm những thành phần nào của kịch bản?
b. Đoạn trên là lời của ai diễn tả điều gì? Nhằm mục đích gì?
Câu 4:
Đoạn sau đứng ở vị trí nào, đảm nhiệm chức năng gì đối với lớp kịch 1?
Bốn tháng sau – Cũng cảnh ấy, một đêm hè. Những phiến đá đã dọn đi. Xa xa là nửa một thứ “Khải Hoàn môn”, một bên (về phía con rồng) là bức tường đá ong thấp, trên có tượng một kỵ mã, mũ trụ, áo giáp, đeo cung kiếm.
Câu 5:
Dòng chữ: Lớp I (Vũ Như Tô – Thị Nhiên) cung cấp cho độc giả thông tin nào?
Câu 6:
“Họ ở Khải Hoàn môn đi ra. Vũ Như Tô phải chống gậy đi khập khiễng, tay trái cầm một chiếc đèn lồng, chàng thúng thắng ho” là thành phần nào trong kịch bản, chúng có vai trò gì?
Bộ 15 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 11 Kết nối tri thức có đáp án - Đề 1
Bộ 10 đề thi cuối kì 2 Ngữ Văn lớp 11 Kết nối tri thức có đáp án - Đề 1
Bộ 15 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 11 Kết nối tri thức có đáp án - Đề 6
Bộ 10 đề thi cuối kì 2 Ngữ Văn lớp 11 Kết nối tri thức có đáp án - Đề 3
Bộ 15 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 11 Kết nối tri thức có đáp án - Đề 5
Đề thi giữa kì 1 lớp 11 môn Ngữ Văn có đáp án (Đề 1)
Bộ 15 đề thi giữa kì 1 Ngữ Văn lớp 11 Cánh diều có đáp án - Đề 8
Bộ 15 đề thi giữa kì 1 Ngữ Văn lớp 11 Cánh diều có đáp án - Đề 7
về câu hỏi!