Câu hỏi:

21/03/2025 269 Lưu

Chọn một đề tài trong phần gợi ý (mục II.2) hoặc một đề tài mà em hứng thú, tập xây dựng đề cương theo các bước đã nêu ở mục II.4.

Quảng cáo

Trả lời:

verified Giải bởi Vietjack

Đề tài: Hình tượng trẻ em/ phụ nữ trong những sáng tác của Thạch Lam, Nam cao, Nguyên Hồng.

1. Truyện viết về trẻ em trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.

- Khái quát về văn học thiếu nhi trước Cách mạng tháng Tám 1945

+ Ở Việt Nam, trước Cách mạng tháng tám, văn học thiếu nhi ít được coi trọng. Từ những năm 20 của thế kỉ trước, văn học cho trẻ em mới bắt đầu được chú ý thông qua những cuộc cách tân văn học theo xu hướng hiện đại hóa. Đến những năm 30, văn học viết cho trẻ em trở nên phong phú hơn.

+ Các nhà văn thuộc xu hướng hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài… đã có ý thức viết cho các em lành mạnh hơn. Những trang viết của họ chứa chan tinh thần nhân đạo và thấm đẫm khuynh hướng hiện thực.

+ Một mảng sáng tác gắn với những thân phận thiệt thòi, lấm láp của trẻ thơ:

• Nổi bật trong những sáng tác viết về trẻ thơ của Nguyên Hồng là những em bé bất hạnh bị đày đọa, hắt hủi; những đứa trẻ thiệt thòi, hoàn toàn không có đời sống tinh thần, không có tuổi thơ…

• Nhà văn Nam Cao chú ý tới nỗi khổ đau, bất hạnh của trẻ em nhà nghèo – những đứa trẻ không có tuổi thơ phải vật lộn với miếng cơm manh áo. Đó có thể là bé Hồng trong Bài học quét nhà, bé Dần trong Một đám cưới, Chị em cái Gái trong Nghèo hay những đứa trẻ trong Trẻ con không được ăn thịt chó…

• Trong những trang viết dành cho thiếu nhi của Thạch Lam, hầu hết nhân vật trẻ em đều có tâm hồn trong sáng, thánh thiện như Sơn, Lan trong Gió lạnh đầu mùa; Liên, An trong Hai đứa trẻ…

- Quan niệm nghệ thuật về con người của Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng qua hình tượng nhân vật trẻ em.

• Nguyên Hồng quan niệm văn chương là “sự thực ở đời, phải trông thẳng vào cuộc sống, thấu hiểu nó, nhận thấy nó rồi biến đổi để thuật tiện cho sự nảy nở sinh lực của mình” (Ngọn lửa). Chính quan điểm ấy đã hướng ngòi bút Nguyên Hồng đến hình tượng những em bé mồ côi, bất hạnh, bị quăng ra giữa dòng đời giành giật lấy sự sống, sống cuộc sống của người lớn trong hình hài của trẻ thơ.

• Với bút phát tả chân sinh động, Nam Cao đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Người đọc tìm thấy hình ảnh những em bé rách rưới, đói khát, những mảnh đời bất hạnh quanh ta đang diễn ra hàng ngày mà vì vô tình hay chúng ta cố ý lờ đi không thấy.

• Khi quan niệm về nhân vật trong tác phẩm, Thạch Lam cho rằng không có “con người hoàn toàn”. Điều đó khiến cho thế giới nhân vật trong những trang viết của ông sinh động và rất gần gũi với hiện thực cuộc sống.

=> Quan niệm nghệ thuật này đã chi phối sự hình thành tất cả các phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm: cốt truyện và kết cấu, nhân vật và xung đột nghệ thuật, ngôn ngữ và giọng điệu.

2. Hình tượng nhân vật trẻ em trong sáng tác của Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng nhìn từ phương diện nội dung

- Trẻ em trong mối quan hệ với hoàn cảnh sống:

+ Hoàn cảnh rộng và thân phận của những đứa trẻ côi cút giữa cảnh đời

Trẻ em phải đối mặt với sự giả dối, tàn bạo, vô cảm, những tâm hồn trẻ thơ không đủ sức chống chọi tất yếu sẽ bị xô đẩy, vùi dập và không ít em bị sa ngã, trở thành kẻ lưu manh, trộm cắp như Điều trong Con chó vàng, cậu bé Hồng trong Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng.

+ Không như Nguyên Hồng, bi kịch trẻ thơ trước nanh vuốt cuộc đời được Nam Cao phản ánh phù phàng hơn. “Một đám cưới” là hình ảnh tội nghiệp của Dần

+ Hoàn cảnh hẹp và chân ảnh trẻ thơ giữa khắc nghiệt đời thường: Thế giới trẻ thơ trong sáng tác của Nam Cao, Nguyên Hồng gắn liền với sự lầm than, tủi cực. Các em không chỉ phải sống trong đói khát, rách rưới mà còn phải chịu sự ghẻ lạnh của những người thân

Thạch Lam thì nhẹ nhàng và sâu lắng, đi sâu khám phá những nét bình dị, đáng yêu, những rung động, xúc cảm sâu xa trong tâm hồn trẻ thơ giữa khắc nghiệt đời thường. 

- Trẻ em trong mối quan hệ với chính mình:

+ Những tâm hồn trẻ thơ thanh khiết, trong sáng, giàu lòng nhân ái

+ Truyện của Thạch Lam: Đó là cậu bé Sơn trong Gió lạnh đầu mùa hay những rung động sâu xa trong lòng cô bé Liên đối với những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ

+ Là nhà văn của những người lao khổ, Nguyên Hồng luôn dành cho những nhân vật của ông niềm yêu thương tha thiết và sự cảm thông, thấu hiểu. Nhân vật “Điều” trong Con chó vàng là một minh chứng.

- Những tâm hồn ngây thơ, trong sáng, giàu ước mơ, khát vọng:

+ Đó có thể là ước mơ được sống trong vòng tay yêu thương của bố mẹ. Có thể là khát khao có được chiếc áo mới mặc ngày Tết, chiếc áo ấm áp để chống lại cái lạnh trong mùa đông . Cũng có thể là khát vọng thoát khỏi cuộc sống mỏi mòn, tàn tạ.

- Hình tượng trẻ em – nỗ lực tái tạo hiện thực và khát vọng nhân văn của người viết. Nỗ lực tái tạo hiện thực của tác giả qua hình tượng trẻ em.

- Số phận của những đứa trẻ trong nhiều truyện ngắn của Nam Cao được đặt ở những thử thách khốc liệt của cảnh nghèo, miếng ăn: Dần trong Một đám cưới, Ninh trong Từ ngày mẹ chết, Hồng trong Bài học quét nhà, Gái trong Nghèo…

Khác với Nam Cao, trong mỗi câu chuyện của Nguyên Hồng vẫn còn chút sáng ấm áp của tình người, của niềm tin yêu vào cuộc sống mãnh liệt

Bên cạnh hiện thực u ám, đói nghèo, người được có thấy bi kịch trẻ thơ trong sáng tác của Thạch Lam còn đến từ sự tàn héo, cũ mòn của cái “ao đời bằng phẳng”. Hai đức trẻ là một minh chứng.

Hình tượng trẻ em – sứ giả mang thông điệp nghệ thuật giàu tính nhân văn của người viết.

Kết thúc có hậu đầy tính nhân văn trong Giọt máu, Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng là sự bù đắp cho tâm hồn thánh thiện, hiếu thảo. 

Ngòi bút Thạch Lam trân trọng và tinh tế khi phát hiện những ước mơ thầm kín trong thế giới trẻ thơ. Nhân vật Liên, An trong Hai đứa trẻ luôn ước mơ, khao khát được vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, có ý nghĩa hơn.

3. Hình tượng nhân vật trẻ em trong sáng tác của Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng nhìn từ phương diện nghệ thuật

- Nghệ thuật xây dựng truyện:

+ Nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện

• Nam Cao khéo léo gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu xa về cuộc đời, về con người. Tính bi hài trong những tình huống mà Nam Cao lựa chọn thường tạo bất ngờ cho người đọc. Chẳng hạn như trong Trẻ con không được ăn thịt chó.

• Tình huống truyện của Thạch Lam gượng nhẹ hơn nhiều so với những nhà văn cùng thời nhưng vẫn gợi được những rung động sâu xa trong lòng người đọc về vẻ đẹp trong sáng, tâm hồn thanh khiết của những đứa trẻ bị cuộc đời vùi dập, đọa đầy.

• Với Nguyên Hồng, đó là kiểu tình huống con người đột ngột hay thay đổi suy nghĩ, hành động trước một hoàn cảnh xúc động nào đó.

+ Nghệ thuật xây dựng chi tiết, sự kiện:

• Trong Nghèo, Một đám cưới, Nam Cao khéo léo đan cài những chi tiết, sự kiện tiêu biểu để hiện lên cảnh đói khát, bần cùng của người nông dân trước cách mạng.

• Với Thạch Lam, từ việc sử dụng tài tình các chi tiết, sự kiện đó cứ lúc lại nhói lên với sự hắt hiu, mòi mỏi của những nỗi niềm bất trắc, những nếp u ẩn, khuất lấp trong tâm hồn của từng số phận

- Ngôn từ nghệ thuật:

+ Ngôn ngữ trần thuật, miêu tả:

• Ngôn ngữ trần thuật trong những sáng tác của Thạch Lam giản dị mà tinh tế, nhẹ nhàng mà giàu hình ảnh, cảm xúc và nhiều khi đậm chất thơ

• Ngôn ngữ trần thuật trong những sáng tác của Nam Cao lạnh lùng, ráo hoảnh như xoáy sâu vào nỗi đau nhân thế khi tái hiện những hoàn cảnh bất hạnh, đáng thương; linh hoạt trong việc thay đổi giọng điệu để miêu tả, bộc lộ tình cảm, thái độ với đối tượng.

• Ngôn ngữ trần thuật của Nguyên Hồng nhẹ nhàng, thấm đẫm yêu thương nhưng cũng tạo ra nhiều dư vị xót xa.

+ Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại:

Trong truyện của Nguyên Hồng, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật in dấu những nhọc nhằn, vất vả của tuổi thơ chịu va đập của hoàn cảnh; qua những đoạn đối thoại người đọc nhận ra bản chất của nhân vật.

Hầu hết nhân vật trẻ em trong những sáng tác của Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng đều chịu sự thua thiệt, đều bị đày đọa của thể chất lẫn tinh thần. Người cầm bút đã chú ý khai thác thế giới nội tâm nhân vật để biểu hiện những cay nghiệt, khốn cùng của cuộc sống lầm than, tăm tối mà nhân vật phải nếm trải…

+ Ngôn ngữ dân giã, giàu sắc thái địa phương

• Ngôn ngữ truyện của Nguyên Hồng: Mỗi nhân vật có một loại ngôn ngữ riêng được chắt lọc từ cuộc sống. Đó có thể là ngôn ngữ của những đứa trẻ lang thang đầu đường xó chợ như ngôn ngữ của cậu bé Hồng và đám bạn cậu trong Những ngày thơ ấu hay ngôn ngữ của những đứa trẻ bị hắt hủi, bỏ rơi như Nhân, Mũn trong Đây bóng tối

• Ngôn ngữ trong sáng tác của Nam Cao là lời ăn tiếng nói quần chúng, giản dị mà phong phú, chắc chắn mà uyển chuyển, có khi xù xì dài dòng nhưng trong sáng đậm đà thường xen lẫn thành ngữ, tục ngữ.

- Kết cấu tác phẩm:

+ Kết cấu theo trình tự thời gian.

+ Kết cấu song tuyến.

+ Kết cấu tâm lí.

Trong đội ngũ các nhà văn viết cho thiếu nhi, Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng là những cây bút không chuyên nhưng số ít trong sự nghiệp sáng tác của họ đã dành cho những tâm hồn thơ trẻ, thánh thiện nó thực sự thu hút sự yêu mến, quan tâm của bạn đọc và các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Với sự hiểu biểu sâu sắc về đời sống và tâm hồn trẻ thơ, với tài năng và một tầm văn hóa cao, Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng không chỉ xây dựng thành công một thế giới nghệ thuật chân thực, sắc nét về cuộc đời và những thân phận trẻ thơ bất hạnh mà còn in đậm cá tính sáng tạo của nhà văn trong hành trình phản ánh, lí giải số phận, tâm hồn các em. 

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

- Văn học hiện đại của Việt Nam chia làm hai giai đoạn chính sau:

+ Từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945: là giai đoạn văn học Việt Nam, qua bước đầu giao lưu với văn hóa, văn học phương Tây, từng bước biến đổi từ phạm trù văn học trung đại sang hiện đại. Văn học giai đoạn này được thông qua việc học tập các kinh nghiệm sáng tác từ phương Tây: chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hiện đại…Ngoài ra văn học còn hướng tới đả phá luân lí Nho giáo, đề cao quyền sống cá nhân, hướng tới tái hiện chân thực đời sống của những số phận dưới đáy xã hội.

+ Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay: nền văn học đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phục vụ các nhiệm vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu. Đi theo con đường này, những vấn đề về cách tân, hiện đại hóa văn học của giai đoạn trước năm 1945 tạm thời gác lại, nhường chỗ cho xu hướng đại chúng hóa. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn dần trở thành khuynh hướng sáng tác chủ đạo của văn học giai đoạn 1945 – 1975. Còn từ năm 1975 đến nay, nền văn học vận động theo hướng dân chủ hóa, lấy tư tưởng nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá nhân là nền tảng cho tư tưởng và cảm hứng nhân đạo.

Lời giải

Trong lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải là hai tác giả nổi tiếng với những tác phẩm truyện ngắn xuất sắc. Nguyễn Minh Châu là một nhà văn lớn có vị trí quan trọng trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông còn được đánh giá là ngọn cờ đầu đổi mới văn học từ những năm 80. Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn mở đường tài ba và tinh anh nhất. Ông không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của những người nghệ sĩ, luôn tha thiết đi tìm và khám phá những hạt ngọc ẩn giấu nơi bề sâu tâm hồn. Nguyễn Khải là một nhà văn người Việt Nam và là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà văn trưởng thành sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong hai tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” và “Một người Hà Nội”, họ đã mang đến những cách tâm, đổi mới trong cách viết truyện ngắn. 

Đầu tiên, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Minh Châu, một trong những nhà văn hàng đầu của Việt Nam. Truyện ngắn này đã mang đến một cách nhìn mới mẻ về cuộc sống và con người Việt Nam.

Trước năm 1975, văn học thường khai thác hiện thực cuộc sống theo một chiều thuận. Tuy nhiên sau 1975, Nguyễn Minh Châu đã mang đến một cái nhìn mới mẻ, tỉnh táo hơn, khám phá những phức tạp nảy sinh sau chiến tranh. Đọc tác phẩm Nguyễn Minh Châu có thể hình dung quá trình vận động về tư tưởng, tình cảm cũng như trăn trở, tìm tòi đổi mới cách tiếp cận cuộc sống là bút pháp sáng tạo với những đóng góp đáng trân trọng. Sau chiến tranh, sau không khí tráng ca có phần lí tưởng một thời mà cả nước hướng ra mặt trận, khi hòa bình lập lại, mọi người mới có điều kiện bình tâm để nhìn rõ hơn những góc khuất đời thường, những phức tạp mới nảy sinh trong đời sống con người.

Điểm hiện diện của Nguyễn Minh Châu xuất phát từ tình huống nhận thức của tác phẩm. Đó là cái nhìn mang tính chất khám phá sự thật. Đằng sau bức ảnh chụp con thuyền rất đẹp, cái đẹp ngoại cảnh tuyệt đỉnh mà người nghệ sĩ thu được là ẩn chứa trong đó một cuộc sống vật lộn với những luồng tư tưởng khác nhau mà không gì thỏa hiệp hay giải quyết một cách dễ dàng.

Một điểm khác biệt nữa đó là cách nhìn về con người. Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là người phụ nữ. Một người đàn bà thô vậy không có gì là đẹp: xấu xí, quê mùa, thô kệch, thất học từ góc nhìn của chúng ta. Còn với Nguyễn Minh Châu đã tìm và thấy đó là vẻ đẹp yêu chồng, thương con, đức hi sinh, nhân hậu, vị tha. Đó là vẻ đẹp của sự trải đời. Như vậy, sau chiến tranh trở về, quan tâm nhiều hơn đến đời sống cá nhân của con người, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những bão tố của cuộc sống gia đình. Nhưng sự giải quyết mâu thuẫn của cuộc sống thực tại (gia đình người dân chài) không hề dễ dàng. Bởi vì sự việc, con người tôn trọng những mối quan hệ đa đa chiều, hết sức phức tạp.

Cái mới trong cách nhìn của Nguyễn Minh Châu nữa là ông đã thu nhỏ ống kính quay của mình trong phạm vi cuộc sống gia đình, môt nội diện hẹp hơn nhưng lại mở ra nhiều điều lớn lao, sâu sắc. Trong bức tranh nhỏ, chứa đựng tất cả các vấn đề xã hội. So sánh với Mảnh trăng cuối rừng – truyện ngắn viết trong thời kì đấu tranh chống Mĩ miền Bắc 1970, lúc này con người, cuộc sống mang vẻ đẹp lí tưởng vì yêu cầu của thời đại. Nhà văn cần khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, cái cao cả với cái xấu xa, thấp hèn… Trước sau, Nguyễn Minh Châu vẫn là một con người suốt đời đi săn tìm cái đẹp, tìm cái “hạt ngọc” ẩn sâu trong tâm hồn con người đó là “mảnh trăng cuối rừng”, là “chiếc thuyền ngoài xa”, song đã có sự thay đổi trong cách nhìn về hiện thực vì cuộc sống và tâm thế sáng tạo.

Về nghệ thuật, sự sáng tạo tình huống để nhân vật va chạm với suy nghĩ của các nhân vật khác, cũng giống như Bức tranh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa tiếp tục sự khám phá cuộc sống ở cách nhìn đa diện, phức tạp về con người, về những số phận, những cảnh đời.

Từ thiên hướng khai thác hiện thực đời sống thuận chiều, một chiều trước 1975, với những tác phẩm đậm đà chất lãng mạn cách mạng và sử thi, những tác phẩm ở chặng sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu trở về với chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo nhằm khám phá những phức tạp mới nảy sinh sau chiến tranh. Sự đổi mới trong cách nhìn hiện thực, khát vọng của mình về khả năng tác động kì diệu của văn học đối với đời sống và con người; đặt vấn đề về mối quan hệ giữa văn học và đời sống.

Tác phẩm đã mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, thật đúng như Nguyễn Minh Châu từng khẳng định “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.

Đến với truyện ngắn “Một người Hà Nội” ta cũng bắt gặp một cái nhìn mới, cái nhìn sâu sắc về cuộc sống và con người Hà Nội. Tác phẩm “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải là truyện ngắn tiêu biểu cho sáng tác của ông, thể hiện những đổi mới của văn xuôi sau 1975.

Trước năm 1975, văn học thường nhìn con người một cách nguyên phiến, giản đơn. Tuy nhiên, sau 1975, Nguyễn Khải đã mang đến một cái nhìn mới mẻ, đa chiều, con người là sự kết tinh những giá trị văn hóa. Trong hai dòng thời gian: cả cuộc đời bà và thời gian dài của lịch sử kháng chiến chống Pháp và Mĩ, nhân vật luôn được khắc họa sinh động vẻ đẹp và chiều sâu văn hóa của người Hà Nội. Nơi ở của cô là một tòa nhà tọa lạc ngày một đường phố lớn hướng nhìn ra hồ. 

Sau năm 1975, văn học phản ánh hiện thực đời sống vì thế mà có sự vận động đầy mạnh mẽ. “Một người Hà Nội” thể hiện cái nhìn riêng độc đáo của Nguyễn Khải về đất kinh kì, mảnh đất nghìn năm văn hiến, nơi nhà văn đã từng sống trong một khoảng thời gian dài. Cái nhìn ấy chứa đựng tình yêu sâu nặng với Hà Nội đồng thời thể hiện những hiểu biết sâu sắc và tinh tế về nét đẹp của thủ đô. 

Viết về đề tài văn hóa, Nguyễn Khải đã đem đến luồng gió mới cho văn học sau 1975. Truyện thể hiện sâu đậm cảm hứng triết luận khi nhà văn hướng sự quan tâm đến số phận cá nhân và những vấn đề của cuộc sống thế sự, đời tư, cách đánh giá con người được mở rộng sang các bình diện văn hóa, lịch sử, xã hội. Nhà văn viết bằng kinh nghiệm cá nhân, mang tính đối thoại tạo nên sự dân chủ cho trang văn.

Gia đình bà Hiền vẫn duy trì nếp sinh hoạt có thể nhất thời không tìm được sự hòa nhập với mọi người xung quanh, chỉ cần bà tin rằng cách sống ấy không ai trái, hơn thế nữa, nó có thể đem lại cho gia đình bà cảm giác bình ổn, dễ chịu bởi sự thanh lịch, tao nhã. Đó là cách ăn mặc sang trọng khác thường với mọi người xung quanh “mùa đông ông mặc áo ba đơ xuy, đi giày da, bà mặc áo măng to cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm”. Đó là cách ăn cũng không giống số đông “bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong iasya bản và từng người ngồi đúng chỗ quy định”. 

Trong những năm đầu Hà Nội giải phóng, mọi người cảm thấy vui thì cô Hiền lại không vui. Cô không thích ứng được với cách sống, cách làm việc, nói năng với người thân. Cô Hiền là người ý nhị trong ứng xử, biết cương biết nhu, biết tiến biết thoái, biết nhượng bộ. Cô còn là người tỉnh táo, thiết thực, không dễ bị cám dỗ, mua chuộc bởi hào quang. Khi nhận thức được việc chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân đồng nghĩa với việc cô có lòng tự trọng, bản lĩnh, không muốn bị sai khiến, can thiệp để mình trở thành con rối của bất kì ai. Câu chuyện về chị vú đã làm sáng lên vẻ đẹp của một con người sống gắn bó, tình cảm, thân thiết, thủy chung và ngầm đối thoại với cái nhìn định kiến rằng cứ chủ thì bóc lột người ở, cứ tư sản là xấu xa. Như vậy, cách mạng được đặt dưới nhiều góc nhìn và hệ quy chiếu nên biên độ hiện thực được mở rộng, tăng tính dân chủ trong việc tiếp cận hiện thực, phản ánh đời sống, tăng tính đối thoại.

Những năm chống Mĩ, gần ba chục tuổi cô mới đi lấy chồng. Cô không lấy một ông quan cũng không hứa hẹn với đám văn nhân, nghệ sĩ, cô tỉnh táo, thiết thực, không màng danh nghĩa cũng không lãng mạn, viển vông. Cô chọn bạn đời là một ông giáo tiểu học, hiền lành bình dị nhưng mẫu mực, quy chuẩn, đó cũng là điều kiện với gia đình cô. Cô chỉ sinh đến đứa con thứ năm thì chấm dứt. Bởi lẽ bà suy tính “nếu tôi và ông sống đến sáu chục thì con út đã hai mươi có thể tự lập được, khỏi phải sống bám bào các anh chị”. Người mẹ nào cũng yêu thương con nhưng tình yêu thương của bà Hiền không dừng lại ở tình cảm tự nhiên mà còn rất lí trí và đầy trách nhiệm. Khi các con còn nhỏ, bà dạy con từng đường ăn ý ở, từ “cách ngồi, cách cầm bát cần đũa, cách múc canh và cả cách nói chuyện trong bữa ăn”. Bà luôn nhắc con cháu “là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng. Khi các con lớn, bà dạy con mình “biết tự trọng, biết xấu hổ” trong cách sống, cách ứng xử cũng là cách làm người. Cái chuẩn trong suy nghĩ của bà khi dạy con là lòng tự trọng. Vì muốn dạy con biết tự trọng nên bà Hiền “đau đớn mà bằng lòng” cho con trai đi bộ đội bởi “không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Khi không có tin tức gì của đứa con lớn, mấy năm sau, đứa con thứ hai lại xin đi tòng quân, bà Hiền “không khuyến khích, cũng không ngăn cản” vì nghĩ rằng “ngăn cản nó cũng tức là bảo nó tìm con đường sống để các bạn của nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”.

Những năm tháng đất nước đổi mới, khi chú đã mất, các con đã lớn còn cô Hiền yếu, già nhưng cô vẫn là người của Hà Nội hôm nay, thuần túy không pha trộn. Suốt mấy chục năm, phòng khách của gia đình vẫn không hề đổi thay, những đồ đạc trong nhà từ “bộ xa lông gụ, cái sập gụ chân quì chạm rất đẹp nhưng không khảm, cái tủ chùa bày bộ men Thúy hồng, cái lư hương đời Hán…” vẫn toát lên vẻ đẹp cổ kính, sang trọng mà trang nhã của linh hồn Hà Nội. Ngày Tết, cô Hiền cũng chơi thủy tiên để đón tết. Đó là những nếp sinh hoạt mà bà Hiền đã duy trì cho gia đình mình trước tất cả những biến động của thời cuộc. Nghe những lời “nhận xét không mấy vui vẻ” của người cháu về cách ứng xử thiếu lễ độ, thiếu văn hóa của một số người Hà Nội và cho rằng Hà Nội bây giờ giàu hơn, vui hơn nhưng chỉ là “phần xác thôi, còn phần hồn thì chưa”. Cô Hiền “không bình luận một lời nào” nhưng sau đó lại kể cho cháu nghe chuyện cây si cổ thụ bên đền Ngọc Sơn bị bật rễ, đổ nghiêng sau một trận bão và sau nhiều nỗ lực thì sau một tháng “lại sống, lại trổ lá non”. Mượn chuyện cây si đền Ngọc Sơn- nơi tụ kinh khí của Thăng Long ngàn năm văn hiến là cô Hiền đã nhìn sâu vào phần hồn, thể hiện sự khiêm tốn, rộng lượng, tin tưởng bởi thế nà cô luôn trẻ trong trong sự đồng hành cùng thời thế. Cách sống, cách nghĩ, nếp sinh hoạt và văn hóa ứng xử của cô Hiền đã thể hiện bản lĩnh của một con người từng trải, trung thực, dũng cảm, thể hiện vẻ đẹp và chiều sâu văn hóa trong cốt cách của một người Hà Nội thông minh và sâu sắc, lịch lãm và tinh tế. Trong cảm nhận của nhân vật tối, cô Hiền thực sự là “hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội…”.

Cùng với những đổi mới trong quan niệm về hiện thực và con người thì “một người Hà Nội” còn thể hiện những cách tân trong hình thức nghệ thuật. Ngôn ngữ giản dị, đời thường và sử dụng nhiều khẩu ngữ. Không chỉ đơn giọng mà đa giọng điệu để tạo tính tranh biện cho tác phẩm.

Có thể nói Chiếc thuyền ngoài xa và Một người Hà Nội là hai tác phẩm tiêu biểu thể hiện sự đổi mới trong cách nhìn hiện thực cuộc sống của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải. Các nhà văn không chỉ thể hiện tài năng nghệ thuật trong miêu tả, kể chuyện, trong phong cách triết luận sắc sảo mà còn mở ra một góc nhìn mới mẻ, sâu sắc về cuộc sống và con người, qua đó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới xung quanh và bản thân mình.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP