MỘT BỮA NO
(Nam Cao)
Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường đất làm ăn là bà lại hờ con. Làm như chính tự con bà nên bây giờ bà phải đói. Mà cũng đúng như thế thật. Chồng bà chết từ khi nó mới lọt lòng ra. Bà thắt lưng buộc bụng, nuôi nó từ tấm tấm, ti tỉ giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ nhờ được một li, nó đã lăn cổ ra nó chết. Công bà thành công toi.
[...]
Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ.
[…] Hơn ba tháng, bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn được ngày ba tấm. Sau cùng thì một tấm cũng không có nữa. Tiền hết cả. Mỗi sáng, bà ra chợ xin người này một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu mà ngày nào cũng cho như vậy? Lòng thương cũng có hạn. Mấy hôm nay bà nhịn đói. Bởi thế bà lại đem con ra hờ. Bà hờ thê thảm lắm. Bà hờ suốt đêm. Bà khóc đến gần mòn hết ra thành nước mắt. Đến gần sáng, bà không còn sức mà khóc nữa. Bà nằm ẹp bụng xuống chiếu, nghĩ ngợi. Có người nói: những lúc đói, trí người ta sáng suốt. Có lẽ đúng như thế thật. Bởi vì bà lão bỗng tìm ra một kế. Bà ra đi.
Cứ đi được một quãng ngắn, bà lại phải ngồi xuống nghi. Nghỉ một lúc lâu, trống ngực bà mới hết đánh, tai bà bớt lùng bùng, mắt bà bớt tối tăm, người tàm tạm thôi quay quắt. Bà nghỉ tất cả năm sáu quãng. Thành thử đến tận non trưa, bà mới tới nhà mình định tới: ấy là nhà bà phó Thụ, nuôi cái đĩ. Bà quen gọi như vậy, ngay từ khi nó còn nhỏ; cái đĩ tức là đứa con của anh con trai đã cướp công bà để về với đất, yên thân mà mặc tất cả những gì còn lại. Anh con trai chẳng còn phải khổ sở như bà ngày nay.
[...] Bà phó chẳng nói nửa lời, bê lấy bát cơm ăn. Mặt bà vẫn hằm hằm. Lũ con gái, con nuôi, con ở, biết hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, bà chửi cho phải biết! Có khi bà hắt cả bát cơm vào mặt. Bà lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng cất bát cơm lên:
- Mời bà phó...
Nhưng bà vừa mới hả mồm ra thì bà phó đã cau mặt quát:
- Thôi, bà ăn đi! Đừng mời!
Bà lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quả. Mọi người đều lặng lẽ, cắm củi, mải mốt. Đôi đũa này lên lại có đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát. Bà phó lại cau mặt, gắt:
- Sẻ riêng cho bà ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho bà ấy!
Một cô vội làm ngay. Từ đấy, bà lão dễ xoay xở hơn một chút. Nhưng bà mới ăn chưa hết hai lượt cơm thì bà phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ một thoáng sau, mọi người khác cũng thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như bà mẹ ra hiệu cho họ vậy.
[…]Chỉ còn mình bà lão ngồi ăn với bà phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng bà lão còn thấy đói. Còn cơm mà thôi ăn thì tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá gì mà làm khách. Bà cứ ăn như không biết gì.
Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc. Bà kéo cái nồi vào lòng, nhìn, và bảo con bé cháu:
- Còn có mấy hột để nó khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé?
- Khô mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. Nó không ăn vào đâu được nữa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?
Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm.
Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!
Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì bà tức bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong óc như một cái lọ nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch.
Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng. Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc sau, bà đã thấy đau quắn quéo, đau cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả. Ôi chao! Ăn thật thì không bõ mửa. Bà tối tăm mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì bà lại sinh chứng đi lị. Ruột bà đau quằn quặn. Ăn một tí gì cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi bà chết. Bà phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. Và bà dùng ngay cái chết ấy làm một bài học dạy lũ con gái, con nuôi:
- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào! ...
(Trích Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời đại, 2010)
*Chú thích:
Nhà văn Nam Cao tên thật là Nguyễn Hữu Tri sinh ngày 20/10/1915, quê ở Lý Nhân, Hà Nam. Ông là một nhà văn hiện thực phê phán (trước Cách mạng) và được xem là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của thế kỉ XX. Nam Cao còn là người có đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách viết truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX. Ông được sinh ra trong một gia đình công giáo bậc trung. Nam Cao làm rất nhiều công việc mưu sinh khác nhau, làm thư ký cho một hiệu may, dạy học, viết báo kiếm sống,.. với vốn sống phong phú Nam Cao đã cho ra đời rất nhiều tác phẩm có giá trị cho đến ngày nay.
Tác phẩm “Một bữa no” được trích từ “Tuyển tập Nam Cao” của nhà xuất bản thời đại, được sáng tác năm 1943. Nhớ lại thời điểm này, đây là thời điểm trước cách mạng, đất nước gặp rất nhiều khó khăn, không ngừng chịu sự hoành hành của giặc ngoại xâm ta còn phải chịu nạn giặc đói và giặc dốt.
Chỉ ra nhân vật trung tâm trong truyện?
MỘT BỮA NO
(Nam Cao)
Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường đất làm ăn là bà lại hờ con. Làm như chính tự con bà nên bây giờ bà phải đói. Mà cũng đúng như thế thật. Chồng bà chết từ khi nó mới lọt lòng ra. Bà thắt lưng buộc bụng, nuôi nó từ tấm tấm, ti tỉ giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ nhờ được một li, nó đã lăn cổ ra nó chết. Công bà thành công toi.
[...]
Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ.
[…] Hơn ba tháng, bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn được ngày ba tấm. Sau cùng thì một tấm cũng không có nữa. Tiền hết cả. Mỗi sáng, bà ra chợ xin người này một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu mà ngày nào cũng cho như vậy? Lòng thương cũng có hạn. Mấy hôm nay bà nhịn đói. Bởi thế bà lại đem con ra hờ. Bà hờ thê thảm lắm. Bà hờ suốt đêm. Bà khóc đến gần mòn hết ra thành nước mắt. Đến gần sáng, bà không còn sức mà khóc nữa. Bà nằm ẹp bụng xuống chiếu, nghĩ ngợi. Có người nói: những lúc đói, trí người ta sáng suốt. Có lẽ đúng như thế thật. Bởi vì bà lão bỗng tìm ra một kế. Bà ra đi.
Cứ đi được một quãng ngắn, bà lại phải ngồi xuống nghi. Nghỉ một lúc lâu, trống ngực bà mới hết đánh, tai bà bớt lùng bùng, mắt bà bớt tối tăm, người tàm tạm thôi quay quắt. Bà nghỉ tất cả năm sáu quãng. Thành thử đến tận non trưa, bà mới tới nhà mình định tới: ấy là nhà bà phó Thụ, nuôi cái đĩ. Bà quen gọi như vậy, ngay từ khi nó còn nhỏ; cái đĩ tức là đứa con của anh con trai đã cướp công bà để về với đất, yên thân mà mặc tất cả những gì còn lại. Anh con trai chẳng còn phải khổ sở như bà ngày nay.
[...] Bà phó chẳng nói nửa lời, bê lấy bát cơm ăn. Mặt bà vẫn hằm hằm. Lũ con gái, con nuôi, con ở, biết hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, bà chửi cho phải biết! Có khi bà hắt cả bát cơm vào mặt. Bà lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng cất bát cơm lên:
- Mời bà phó...
Nhưng bà vừa mới hả mồm ra thì bà phó đã cau mặt quát:
- Thôi, bà ăn đi! Đừng mời!
Bà lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quả. Mọi người đều lặng lẽ, cắm củi, mải mốt. Đôi đũa này lên lại có đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát. Bà phó lại cau mặt, gắt:
- Sẻ riêng cho bà ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho bà ấy!
Một cô vội làm ngay. Từ đấy, bà lão dễ xoay xở hơn một chút. Nhưng bà mới ăn chưa hết hai lượt cơm thì bà phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ một thoáng sau, mọi người khác cũng thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như bà mẹ ra hiệu cho họ vậy.
[…]Chỉ còn mình bà lão ngồi ăn với bà phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng bà lão còn thấy đói. Còn cơm mà thôi ăn thì tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá gì mà làm khách. Bà cứ ăn như không biết gì.
Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc. Bà kéo cái nồi vào lòng, nhìn, và bảo con bé cháu:
- Còn có mấy hột để nó khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé?
- Khô mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. Nó không ăn vào đâu được nữa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?
Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm.
Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!
Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì bà tức bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong óc như một cái lọ nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch.
Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng. Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc sau, bà đã thấy đau quắn quéo, đau cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả. Ôi chao! Ăn thật thì không bõ mửa. Bà tối tăm mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì bà lại sinh chứng đi lị. Ruột bà đau quằn quặn. Ăn một tí gì cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi bà chết. Bà phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. Và bà dùng ngay cái chết ấy làm một bài học dạy lũ con gái, con nuôi:
- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào! ...
(Trích Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời đại, 2010)
*Chú thích:
Nhà văn Nam Cao tên thật là Nguyễn Hữu Tri sinh ngày 20/10/1915, quê ở Lý Nhân, Hà Nam. Ông là một nhà văn hiện thực phê phán (trước Cách mạng) và được xem là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của thế kỉ XX. Nam Cao còn là người có đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách viết truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX. Ông được sinh ra trong một gia đình công giáo bậc trung. Nam Cao làm rất nhiều công việc mưu sinh khác nhau, làm thư ký cho một hiệu may, dạy học, viết báo kiếm sống,.. với vốn sống phong phú Nam Cao đã cho ra đời rất nhiều tác phẩm có giá trị cho đến ngày nay.
Tác phẩm “Một bữa no” được trích từ “Tuyển tập Nam Cao” của nhà xuất bản thời đại, được sáng tác năm 1943. Nhớ lại thời điểm này, đây là thời điểm trước cách mạng, đất nước gặp rất nhiều khó khăn, không ngừng chịu sự hoành hành của giặc ngoại xâm ta còn phải chịu nạn giặc đói và giặc dốt.
Quảng cáo
Trả lời:

Bà cụ.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Tình cảnh nào khiến bà cụ phải đi ăn chực?
Tình cảnh nào khiến bà cụ phải đi ăn chực?

Bà cụ đã nhịn đói nhiều ngày.
Câu 3:
Có mấy từ láy trong các câu văn sau: “Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát”?
Có mấy từ láy trong các câu văn sau: “Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát”?

3 từ láy: Tăm tắp, lờ rờ, lập cập.
Câu 4:
Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Điểm nhìn được đặt vào nhân vật nào?
Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Điểm nhìn được đặt vào nhân vật nào?

Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn có sự kết hợp giữa người kể chuyện và nhân vật bà lão.
Câu 5:
Hai câu văn “ Rồi bà thổ. Rồi bà tả” thuộc kiểu câu gì về cấu tạo ngữ pháp?
Hai câu văn “ Rồi bà thổ. Rồi bà tả” thuộc kiểu câu gì về cấu tạo ngữ pháp?

Câu đơn đặc biệt.
Câu 6:
Thái độ của bà phó Thụ trong tác phẩm với bà cụ thể hiện rõ nhất điều gì?
Thái độ của bà phó Thụ trong tác phẩm với bà cụ thể hiện rõ nhất điều gì?

Tình trạng thê thảm của người nông dân nghèo.
Câu 7:
Qua câu chuyện, Nam Cao phán ánh điều gì ở người nông dân?
Qua câu chuyện, Nam Cao phán ánh điều gì ở người nông dân?

Người nông dân bị tha hóa, đánh mất sĩ diện do hoàn cảnh đói khổ.
Câu 8:
Suy nghĩ của anh/ chị về câu nói của bà phó Thụ ở cuối truyện?
Suy nghĩ của anh/ chị về câu nói của bà phó Thụ ở cuối truyện?

- Câu nói của bà mỉa mai, đay đả và coi thường người nghèo.
- Qua đó cho thấy suy nghĩ của Nam Cao: xót thương, đau đớn cho người nghèo khổ.
Câu 9:
Tác giả thể hiện tình cảm gì dành cho nhân vật bà cụ trong tác phẩm?
Tác giả thể hiện tình cảm gì dành cho nhân vật bà cụ trong tác phẩm?

- Nhà văn xót thương, đồng cảm, đau đớn cho bà cụ vì đói khát mà trở nên khốn khổ.
- Nhà văn xót thương, đồng cảm, đau đớn cho nỗi khổ của người lao động trong xã hội cũ.
Câu 10:
Theo em nhân vật bà lão trong truyện đáng thương hay đáng trách? Vì sao?
Theo em nhân vật bà lão trong truyện đáng thương hay đáng trách? Vì sao?

HS có thể trả lời
- Đáng trách: Vì miếng ăn mà đánh mất đi tự trọng, sĩ diện.
- Đáng thương: Cuộc đời khốn khổ, bị cái đói đẩy đến bước đường cùng; chết đau đớn vì miếng ăn.
- Vừa đáng thương vừa đáng trách: kết hợp cả 2 cách lí giải trên.
Hot: 500+ Đề thi vào 10 file word các Sở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh có đáp án 2025 (chỉ từ 100k). Tải ngay
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 400 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích văn bản ngữ liệu “Một bữa no” của Nam Cao trong phần Đọc hiểu.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nam Cao:
+ Là nhà văn hiện thực xuất sắc giai đoạn 1930-1945.
+ Quan tâm sâu sắc đến thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội cũ.
- Giới thiệu tác phẩm Một bữa no:
+ Sáng tác năm 1943, phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám: đói nghèo, bế tắc, bất công.
+ Qua đó bộc lộ giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
* Thân bài:
1. Hiện thực xã hội qua số phận bà lão
- Bà lão sống trong cảnh nghèo đói cùng cực: chồng chết sớm, con trai mất, bản thân ốm yếu, không còn khả năng lao động.
- Phải đi ăn xin một bữa cơm → Bữa ăn no trở thành cả một “sự kiện” trong cuộc đời khốn khổ của bà.
- Cái chết của bà sau bữa no → bi kịch tột cùng của số phận người nông dân dưới chế độ cũ.
2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm
- Lên án xã hội tàn nhẫn, đẩy người nông dân đến cảnh đói nghèo, khổ cực.
- Cảm thương sâu sắc với những con người bị cái đói và sự vô cảm của người đời hành hạ.
- Khẳng định khát vọng sống, khao khát được no đủ, được làm người dù chỉ một lần trong đời.
3. Nghệ thuật đặc sắc
- Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, chân thực.
- Ngôn ngữ giản dị, gần gũi nhưng giàu sức gợi.
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo: bữa ăn no duy nhất dẫn đến cái chết → ám ảnh, lay động người đọc.
* Kết bài:
- Khẳng định giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của Một bữa no.
- Tác phẩm góp phần làm nên tên tuổi Nam Cao – cây bút hiện thực bậc thầy của văn học Việt Nam hiện đại.
- Gợi cho người đọc niềm thương cảm và suy ngẫm về số phận những con người nghèo khổ trong xã hội xưa.
Bài viết tham khảo
Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Ông nổi tiếng với ngòi bút sắc sảo, luôn trăn trở về số phận của những con người cùng khổ trong xã hội cũ. Một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện sâu sắc giá trị hiện thực và nhân đạo của ông chính là Một bữa no (1943) – câu chuyện về số phận bi thảm của một người mẹ già trong nạn đói ghê gớm những năm trước Cách mạng tháng Tám.
Với Một bữa no, Nam Cao dựng lên bức tranh hiện thực u ám về xã hội Việt Nam thời kì đói kém. Nhân vật trung tâm – bà lão – mang số phận éo le, bất hạnh: chồng mất sớm, con trai chết khi còn trẻ, bản thân bà thì già yếu, bệnh tật, mất sức lao động. Không còn chỗ dựa, bà chỉ biết đi ăn xin để sống qua ngày. Một bữa cơm no, tưởng chừng như là điều bình thường với mọi người, lại trở thành cả một “giấc mơ” với bà. Thế nhưng, trớ trêu thay, bữa ăn no đầu tiên cũng là bữa ăn cuối cùng trong đời bà. Cái chết thương tâm sau bữa ăn ấy không chỉ tố cáo hiện thực xã hội tàn nhẫn, đẩy con người đến đường cùng, mà còn gợi nên bao nỗi xót xa, ám ảnh trong lòng người đọc.
Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm thể hiện ở chỗ: Nam Cao đã nhìn thấy, đã thấu hiểu và cảm thông đến tận cùng nỗi khổ của những kiếp người nghèo khổ. Ông không chỉ lên án xã hội vô cảm, bất công, mà còn trân trọng khát vọng được sống, được no đủ, dù chỉ một lần, của những con người bị cái đói giày vò. Qua số phận bà lão, người đọc cảm nhận được tình thương yêu bao la của tác giả dành cho những phận đời cùng khổ.
Bên cạnh nội dung, nghệ thuật cũng góp phần làm nên sức sống của tác phẩm. Nam Cao xây dựng tình huống truyện độc đáo: một bữa ăn no dẫn đến cái chết. Ông miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, từ niềm vui mừng được ăn no đến nỗi đau đớn khi bệnh tật ập đến. Ngôn ngữ giản dị, đời thường nhưng giàu sức gợi, gợi tả chân thực không khí đói kém, khổ cực bao trùm xã hội đương thời.
Một bữa no là tiếng kêu thương xót, là lời cảnh tỉnh về thân phận con người trong xã hội cũ. Qua đó, Nam Cao không chỉ phản ánh hiện thực đen tối mà còn gửi gắm tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm góp phần khẳng định tài năng và vị trí của Nam Cao như một nhà văn hiện thực bậc thầy, đồng thời khiến người đọc hôm nay thêm trân trọng cuộc sống no đủ, hạnh phúc mà mình đang có.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ Suy nghĩ về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong đoạn trích “Một bữa no” (Nam Cao).
- Hệ thống ý:
+ Giá trị hiện thực:
. Tác phẩm tái hiện nạn đói khủng khiếp trước Cách mạng tháng Tám 1945.
. Cuộc đời bà lão nghèo đói: nuôi con, mất con, kiệt sức, cuối cùng chết thảm chỉ vì một bữa ăn no.
. Phơi bày sự thờ ơ, vô cảm của xã hội: bà phó Thụ và người xung quanh không hề quan tâm đến nỗi đau của bà lão.
+ Giá trị nhân đạo:
. Lên án xã hội thực dân phong kiến bất công, nơi người nghèo bị đẩy vào cảnh khốn cùng.
. Bày tỏ niềm xót thương sâu sắc trước cái chết của bà lão, trước thân phận người nông dân nghèo khổ.
. Khơi dậy trong lòng người đọc lòng trắc ẩn, sự đồng cảm và ước mong một xã hội nhân đạo, công bằng.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Thể hiện rõ suy nghĩ về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong đoạn trích “Một bữa no” (Nam Cao).
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc giai đoạn 1930-1945, luôn dành ngòi bút của mình để cảm thông với những số phận khốn khổ. Truyện ngắn “Một bữa no” đã tái hiện sâu sắc cảnh nghèo đói cùng cực của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Cuộc đời bà lão thật bi thảm: chồng mất sớm, con trai chết, bản thân già yếu, nghèo đói triền miên, cuối cùng phải đi ăn xin một bữa cơm, ăn đến no rồi lăn ra chết. Tác phẩm phơi bày hiện thực xã hội tàn nhẫn, nơi đói nghèo và sự vô cảm của con người đẩy người nông dân đến đường cùng. Tuy nhiên, ẩn sau đó là giá trị nhân đạo sâu sắc: tiếng khóc thương xót cho những kiếp người bất hạnh, là sự trân trọng khát khao được sống, được no đủ của những con người nghèo khổ. Qua tình huống truyện độc đáo, ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, Nam Cao không chỉ phản ánh hiện thực nghiệt ngã mà còn khơi dậy trong lòng người đọc niềm thương cảm và ước mong một xã hội nhân ái hơn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.