Câu hỏi:
18/01/2025 56Câu 2 (4,0 điểm)
Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nhân vật Điền và Hộ trong hai đoạn trích dưới đây:
Đoạn truyện (1)
(Tóm tắt truyện: Hộ là một văn sĩ có tài; Hộ cưu mang Từ, có công cứu vớt đời Từ và Từ trở thành vợ Hộ. Hộ mải mê với văn chương, chung cuộc sống cơm áo không để Hộ ngồi yên mà viết văn, thưởng thức văn chương, … Túng quẫn và phẫn uất, Hộ chán nản lao vào rượu chè, say xỉn, … Mỗi lần say lại bốc đồng và về nhà làm khổ Từ…Khi tỉnh dậy, Hộ lại hối hận, ăn năn…)
Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ trưa như thế. Ðầu Từ ngoẹo về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống, cái bàn tay hơi xòe ra lỏng lẻo. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi ngùi. Chao ôi! Trông Từ nằm thật đáng thương! Hèn chi mà Từ khổ cả một đời người! Cái tướng vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ. Hộ nhớ ra rằng: một đôi lúc, nếu nhìn kỹ thì Từ khó mặt lắm. Ðột nhiên Hộ nảy ra ý muốn lại gần Từ, nhìn kỹ xem mặt Từ lúc bây giờ ra sao? Hắn rón rén, đi chân không lại. Hắn ngồi xổm ngay xuống đất, bên cạnh võng và cố thở cho thật khẽ. Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lắm. Da mặt Từ xanh nhợt; môi nhợt nhạt; mi mắt hơi tim tím và chung quanh mắt có quầng, đôi má đã hơi hóp lại khiến mặt hơi có cạnh. Hộ khẽ thở dài và lắc đầu ái ngại. Hắn dịu dàng nắm lấy tay sã xuống của Từ. Cái bàn tay lủng củng rặt những xương! Trên mu bàn tay, những đường gân xanh bóng ra, làn da mỏng và xanh trong, xanh lọc. Cái cổ tay mỏng manh. Tất cả lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì ẻo lả, cần được hắn che chở và bênh vực... Một vẻ bạc mệnh, một cái gì đau khổ và chật vật, cần được hắn vỗ về an ủi... Thế mà hắn đã làm gì để cho đời Từ đỡ khổ hơn? Hắn đã làm gì để cho Từ khỏi khổ? Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc... Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc. Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực mình mà khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ nhàng núi hắn vào, để hắn gục đầu lên cạnh ngực Từ. Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng khóc:
- Anh... anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn!...
- Không!... Anh chỉ là một người khổ sở!... Chính vì em mà anh khổ...
Từ bảo thế. Tay Từ níu mạnh hơn một chút. Ngực Từ thổn thức. Từ chực ngả đầu sát vào vai Hộ. Nhưng đứa con, bị giằng, khóc thét lên. Từ vội buông chồng ra để vỗ con. Tiếng vẫn còn ướt lệ, Từ dỗ nó:
- A! Mợ đây! Mợ đây mà! Ôi chao! Con tôi nó giật mình... Mợ thương...
Hộ đã tránh chỗ để Từ đưa võng... Từ vừa đưa vừa hát:
Ai làm cho gió lên giời,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;
Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ,
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân...
(Trích “Đời thừa” , Sách Ngữ văn 11 nâng cao, NXB GD 2010, tr.207)
Đoạn truyện (2)
(Tóm tắt truyện: Điền cả đêm mệt mỏi chăm con là thằng cu Chuyên ốm, sáng ra chuẩn bị lên tỉnh lĩnh tiền. Vợ dặn phải mua thuốc cho con bé Hường đang nổi mụn khắp mặt. Hắn cáu kỉnh, bực tức vì đủ thứ phải chi tiêu, nhưng lại không chịu nổi sự càu nhàu của vợ nên đành chịu. Bản thân hắn mắc bệnh ở tim, cũng chẳng có tiền để theo đuổi thuốc thang. Làm chẳng đủ ăn, chẳng dám mua một cái áo, một quyển sách, lại suốt ngày con ốm, con đau. Hắn ngao ngán cho kiếp mình. Để tiết kiệm tiền xe, mãi đến mười giờ Ðiền mới đi bộ tới trạm Quỳnh Nha, gặp ông đội Trạm để lĩnh thư, sau đó mới lên nhà dây thép lĩnh tiền, nhưng đụng độ với người thư ký khiến một tờ giấy bạc bay mất, Điền phải nhịn ăn sáng, lếch thếch đi bộ về để tiết kiệm tiền nhưng lại quên mua thuốc cho con. Cuộc cãi vã với vợ khiến “hắn thấy mình khổ quá, khổ như một con chó vậy”. Điền nằm ngẫm nghĩ, nhưng tiếng khóc thút thít của đứa con bị bệnh đã khiến Điền ngẫm lại về lẽ đời và thở dài ngao ngán cho kiếp mình và kiếp người: “Bây giờ trong lòng hắn chỉ còn lại sự xót thương. Hắn thương vợ, thương con, thương tất cả những người phải khổ đau. Lòng hắn thiết tha rướn lên muốn vươn ra để ấp ôm lấy mọi người. Mắt hắn đầm đìa”)
[…] Hắn vùng vằng đi vào nhà, quăng mũ quăng áo, quăng nốt cả cái thân xác mỏi mệt xuống một cái giường, thở hổn hển, như để đẩy bớt ra ngoài cái khí giận đang cuồn cuộn trong ngực. Hắn thấy mình khổ quá, khổ như một con chó vậy. Hắn nhịn đói từ sáng đến giờ. Hắn đi bộ què chân, nắng hơ sém cả da. Hắn xẻn từ đồng xu uống nước trở đi. Hắn chịu nhục với mọi người... Như thế, bởi vì đâu? Chẳng phải vì vợ vì con ư? Nhưng nào vợ con có thèm biết cho đâu! Ðã chẳng an ủi một lời, vợ hắn còn vơ lấy một sự hắn quên để mà đay nghiến hắn. Ừ, mà cho rằng hắn không quên nữa, cho rằng hắn không lấy thuốc cho con là cố ý, là muốn khỏi mất mấy đồng bạc nữa, thì vợ hắn có nên nói tệ hắn như vậy hay không? Hắn hà tiện vì ai? Hắn khổ sở vì ai, riêng vào cái thân hắn chẳng phí phạm một đồng xu nào cả. Mấy mươi lần vợ hắn giục hắn may một cái áo sơ-mi, hắn chỉ ư hừ rồi để đấy, chưa bao giờ dám bỏ tiền ra mà may cả. Thế rồi bao nhiêu tiền cũng vào vợ, vào con hết... Hắn bủn xỉn, hắn tiếc tiền... ừ, nhưng mà hắn tiếc tiền cho ai?... Ðiền cứ càng nghĩ càng thấy hắn là người khổ, vợ hắn là người tệ bạc. […] Nhưng bỗng con bé Hường chạy vội ra đầu chái, về phía giường Ðiền. Ðiền nghe tiếng đôi guốc của nó lẹc kẹc rất nhanh một thoáng, rồi im lặng. Rồi Hường xịt mũi. Nó xụt xịt rất lâu ngoài ấy. Nó nghẹt mũi hay nó khóc? Ðiền cố lắng tai nghe. Hắn nghe thấy những tiếng Hường nức nở. Hắn đột nhiên run người. Lòng hắn quang ra. Những ý giận hờn bừa bộn vụt tan. Còn lại cái hình ảnh bé nhỏ của Hường, với cái mặt đầy mụn và sưng lên của nó, đôi mắt giàn giụa nước và miệng mếu. Con bé còn nhỏ tuổi nhưng đã rất hay khóc vụng; mỗi lần muốn khóc, nó lại tránh ra một chỗ, cố nén tiếng, không cho ai biết. Ðiền thấy thương nó quá. Tội nghiệp cho con bé! Nó ốm đau luôn và thường bị mẹ mắng chửi suốt ngày như tát nước. Mẹ nó mắng chửi nó, nhiều khi bất công và vô lý. Nhưng lạ thay! Lúc này Ðiền không vin vào đấy mà trách vợ. Hắn thấy vợ hắn không tệ. Thị vốn thương con lắm. Những lúc thị gắt gỏng với con như thế chỉ là những lúc thị sốt ruột quá, lo lắng quá. Cũng như hắn vậy, sao hắn nỡ đem lòng giận thị? Ai chả thế? Người không phải là thánh. Sự khổ sở dễ khiến lòng chua chát. Khi người ta lam lũ quá, lại còn lo trăm thứ, bị làm rầy vì trăm thứ, thì ai mà bình tĩnh được? Ai mà chả hay gắt gỏng? Gắt gỏng thì chính mình khổ trước. Không giữ được thì phải bật ra ngoài như vậy. Thật ra có ai muốn cau có làm chi?... Vậy thì vợ hắn gắt lên với hắn lúc này cũng chỉ là việc thường thôi.
[…] Bây giờ trong lòng hắn chỉ còn lại sự xót thương. Hắn thương vợ, thương con, thương tất cả những người phải khổ đau. Lòng hắn thiết tha rướn lên, muốn vươn ra để ấp ôm lấy mọi người. Mắt hắn đầm đìa. Hắn gọi con rất dịu dàng:
- Hường ơi!... Vào đây với thầy con!...
(Trích Nước mắt, Nam Cao, Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn, NXB Văn học, 2016)
Chú thích:
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri (1915 – 1951), quê ở Lý Nhân, Hà Nam. Ông là một nhà văn hiện thực phê phán (trước Cách mạng) và được xem là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của thế kỉ XX. Nam Cao còn là người có đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách viết truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX. Ông được sinh ra trong một gia đình công giáo bậc trung. Nam Cao làm rất nhiều công việc mưu sinh khác nhau, làm thư ký cho một hiệu may, dạy học, viết báo kiếm sống,.. với vốn sống phong phú Nam Cao đã cho ra đời rất nhiều tác phẩm có giá trị cho đến ngày nay. Các tác phẩm chính: Chí Phèo (truyện ngắn, 19410, Lão Hạc (truyện ngắn, 1943), Sống mòn (tiểu thuyết, 1944)
Sách mới 2k7: 30 đề đánh giá năng lực DHQG Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, BKHN 2025 mới nhất (chỉ từ 110k).
Quảng cáo
Trả lời:
a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài Xác định được yêu cầu của kiểu bài: nghị luận văn học. |
0,25 |
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận Phân tích, đánh giá nhân vật Điền và Hộ để làm nổi bật bi kịch của người trí thức nghèo trong xã hội cũ |
0,5 |
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề của bài viết - Xác định được các ý chính của bài viết - Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận: 1. Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận Mở bài: – Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học 1930-1945. Ông thường viết về những thứ bình thường nhưng có ý nghĩa triết lí nhân sinh sâu sắc, thể hiện tình yêu thương vô hạn với những kiếp người đau khổ trong xã hội cũ. Truyện ngắn Đời thừa và Nước mắt là những truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông. - Điền và Hộ là những người trí thức nghèo với gánh nặng áo cơm, qua đó đã làm nổi bật nên tấn bi kịch của người trí thức trong xã hội cũ 2. Thân bài: a. Nhân vật Điền - Tình huống: Nam Cao đã đặt nhân Điền vào tình huống khiến Điền phải nóng giận, bực tức: Điền đi nhận lương, có một tờ tiền bị rách, Điền chẳng những không đổi được mà còn làm mất luôn tờ tiền đó. Vì nghèo, khổ, mất tiền, Điền sinh ra tiếc, rồi bực mình. Về nhà lại nghe vợ càu nhàu do quên mua thuốc cho con, Điền càng thêm cáu gắt, trút bực tức lên vợ con mình. - Vẻ đẹp nhân vật Điền: + Điền là người có thương vợ, thương con: Anh nhịn ăn, nhịn tiêu, không dám mua sách, mua áo để lấy tiền cho vợ con; anh thương con bé Hường bị ốm, ôm nó vào lòng, quạt cho nó; anh thấu hiểu cho sự khó tính, hay cằn nhằn của vợ… + Điền là người nhân hậu, bao dung: Biết đặt mình vào hoàn cảnh người khác để thấu hiểu cho vợ, cho con gái, cho ông ký ở nhà dây thép. + Điền là người trí thức có ý thức phản tỉnh cao, luôn nghiêm khắc với bản thân: Từ chỗ ích kỉ trong suy nghĩ, giận dỗi với mọi người, anh dần tự xem xét để nhận ra lỗi sai của mình, để có cái nhìn nhân ái hơn. - Đặc biệt, truyện mang đến thông điệp về đôi mắt tình thương: Người ta chỉ xấu xa trong đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ. Mỗi người cần có đôi mắt tình thương khi nhìn đời, nhìn người – tức là đặt mình vào hoàn cảnh người khác; nhìn bằng đôi mắt cảm thông, thấu hiểu, có như vậy mới yêu thương và trân trọng cuộc đời, con người. b. Nhân vật Hộ - Tình huống: Hộ là một nhà văn nghèo có lương tâm và có tài. Khi chưa có vợ con “với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiểm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ”. Nhưng từ khi “đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn”, với một bầy con thơ “nhiều đen, nhiều sài, quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và quanh năm uống thuốc”, thì Hộ đã rơi vào tấn bi kịch ghê gớm, bị cái nợ áo cơm ghì sát đất! Hộ cứ luẩn quẩn mãi trong bao nỗi khổ tâm “thứ nhất con đói, thứ hai nợ đòi, thứ ba nhà dột” như dân gian đã nói. - Vẻ đẹp nhân vật Hộ: + Hộ là một con người giàu tình thương: Hộ đã hành động một cách cao đẹp là nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ. + Hộ là một nhà văn trải qua một bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng: ++ Anh mang trong mình hoài bão lớn nhưng vì gánh nặng áo cơm Hộ cho in cuốn văn vội, anh xấu hổ khi đọc lại văn mình, tự xỉ vả mình là một thằng khốn nạn, là một kẻ bất lương. ++ Hộ đã tìm đến rượu để giải sầu, càng ngày hắn càng lún sâu vào bi kị say rượu và đối xử vũ phu với vợ con. Tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ, hứa chừa rượu, được một thời gian ngắn, lại say, lại đánh vợ, những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. ++ Và hắn khóc… Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở… Rồi hắn tự lên án mình chỉ là một thằng… khốn nạn! ++ Và câu hát ru còn thấm lệ của Từ như tô đậm thêm bi kịch của Hộ, của hai vợ chồng. Nỗi đau ấy được cực tả qua câu hát cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương. Tiếng khóc của Hộ, tiếng khóc của Từ mang ý nghĩa tố cáo cái xã hội tàn ác đã cướp đi mọi ước mơ, đã đày đọa cuộc sống của mỗi gia đình, đã đầu độc tâm hồn con người và làm méo mó mối quan hệ vốn tốt đẹp giữa người với người. ++ Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã thể hiện ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, vừa sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ đằm thắm yêu thương. Nghệ thuật phân tích nội tâm nhân vật cho người đọc vô cùng thấm thía về bi kịch của một tri thức nghèo, của một nhà văn nghèo trong xã hội cũ. c. So sánh: - Giống: Cả 2 đều là những người mang danh trí thức nhưng thực chất nghèo khổ, cơ cực, bị gánh nặng áo cơm "ghì" sát đất. Nhưng cả 2 đều là những người có có vẻ đẹp đáng trân trọng, được khắc hoạ bằng những chi tiết chân thực: đặc biệt là chi tiết giọt nước mắt cuối truyện. - Khác: + Hộ vì lẽ sống tình thương mà cứu vớt cuộc đời Từ, nhưng cuối cùng chính anh lại chà đạp nên lẽ sống của mình, rồi Hộ lại day dứt lương tâm, hối hận đến đau đớn. Đó là cái đau đớn của sự tha hóa. Đêm về, khi Hộ đã tỉnh rượu và tỉnh ngộ, Hộ đã có sự bừng tỉnh của lương tâm và lương tri. Đó là sự bừng tỉnh của phần người trong con người. Nhìn người vợ đáng thương với cái dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não, “Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc… Ôi chao ! Hắn khóc ! Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc.” Đó là lúc Hộ đẹp nhất, là lúc con người lương tri, con người lương tâm thức tỉnh. Chuyện kết thúc nhưng cuộc đời Hộ chưa khép lại. Cảnh cuối cùng với những giọt nước mắt Hộ đã làm người đọc ít nhiều hy vọng nó sẽ thanh lọc tâm hồn, nâng đỡ nhân cách của anh, giữ anh lại trước vực thẳm sa ngã. + Điền không hoàn hảo, có những lúc cũng ích kỉ, gia trưởng, hẹp hỏi, thô lỗ. Nhưng vượt lên tất cả, Điền đã tự đấu tranh với chính phần “con” trong mình để vươn tới một lối sống nhân hậu, giàu tình thương hơn. Và ở Điền cong cho thấy: người ta chỉ xấu xa trong đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ. Mỗi người cần có đôi mắt tình thương khi nhìn đời, nhìn người – tức là đặt mình vào hoàn cảnh người khác; nhìn bằng đôi mắt cảm thông, thấu hiểu, có như vậy mới yêu thương và trân trọng cuộc đời, con người. - Đánh giá Cả hai truyện đều viết viết về đề tài người trí thức. Tuy cùng viết về bi kịch, nỗi khổ và nhân cách người trí thức nhưng mỗi tác phẩm có cách xử lí chủ đề độc đáo: ở “Nước mắt” là đi sâu vào vấn đề cách nhìn đời, nhìn người, “Đời thừa” là sống mà không thể cảm nhận sự sống, tồn tại mà không mang ý nghĩa, không để lại dấu ấn. 3. Kết bài: “Nước mắt” và “Đời thừa” là những truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của Nam Cao: từ lựa chọn đề tài, chủ đề đến cách kể truyện và ngôn ngữ độc đáo. Tác phẩm mang giá trị hiện thực, nhân đạo và chiều sâu triết lí nhân văn. |
1,0 |
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau: - Triển khai được ít nhất hai luận điểm để làm rõ quan điểm cá nhân - Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận. - Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt. - Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý lẽ và dẫn chứng. Lưu ý: Học sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. |
|
đ. Diễn đạt Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản. |
0,25 |
e. Sáng tạo Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ. |
|
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 2:
Phần II. Làm văn (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Từ nội dung phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn về hành động của con người trước sự suy giảm đa dạng sinh học.
Câu 3:
Theo tác giả, con người đã tác động như thế nào tới môi trường biển?
Câu 4:
Nhà văn Elizabeth Kolbert nói: Ở đây chúng ta có thể bơ dù tôi có nghĩ trong một khoảnh khắc hoảng loạn, hoặc có thể chết chìm trong những đại dương của ngày mai ngay từ hôm nay. Em hiểu như thế nào về câu nói đó?
Câu 6:
Theo anh/chị, chúng ta cần làm gì trước nguy cơ tuyệt chủng của một số loài động vật biển?
(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 16)
(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 1)
(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 8)
(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 10)
(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 14)
(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 4)
(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 19)
(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 7)
về câu hỏi!