Câu hỏi:

16/12/2025 121 Lưu

I. Đọc hiểu (4,0 điểm)

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:

Tháng 6, ngày 24, sao sa.

Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”

Hưng Đạo Vương trả lời:

- Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời Đinh, Lê dùng người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.

Quốc Tuấn là con An Sinh Vương, lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và bảo: “Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Đến khi lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ. An Sinh Vương trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng, mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, An Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối giăng rằng:

- Con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.

Quốc Tuấn ghi để điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải.

Đến khi vận nước ở trong tay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, ông đem lời cha dặn nói với gia nô là Dã Tượng, Yết Kiêu. Hai người gia nô can ông:

- Làm kế ấy tuy được phú quý một thời mà để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại vương há chẳng đủ phú quý hay sao? Chúng tôi xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người ta làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi!

Quốc Tuấn cảm phục đển khóc, khen ngợi hai người.

Một hôm Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương:

- Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?

Hưng Vũ Vương trả lời:

- Dẫu khác họ cũng còn không nên, huống chi là cùng một họ!

Quốc Tuấn ngẫm cho là phải.

Lại một hôm Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa:

- Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ.

Quốc Tuấn rút gươm kể tội:

- Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra.

Định giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha. Đến đây, ông dặn Hưng Vũ Vương:

- Sau khi ta chết, đậy nắp quân tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng.

Mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp, được tặng thái sư Thương phụ Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.

Thánh Tông có soạn bài văn bia ở sinh từ của Quốc Tuấn, ví ông với Thượng phụ ngày xưa. Lại vì ông có công lao lớn, gia phong là Thượng quốc công, cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, từ Minh tự trở xuống, chỉ có tước Hầu thì phong trước rồi tâu sau. Nhưng Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào. Khi giặc Hồ vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không dám cho họ tước lang tướng thực, ông kính cẩn giữ tiết làm tôi như vậy đấy.

Quốc Tuấn lại từng soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền, dẫn chuyện Kỉ Tín chết thay để thoát Hán Cao, Do Vu giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử. Thế là dạy đạo trung đó.

Khi sắp mất, ông dặn con rằng:

- Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau mục.

Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, người Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới việc sau khi mất như thế đấy.

Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự, bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy. Xem như khi Thánh Tông vờ bảo Quốc Tuấn rằng: “Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi”, Quốc Tuấn trả lời: “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng”. Vì thế, đời Trùng Hưng lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên. Sau khi mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn, dịch bệnh, nhiều người cầu đảo ông. Đến nay, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp dựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn.

(Trích Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn)

(0,5 điểm) Xác định phương thức biểu đạt của truyện.

Quảng cáo

Trả lời:

verified Giải bởi Vietjack

Phương thức biểu đạt: tự sự.

Câu hỏi cùng đoạn

Câu 2:

(0,5 điểm) Nêu phẩm chất trung nghĩa của Hưng Đạo Vương qua cách ứng xử với gia nô Dã Tượng và Yết Kiêu.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Khi gia nô can rằng nếu làm kế để giành phú quý thì sẽ để lại tiếng xấu, ông cảm phục, khen ngợi và khóc.

- Thể hiện ông trân trọng trung hiếu, coi trọng nhân tài, không chỉ lo phú quý cá nhân.

Câu 3:

(1,0 điểm) Xác định biện pháp tu từ trong đoạn:

Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. 

Nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Biện pháp tu từ: so sánh:

- quân nó kéo đến như lửa, như gió

- nó tiến chậm như các tằm ăn

- xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy

- có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được

=> Hiệu quả nghệ thuật: hàng loạt so sánh làm cho cách diễn đạt gợi hình ảnh cụ thể, qua đó thấy được tài năng trong cách dùng binh cũng như thấy được tầm nhìn sâu rộng của nhà quân sự Hưng Đạo Vương khi ông đề cao sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân sẽ chống giặc thành công.

Câu 4:

(1,0 điểm) Trong văn bản có nói đến binh pháp. Binh pháp là gì? Binh pháp của Hưng Đạo Vương có điểm gì đáng chú ý?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Binh pháp là hệ thống tri thức về những vấn đề lí luận quân sự nói chung và phương pháp tác chiến nói riêng.

- Binh pháp của Hưng Đạo Vương có điểm đáng chú ý là chống giặc phải tuỳ thời mà tạo thế, phải vận dụng linh hoạt, không có một khuôn mẫu nào nhất định.

Câu 5:

(1,0 điểm) Em rút ra được diều gì qua lời trình bày của Trần Quốc Tuấn với vua về kế sách giữ nước?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Nội dung lời trình bày của Trần Quốc Tuấn với vua:

+ Nên tuỳ thời thế mà có sách lược phù hợp, binh pháp cần vận dụng linh hoạt, không có khuôn mẫu nhất định.

+ Điều kiện quan trọng nhất để thắng giặc là toàn dân đoàn kết một lòng

+ Do đó phải giảm thuế khoá, bớt hình phạt, không phiền nhiễu dân, chăm lo cho dân có đời sống sung túc,... đó chính là "thượng sách giữ nước".

- Qua nội dung lời trình bày, người đọc nhận thấy Trần Quốc Tuấn không những là vị tướng tài năng, mưu lược, có lòng trung quân mà còn biết thương dân, trọng dân và biết lo cho dân.

Câu 6:

II. Viết (6,0 điểm)

(2,0 điểm) Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu cảm nhận của em về phẩm chất trung nghĩa, dũng cảm và tài năng của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn qua những chi tiết trong truyện.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

* Yêu cầu về hình thức, kĩ năng: Đảm bảo đoạn văn nghị luận có bố cục mạch lạc, sử dụng linh hoạt các kiểu câu và có sự liên kết chặt chẽ giữa các câu, các ý trong đoạn văn. Có cách diễn đạt trong sáng độc đáo, thể hiện những suy nghĩ, kiến giải mới mẻ về vấn đề nghị luận.

Yêu cầu về kiến thức

Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần giới thiệu được vấn đề cần bàn luận, nêu rõ lí do và quan điểm của bản thân, hệ thống luận điểm chặt chẽ, lập luận thuyết phục, sử dụng dẫn chứng thuyết phục.

Sau đây là một hướng gợi ý: 

- Trung nghĩa: trung thành với vua, giữ đất nước, dạy con và gia nô lễ nghĩa.

- Dũng cảm: không chịu khuất phục giặc, trả lời vua “chém đầu tôi trước rồi hãy hàng”.

- Tài năng: mưu lược quân sự, chiến thắng giặc Nguyên, tiến cử nhân tài, biết giữ gìn sức dân.

=> Làm gương anh hùng, giáo dục lòng yêu nước và đạo đức cho thế hệ sau.

Có sự sáng tạo trong cách viết

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

- Học sinh biết tạo lập một bài văn nghị luận đảm bảo đủ cấu trúc 3 phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài. 

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Nghị luận về đạo lí: “Học đi đôi với hành”.

c. Triển khai vấn đề nghị luận

- Chia vấn đề nghị luận thành các luận điểm, luận cứ phù hợp, có sức thuyết phục; sử dụng tốt các thao tác lập luận; biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng.

- HS có thể triển khai theo những cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:

* Mở bài

- Giới thiệu vấn đề: Học tập là nền tảng để phát triển bản thân, nhưng chỉ học lý thuyết mà không thực hành thì kiến thức khó áp dụng.

- Nêu đạo lí: “Học đi đôi với hành” nhắc nhở con người vừa học kiến thức vừa rèn luyện kĩ năng sống qua thực tiễn.

* Thân bài

- Giải thích

+ “Học”: tiếp thu kiến thức từ sách vở, thầy cô, kinh nghiệm.

+ “Hành”: áp dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn luyện kỹ năng, trải nghiệm thực tế.

+ Đạo lí nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết giữa lý thuyết và thực hành.

- Biểu hiện trong học tập và đời sống

+ Trong học tập: vận dụng lý thuyết vào thí nghiệm, bài tập thực hành, dự án nhóm.

+ Trong kĩ năng sống: tham gia hoạt động xã hội, thể thao, tình nguyện, giao tiếp, giải quyết vấn đề.

+ Biết kết hợp học và hành để hiểu sâu, nhớ lâu, và phát triển toàn diện.

- Vai trò, ý nghĩa

+ Giúp học sinh, sinh viên vận dụng kiến thức vào đời sống, không chỉ học thuộc lòng.

+ Rèn luyện tính chủ động, sáng tạo, khả năng giải quyết vấn đề thực tế.

+ Phát triển con người toàn diện: kiến thức, kỹ năng, đạo đức và năng lực xã hội.

- Phản đề

+ Có người cho rằng chỉ cần học nhiều lý thuyết là đủ, không cần thực hành nhiều.

+ Tuy nhiên, nếu không thực hành, kiến thức dễ quên, kĩ năng yếu, không áp dụng được vào đời sống và công việc.

- Bài học rút ra

+ Luôn kết hợp học và hành trong mọi lĩnh vực: học ở lớp, ở sách, ở trải nghiệm thực tế.

+ Tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, thực tập, trải nghiệm để nâng cao kỹ năng sống.

+ Học đi đôi với hành giúp trở thành con người tự tin, năng động và có ích cho xã hội.

* Kết bài

- Khẳng định lại giá trị quan trọng của đạo lí “Học đi đôi với hành”.

- Nhấn mạnh: học kiến thức mà không hành sẽ hạn chế sự phát triển, còn hành mà không học lý thuyết sẽ thiếu nền tảng.

- Kêu gọi bản thân và mọi người luôn kết hợp học và thực hành để phát triển toàn diện và góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp hơn.

d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt

e. Sáng tạo

- Bài viết có luận điểm rõ ràng, lập luận thuyết phục, diễn đạt trong sáng, bài viết thể hiện được sự sáng tạo, độc đáo riêng.           

- Chữ viết sạch đẹp, rõ ràng, văn phong lưu loát; không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ, đặt câu.

Lời giải

- Khi gia nô can rằng nếu làm kế để giành phú quý thì sẽ để lại tiếng xấu, ông cảm phục, khen ngợi và khóc.

- Thể hiện ông trân trọng trung hiếu, coi trọng nhân tài, không chỉ lo phú quý cá nhân.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP