Câu hỏi:

12/10/2025 197 Lưu

CHUYỆN CÁI CHÙA HOANG Ở HUYỆN ĐÔNG TRIỀU

(Nguyễn Dữ)

Ðời nhà Trần, tục tin thần quỹ, thần từ phật tự chẳng đâu là không có, như chùa Hòang Giang, chùa Ðồng Cổ, chùa An Sinh, chùa Yên Tử, chùa Phổ Minh, quán Ngọc Thanh dựng lên nhan nhản khắp nơi; những người cắt tóc làm tăng làm ni, nhiều hầu bằng nửa số dân thường. Nhất là vùng huyện Ðông Triều [1], sự sùng thượng lại càng quá lắm, chùa chiền dựng lên, làng lớn có đến hơn mười nơi, làng nhỏ cũng chừng năm, sáu, bao ngoài bằng rào lũy, tô trong bằng vàng son, phàm người đau ốm, chỉ tin theo ở sự hư vô; gặp các tuần tiết thì đàn tràng cúng vái rất là rộn rịp. Thần Phật xem chừng cũng ứng giáng, nên cầu gì được nấy, linh ứng lạ thường.

Bởi vậy, người dân càng kính tin, không dám ngạo mạn. Ðời vua Giản Ðịnh [2] nhà Trần, binh lửa luôn năm, nhiều nơi bị đốt; số chùa chiền còn lại, mười không được một, mà cái số còn lại ấy, cũng mưa bay gió chuyển, đổ ngã xiêu nghiêng, tiêu điều đứng rủ ở giữa đám cỏ hoang bụi rậm. Sau khi quân Ngô [3]   lui, dân trở về phục nghiệp. Có viên quan là Văn Tư Lập đến trị huyện ấy, thấy những cảnh hoang tàn đổ nát, bèn róng rả dân đinh các xã, đánh tranh kên nứa mà sửa chửa lại ít nhiều. Ngồi ở huyện ấy một năm, thấy dân quanh huyện khổ về cái nạn trộm cắp, từ gà lợn ngỗng ngan đến cá trong ao, quả trong vườn, phàm cái gì ăn được đều bị mất hết, Tư Lập than rằng:

- Ta ở vào địa vị một viên ấp tể, không có cái minh để xét ra kẻ gian, cái cứng để chế phục kẻ ác, vì nhân nhu mà hỏng việc, chính là cái lỗi tự ta.

Song Tư Lập cho rằng những đám trộm cắp vặt ấy, cũng không đến nỗi là đáng lo ngại lắm, nên chỉ sức họ các thôn dân, đêm đêm họ vẫn asnh phòng cẩn mật. Trong khoảng một tuần, tuy canh phòng chẳng thấy gì cả, nhưng những việc trộm vặt cũng vẫn như trước. Lâu dần càng không thấy chúng kiêng sợ gì, đến nỗi lại vào bếp để khoắng hủ rượu của người ta, khi mọi người đổ đến vây bắt, thì kẻ gian đã biến đi đằng nào mất, chẳng thấy gì cả. Tư Lập cười mà nói:

- Té ra lâu nay vẫn ngờ oan cho lũ kẻ trộm, kỳ thực đó là lọai ma quỷ, hưng yêu ác quái đó mà thôi. Những sự quấy rối bấy nay, đề tự vật này cả.

Ðó rồi đi mời khắp các thầy phù thủy cao tay, xin bùa yểm trấn. Song càng bùa bèn trừ yểm, sự quấy quắc vẫn tệ hơn trước. Tư Lập cả sợ, họp người dân thôn lại bàn rằng:

- Các người khi trước vẫn thờ Phật rất là kính cẩn, lâu nay vì việc binh hỏa mà đèn hương lễ bái không chăm, cho nên yêu nghiệt hòanh hòanh mà Phật không cứu giúp. Nay sao chẳng đến chùa kêu cầu với Phật, tưởng cũng là một cách quyền nghi, may có thể giúp ích cho mình.

Mọi ngưòi bèn đi đốt hương lễ bái ở chùa chiền khấn rằng:

- Lũ chúng sinh này kính thờ Trời Phật, quy y đã lâu, hết lòng trông cậy ở Phật pháp. Nay ma quỷ nổi lên, quấy nhiễu dân chúng, họa hại cả đến lòai lục súc, vậy mà Phật ngồi nhìn im lặng, chẳng cũng từ bi qúa lắm ư? Cúi xin mở lượng xót thương, ra uy trừng phạt, khiến thần, người chẳng lẫn, dân vật đều yên, sinh kế chưa khôi phục được, tấc gỗ mãnh ngói khó lòng xoay xở vào đâu. Ðợi khi làm ăn giàu có sẽ lại xin sửa lại chùa chiền đền công đức ấy.

Ðêm hôm ấy, trộm cắp hoành hành vẫn dữ hơn trước. Tư Lập chẳng biết làm sao được, nghe Vương Tiên sinh ở huyện Kim Thành [4] là người giỏi bói dịch, bèn đến bói một quẻ xem sao. Vương Tiên sinh bói rồi nói rằng:

Cưỡi trên ngựa tốt
Mặc áo vải săn
Túi da tên thiếc
Ðích thị người thần

Lại dặn rằng:

- Ông muốn trừ được nạn ấy, sáng ngày mai nên do phía tả cửa huyện đi về phương Nam, hễ thấy người nào vận mặc như thế, mang xách như vậy, quyết là người ấy có thể trừ hại được, nên cố thỉnh mời, dù từ chối cũng đừng nghe.

Hôm sau, Tư Lập cùng các phụ lão theo đúng lời của Vương Tiên sinh để trông ngóng xem, những kẻ đi người lại đầy đường, chẳng thấy ai giống như thế cả. Trời đã xế chiều, ai nấy chán nản sắp muốn về, chợt có một người từ trong núi đi ra, mình mặc áo vải, đeo cung cưỡi ngựa. Mọi người cùng chạy ra phục lạy ở phía trước mặt. Người ấy ngạc nhiên hỏi, mọi người cũng kể rõ bản ý của mình. Người ấy cười mà rằng:

- Các ông sao mà tin bói tóan đến thế!. Tôi từ nhỏ làm nghề săn bắn, mình không rời yên ngựa, tay không rời cung tên. Hôm qua nghe nói ở núi Yên Phụ [5] có nhiều giống nai béo, thỏ tốt nên nay định đến để săn, nào có biết lập đàn thầy pháp, bắn ma vô hình là công việc thế nào.

Tư Lập nghĩ bụng người này tất là một vị pháp đàn cao tay, vì không muốn nổi tiếng về thuật bùa bèn, sợ bị mang lụy vào thân, nên mới vào nhởn nhơ trong chốn núi khe, giấu mình ở thú chơi cung mã, bèn nhất định cố mời kỳ được. Người kia xem chừng không thể từ chối, phải gượng theo lời. Tư Lập mời người ấy về huyện để ở trong nhà quán xá, giường chiếu màn đệm rất sang trọng, săn sóc kính cẩn như một vị thần minh. Người ấy nghĩ riêng mình rằng:

- Họ tiếp đãi kính cẩn với ta như thế này, chỉ vì cho ta có tài trừ quỷ. Nhưng thực thì ta chẳng có tài gì về sự đó, thế mà đi hưởng sự cung cấp của người, sao cho đành tâm. Nếu không sớm liệu trốn đi thì có ngày phải xấu hổ.

Hôm ấy mới chừng nửa đêm, thừa lúc mọi người đã ngủ say, người ấy bèn rón rén bước ra khỏi huyện lị. Khi đến phía tây cái cầu ván, bấy giờ trời tối lờ mờ, trăng khuya chưa mọc, thấy có người hình thể to lớn, hớn hở từ dưới đồng đi lên, người ấy bèn lẫn vào chỗ khuất, ngồi rình để xem họ làm trò gì. Một lát, thấy họ thò tay khoắng xuớng một cái ao, rồi bất cứ vớ được cá lớn cá nhỏ, đều bỏ vào mồm nhai nuốt hết, lại nhìn nhau mà cười mà nói:

- Những con cá con ăn ngon lắm, nên ăn dè dặt mới thấy thú, há chẵng hơn những thức ăn nhạt nhẽo họ thường dâng cúng chúng mình ư? Ðáng tiếc là đến bây giờ, chúng mình mới được biết những vị ngon ấy.

Một người cười mà nói:

- Chúng mình to đầu mà dại, bấy nay bị chúng nó lừa dối, ai lại đem cái oản, một vài lẻ gạo để lấp cái bụng ngàn cân mà đi giữ cửa cho chúng nó bao giờ. Nếu không có những buổi như buổi hôm nay mà cứ trường chay mãi như trước thì thật là một đời sống uổng.

Một người nói:

- Tôi xưa nay vẫn ăn đồ mặn không phải ăn chay như các ông. Nhưng hiện giờ dân tình vẫn nghèo kiết, chúng nó chẳng có gì để cúng vái mình. Bụng đói miệng thèm, không biết mùi thịt là cái gì đẫ trãi một thời gian khá lâu lắm, chẳng khác gì chí đức Khổng Tử ở nước Tề ba tháng không được đụng đến miếng thịt. Song đêm nay trời rét nước lạnh, khó lòng ở lâu chỗ này được, chi bằng lên quách vườn mía mà bắt chước Hổ đầu tướng quân [6] ngày xưa.

Ðoạn rồi họ dắt nhau đi lên, vào vườn mía, ngồi nhổ trộm mà tước, mà hít. Người kia đang ngồi núp một chỗ, liền giương cung lấy cắp tên, thình lình bắn ra, tin luôn ngay được hai người. Bọn gian kêu ấm ớ mấy tiếng rồi ồ chạy cả, chừng được mấy chục bước, đều mờ khuất hết. Song lúc đó còn có thấy tiếng mắng nhau:

- Ðã bảo ngày giờ không tốt thì đừng nên đi. Không nghe lời ta bây giờ mới biết.

Người kia kêu réo ầm ĩ lên, dân làng quanh đấy giật mình tỉnh dậy, cùng đốt đèn thắp đuốc chia nhau mỗi người đi một ngả. Họ soi thấy dấu máu vấy trên mặt đất, bèn theo dấu đi về phía tây. chừng hơn nữa dặm đến một cái chùa hoang, vào thấy hai pho tượng Hộ pháp xiêu vẹo trong chùa, trên lưng mỗi tượng đều thấy một phát tên cắm vào sâu lắm. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, cho là một sự lạ xưa nay chưa có bao giờ. Họ liền hẩy đổ hai pho tượng.Trong lúc ấy còn nghe có tiếng nói rằng:

- Vẫn tưởng kiếm cho no bụng, ai ngờ phải đến nát thân. Nhưng bày ra mưu này là tự lão Thuỷ thần kia. Hắn là chủ mưu mà được khỏi nạn còn chúng ta theo hắn mà phải chịu vạ, thật cũng đáng phàn nàn lắm.

Đó rồi họ sai người đến miếu Thủy thần, thấy pho thần tượng đắp bằng đất, bỗng biến nét mặt, mặt tái đi như chàm đỗ, mấy cái vảy cá vẫn còn dính lèm nhèm trên mép. Bèn lại phá hủy luôn cả pho tượng ấy.

Quan huyện Văn Tư Lập dốc hết hòm rương để trả ơn người kia chở nặng mà về. Từ đấy yêu tà tuyệt tịch không còn thấy tăm bóng đâu nữa.

                             (Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục, NXB Hội Nhà văn, 2018)

Chú thích:

[1] Đông Triều: nay là huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.

[2] Vua Giản Định: tên là Ngỗi, dấy quân chống quân xâm lược Minh từ 1407, niên hiệu Hưng Khánh.

[3] Quân Ngô: chỉ quân xâm lược Minh.

[4] Huyện Kim Thành: thời Trần thuộc châu Đông Triều, nay thuộc địa phận tỉnh Hải Dương.

[5] Núi Yên Phụ: nguyên chú: “Núi ở huyện Giáp Sơn”, có lẽ nay là vùng Kinh Môn thuộc tỉnh Hải Dương.

[6] Hổ đầu tướng quân: đời vua Tấn An Đế, Cố Hải Chi làm chức Hổ đầu tướng quân, người đương thời gọi là Cố Hổ đầu. Mỗi lần ăn mía, Cố đều ăn từ ngọn xuống gốc, lại nói: “Ăn như thế thì mỗi lúc mới đi đến chỗ thú vị”.

* Nguyễn Dữ là một danh sĩ thời Lê sơ, thời nhà Mạc sống vào khoảng thế kỷ 16 và là tác giả sách Truyền kỳ mạn lục, một tác phẩm truyền kỳ nổi tiếng tại Việt Nam.

Liệt kê các sự việc chính trong văn bản Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều (Nguyễn Dữ) và cho biết sự việc nào quan trọng nhất?

Quảng cáo

Trả lời:

verified Giải bởi Vietjack

- Các sự việc:

+ Dân làng Đông Triều bị nạn trộm cắp vặt, Văn Tư Lập mời thầy phù thủy, Vương tiên sinh bói toán để giải quyết.

+ Vương tiên sinh bói được người có thể trừ được nạn trộm cắp vặt là người mặc áo vải săn, cưỡi ngựa tốt, đeo túi da tên thiếc.

+ Tư Lập tìm thấy người có khả năng trừ được nạn trộm cắp vặt là một người săn bắn.

+ Người săn bắn phát hiện ra hai pho tượng Hộ pháp trong chùa hoang là thủ phạm gây ra nạn trộm cắp vặt.

+ Dân làng phá hủy hai pho tượng Hộ pháp và pho tượng Thủy thần, nạn trộm cắp vặt chấm dứt.

- Sự việc quan trọng nhất: Người săn bắn phát hiện ra hai pho tượng Hộ pháp trong chùa hoang là thủ phạm gây ra nạn trộm cắp vặt.

Câu hỏi cùng đoạn

Câu 2:

Xác định một số yếu tố tiêu biểu của truyện truyền kỳ trong văn bản Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều (Nguyễn Dữ).

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Truyện có nhân vật không thuộc thế giới thực: hai pho tượng Hộ pháp trong chùa hoang tượng Thủy thần.

- Truyện có yếu tố kỳ ảo: hai pho tượng Hộ pháp xiêu vẹo trong chùa, trên lưng mỗi tượng đều có một phát tên cắm vào sâu lắm.

Câu 3:

Phân biệt lời người kể chuyện và lời nhân vật trong văn bản trên.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Lời người kể chuyện và lời nhân vật trong văn bản:

+ Lời nhân vật: dẫn gián tiếp lời nói (hay ý nghĩ) của nhân vật.

VD: - Ta ở vào địa vị một viên ấp tể, không có cái minh để xét ra kẻ gian, cái cứng để chế phục kẻ ác, vì nhân nhu mà hỏng việc, chính là cái lỗi tự ta. (lời than của Văn Tư Lập)

- Họ tiếp đãi kính cẩn với ta như thế này, chỉ vì cho ta có tài trừ quỷ. Nhưng thực thì ta chẳng có tài gì về sự đó, thế mà đi hưởng sự cung cấp của người, sao cho đành tâm. Nếu không sớm liệu trốn đi thì có ngày phải xấu hổ. (ý nghĩ của vị pháp đàn cao tay)

+ Lời người kể chuyện: không được đánh dấu bởi các gạch đầu dòng.

Câu 4:

Phân tích đôi nét về một số nhân vật yêu ma, thần trong văn bản Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều và nhận xét khái quát đặc điểm, vai trò của hệ thống nhân vật này đối với tác phẩm?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Nhân vật yêu ma

+ Hai tên yêu quái: Đây là hai nhân vật chính gây ra nạn trộm cắp vặt ở huyện Đông Triều. Hai tên yêu quái này có hình dáng to lớn, dữ tợn, chuyên đi ăn trộm cá, trộm mía của dân làng. Chúng là những kẻ tham lam, lười biếng, chỉ biết lợi dụng tín ngưỡng của dân chúng để trục lợi.

+ Thủy thần: Thủy thần là kẻ chủ mưu đứng đằng sau hai tên yêu quái. Thủy thần là một kẻ xảo quyệt, gian trá, luôn tìm cách lợi dụng những kẻ khác để thực hiện mục đích của mình.

- Nhân vật thần: Người săn bắn có phép thuật cao cường, có thể trừ được yêu ma. Người săn bắn là một người bình dị, chất phác, nhưng lại có tấm lòng lương thiện, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác.

- Đặc điểm, vai trò của hệ thống nhân vật yêu ma, thần:

+ Được xây dựng dựa trên những quan niệm dân gian về yêu ma, thần linh, có vai trò quan trọng trong việc tạo nên cốt truyện, tình huống truyện. Góp phần thể hiện ý nghĩa của tác phẩm.

+ Về mặt nghệ thuật, các nhân vật yêu ma, thần trong tác phẩm đã góp phần tạo nên màu sắc kì ảo, hấp dẫn cho tác phẩm. Những nhân vật này được xây dựng dựa trên những quan niệm dân gian về yêu ma, thần linh, tạo nên sự gần gũi, thân thuộc với người đọc.

Câu 5:

Đánh giá ý nghĩa, bức thông điệp của tác phẩm Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều (Nguyễn Dữ).

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Tác phẩm phê phán những kẻ lợi dụng tín ngưỡng của dân chúng để trục lợi. Hai tên yêu quái trong truyện là hiện thân của những kẻ này. Chúng đã lợi dụng lòng tin của dân chúng vào thần linh để thực hiện những hành vi xấu xa, gây hại cho dân làng. Hành động của hai tên yêu quái đã bị nhân dân lên án và trừng trị đích đáng.

- Thể hiện niềm tin của nhân dân vào những người tài giỏi, có khả năng trừ tà, trừ yêu. Ông thợ săn là người bình dị, chất phác, có tấm lòng lương thiện, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Sự xuất hiện của người săn bắn đã giải thoát cho dân làng khỏi nạn trộm cắp vặt, đồng thời thể hiện niềm tin của nhẫn dân vào những người tài giỏi, có khả năng trừ tà, trừ yêu.

- Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều là một tác phẩm có nhiều ý nghĩa và bức thông điệp sâu sắc: phê phán những kẻ lợi dụng tín ngưỡng của dân chúng để trục lợi, đồng thời thể hiện niềm tin của nhân dẫn vào những người tài giỏi, có khả năng trừ tà, trừ yêu.

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích một số sự việc/chi tiết tiểu biểu làm nổi bật phẩm chất đáng quý ở nhân vật Văn Tư Lập

- Hệ thống ý:

+ Nhân vật Văn Tư Lập trong Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều là một vị quan thanh liêm, nhân hậu, luôn quan tâm đến đời sống của dẫn chúng. Ông làm những việc hữu ích cho dân chúng như sau:

. Tích cực tìm cách giải quyết nạn trộm cắp vặt ở huyện Đông Triều.

. Khi nhận thấy dân làng đang bị nạn trộm cắp vặt hoành hành, Văn Tư Lập đã rất lo lắng. Ông đã tích cực tìm cách giải quyết vấn đề này: ông đã cử người đi canh gác, mời thầy phù thủy về trấn yểm, nhưng nạn trộm cắp vặt vẫn không thuyên giảm.

. Khi nghe tin Vương tiên sinh ở huyện Kim Thành là người giỏi bói toán, ông đã tìm đến để xin bói. Vương tiên sinh đã bói được người có thể trừ được nạn trộm cắp vặt là người mặc áo vải săn, cưỡi ngựa tốt, đeo túi da tên thiếc.

. Theo lời Vương tiên sinh, Tư Lập đã tìm thấy người có khả năng trừ được nạn trộm cắp vặt là một người săn bắn. Nhờ sự giúp đỡ của người này, nạn trộm cắp vặt ở huyện Đông Triều đã được giải quyết.

. Văn Tư Lập đã tích cực tìm cách giải quyết vấn đề trộm cắp.

. Văn Tư Lập tìm người tài giúp dân trừ nạn trộm cắp (tìm thầy để xem).

=> Tác giả không ngợi ca Văn Tư Lập mà thông qua việc làm để thể hiện phẩm chất của nhân vật: Văn Tư Lập thâm nhập thực tế, tìm hiểu tồn tại và tìm mọi cách để khắc phục tồn tại. Không chỉ trực tiếp cắt cử, đôn đốc công việc mà còn có tầm nhìn trong việc tìm người tài để giúp dân, để mang lại cuộc sống yên bình cho dân.

- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục

+ Dẫn chứng từ bài thơ để minh chứng cho nhận định.

+ Phân tích rõ một số sự việc/chi tiết tiểu biểu để làm nổi bật phẩm chất đáng quý ở nhân vật Văn Tư Lập

- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:

+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.

- Sáng tạo

+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Đoạn văn tham khảo

Trong Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều, qua những sự việc và chi tiết tiêu biểu, nhân vật Văn Tư Lập hiện lên với nhiều phẩm chất đáng quý. Trước hết, ông là vị quan thanh liêm, nhân hậu, luôn quan tâm đến đời sống nhân dân. Khi thấy dân làng khổ sở vì nạn trộm cắp vặt, Văn Tư Lập vô cùng lo lắng, tự nhận lỗi về mình vì “ở vào địa vị một viên ấp tể” mà để dân không yên ổn làm ăn. Ông đã cho dân làng canh gác, mời thầy phù thủy về trấn yểm, song nạn trộm cắp vẫn không thuyên giảm. Không bỏ cuộc, ông tìm đến Vương tiên sinh xin bói toán, rồi tích cực làm theo lời chỉ dẫn để tìm người tài trừ nạn yêu quái. Chính nhờ sự giúp sức của người săn bắn kia mà dân chúng thoát khỏi nạn trộm cắp hoành hành. Qua những việc làm ấy, Văn Tư Lập hiện lên là người sâu sát thực tế, biết lo cho dân, có trách nhiệm với công việc và có tầm nhìn khi biết trọng dụng người tài để mang lại cuộc sống yên bình cho nhân dân.

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Làm rõ giá trị nhân sinh, nhân đạo mà tác phẩm truyện Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều thể hiện.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu khái quát tác giả Nguyễn Dữ và tác phẩm Truyền kỳ mạn lục.

- Dẫn dắt đến truyện Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều và vấn đề giá trị nhân sinh, nhân đạo.

* Thân bài:

a. Khái quát nội dung câu chuyện

- Tình hình xã hội thời hậu Trần: chiến tranh, binh lửa, chùa chiền bị tàn phá, đời sống nhân dân cực khổ.

- Nạn trộm cắp do yêu ma quấy nhiễu gây nên, khiến dân chúng hoang mang, lo sợ.

Quan Văn Tư Lập tích cực tìm cách trừ nạn yêu ma, mang lại bình yên cho dân làng.

b. Giá trị nhân sinh, nhân đạo

- Lên án hiện thực xã hội: Chiến tranh tàn phá khiến cuộc sống người dân cơ cực, thiếu chốn nương tựa tinh thần và vật chất.

- Ca ngợi tấm lòng nhân ái, trách nhiệm của người lãnh đạo: Văn Tư Lập hết lòng lo cho dân, tìm mọi cách trừ yêu quái, khôi phục đời sống yên bình.

- Niềm tin của nhân dân vào cái thiện: Qua sự xuất hiện của người săn bắn và kết cục của yêu ma, tác phẩm khẳng định cái ác tất yếu bị trừng trị, cái thiện sẽ chiến thắng.

- Quan niệm nhân quả, công lý: Yêu ma quấy phá dân lành cuối cùng bị diệt trừ, thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng, yên ổn.

- Khát vọng hòa bình, cuộc sống ấm no, hạnh phúc: Từ những mất mát chiến tranh, người dân mong muốn được sống trong cảnh yên bình, không còn lo sợ.

c. Nghệ thuật góp phần thể hiện giá trị nhân sinh, nhân đạo

- Yếu tố kỳ ảo kết hợp hiện thực.

- Khắc họa nhân vật qua hành động, lời nói sinh động.

- Cách kể chuyện hấp dẫn, giàu kịch tính.

* Kết bài:

- Khẳng định những giá trị nhân sinh, nhân đạo sâu sắc mà tác phẩm gửi gắm.

- Liên hệ thực tế: Khát vọng sống yên bình, công bằng vẫn luôn là mong ước của con người ở mọi thời đại.

Bài viết tham khảo

Nguyễn Dữ với Truyền kỳ mạn lục – “thiên cổ kỳ bút” của văn học trung đại Việt Nam đã để lại cho đời nhiều câu chuyện vừa đậm chất hiện thực vừa nhuốm màu huyền ảo. Trong đó, Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều không chỉ phản ánh xã hội thời Trần với những biến động dữ dội mà còn gửi gắm những giá trị nhân sinh, nhân đạo sâu sắc.

Câu chuyện mở ra trong bối cảnh đất nước bị binh lửa tàn phá, chùa chiền tiêu điều, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực. Nạn trộm cắp – vốn là yêu ma quấy phá – hoành hành khắp nơi, khiến cuộc sống dân lành bất an. Trước tình cảnh ấy, quan Văn Tư Lập hiện lên như một vị quan thanh liêm, hết lòng vì dân. Ông tìm mọi cách để trừ yêu quái, từ việc canh phòng, mời thầy phù thủy đến lập đàn trừ tà, cuối cùng nhờ sự giúp đỡ của một người săn bắn, yêu ma bị tiêu diệt, cuộc sống bình yên được lập lại.

Trước hết, tác phẩm lên án hiện thực xã hội thời hậu Trần khi chiến tranh tàn phá tất cả, để lại cảnh hoang tàn, nghèo đói, mê tín hoành hành. Nhân dân chịu cảnh khổ cực cả về vật chất lẫn tinh thần, mất niềm tin vào cuộc sống. Từ đó, tác phẩm thể hiện niềm cảm thông sâu sắc với nỗi thống khổ của dân chúng, đồng thời gửi gắm khát vọng về một cuộc sống yên bình, hạnh phúc.

Bên cạnh đó, câu chuyện ca ngợi phẩm chất nhân đạo và tinh thần trách nhiệm của Văn Tư Lập. Dù là quan huyện nhỏ bé, ông vẫn hết lòng lo cho dân, tìm mọi cách để trừ nạn yêu ma. Ở ông toát lên hình ảnh người lãnh đạo có tầm nhìn, dám nghĩ, dám làm, luôn đặt sự bình yên của nhân dân lên trên hết. Qua đó, Nguyễn Dữ đề cao vai trò của những người cầm quyền có tài, có đức trong việc đem lại cuộc sống hạnh phúc cho dân.

Đặc biệt, câu chuyện khẳng định niềm tin vào công lý, vào sự chiến thắng tất yếu của cái thiện. Yêu ma cuối cùng bị tiêu diệt, cái ác bị trừng trị thích đáng, còn nhân dân được sống trong cảnh thái bình. Đây là quan niệm nhân quả, thiện ác hữu báo quen thuộc trong văn học trung đại, đồng thời thể hiện khát vọng công bằng của con người muôn đời.

Với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, kết hợp hài hòa giữa hiện thực và kỳ ảo, tác phẩm mang đến một câu chuyện kịch tính nhưng giàu ý nghĩa nhân văn. Qua đó, Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều không chỉ phản ánh nỗi khổ của nhân dân trong chiến tranh mà còn gửi gắm niềm tin vào cái thiện, vào cuộc sống yên bình, công bằng – điều mà con người ở mọi thời đại đều khát khao hướng tới.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP