(Ngữ liệu ngoài sgk) Phở
22 người thi tuần này 4.6 295 lượt thi 7 câu hỏi 45 phút
🔥 Đề thi HOT:
Bộ 15 đề thi giữa kì 1 Ngữ Văn lớp 11 Cánh diều có đáp án - Đề 1
Đề thi giữa kì 1 lớp 11 môn Ngữ Văn có đáp án (Đề 1)
Bộ 15 đề thi giữa kì 1 Ngữ Văn lớp 11 Cánh diều có đáp án - Đề 3
Bộ 15 đề thi giữa kì 1 Ngữ Văn lớp 11 Chân trời sáng tạo có đáp án- Đề 2
Bộ 10 đề giữa kì 2 Ngữ Văn lớp 11 Kết nối tri thức có đáp án - Đề 8
Bộ 10 đề thi giữa kì 2 Ngữ Văn lớp 11 Chân trời sáng tạo có đáp án - Đề 10
6 câu Trắc nghiệm Tác giả Kim Lân Kết nối tri thức có đáp án
Bộ 15 đề thi giữa kì 1 Ngữ văn 11 Kết nối tri thức có đáp án - Đề 1
Nội dung liên quan:
Danh sách câu hỏi:
Đoạn văn 1
PHỞ (Trích)
(1) Phở còn là một món ăn rất nhiều quần chúng tính. Ông muốn ăn phở ngồi hay đứng lù lù ra giữa hiệu mà ăn cũng không ai nói, ăn ngồi ăn đứng tuỳ thích.
(2) Phở là món ăn bình dân. Công nông binh trí, các tầng lớp nhân dân lao động, thành thị, nông thôn, không mấy ai là không biết ăn phở. Người công dân Việt Nam khi còn ẵm ngửa, cũng nhiều vị đã nếm phở rồi; chỉ có khác người lớn là cái bát phở của tuổi ấu trĩ chưa biết đau khổ ấy chưa cần phức tạp, không cần hành hăng, chanh chua, ớt cay. Con nhà nghèo, nhiều khi lại không cần cả thịt nữa, mà căn bản phở nhi đồng vẫn là bánh và nước dùng thôi.
(3) Phở ăn bất cứ vào giờ nào cũng đều thấy trôi cả. Sớm, trưa, chiều, tối, khuya, lúc nào cũng ăn được. Trong một ngày ăn thêm một bát phở, cũng như lúc trò chuyện ăn giọng nhau mà pha thêm một ấm trà, cùng thưởng thức với bạn bè. Hình như không ai nỡ từ chối một người quen rủ đi ăn phở. Phở giúp cho người thanh bạch đủ điều kiện biểu hiện lòng thành theo với bầu bạn nó hợp với cái túi nhỏ của mình. Phở còn tài tình ở cái chỗ là mùa nào ăn cũng thấy có nghĩa thâm thúy. Mùa nắng, ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt qua lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt chợt thầm tươi lại. Trong một ngày mùa đông của người nghèo, bát phở có giá trị như một tấm áo kép mặc thêm lên người. Đêm đông, có người ăn phở xong, tự coi như vừa nuốt được cả một cái chăn bông và tin rằng có thể ngủ yên đến sáng, để mai đi làm khoẻ. Dùng những hình ảnh bình dị để nói lên mùa đông ở Việt Nam, tôi cho không gì nên thơ bằng cái hình ảnh một bếp lửa hàng phở bến ô tô nhiều hành khách quây quanh chờ đợi bát mình, vai rụt xuống một tí, người nhún nhẩy như trẻ em đang thú đời. Tết, nhà ai cũng bánh chưng, cá kho, thịt đông, nhưng vẫn rất đông người tình cờ mừng tuổi nhau ở những hiệu phở khai trương từ mùng hai Tết.
(4) Thật ra, ăn phở cho đúng, đúng cái “gu” của phở, phải ăn thịt chín. Thịt chín thơm hơn thịt tái, mùi thơm miếng thịt chín mới biếu hiện đúng cái tâm hồn của phở. Thêm nữa, về mặt nhận thức tạo hình, người thấm mỹ bao giờ cũng thấy miếng thịt chín đẹp hơn miếng thịt tái. Thường những hiệu phở không tự trọng, hay thái sẫn thịt chín, thái cứ vụn ra không thành hình thù gì cả, ai đến gọi là rắc vào bát. Có thế việc ấy không hề gì với khách hàng không cần ăn no vội. Nhưng cũng trong một cái hiệu vẫn thái thịt vụn ra ấy, ông chủ phở rất là phân biệt đối xử và không san bằng các thứ khách: đối với những khách quen, với những người có thế ông chưa biết quí danh nhưng ông đã thuộc tính ăn, những người cầu kỳ ấy mà bước vào hiệu, là ông đã đặt ngay tay dao vào những khối thịt chín đặc biệt như khối nạm ròn, nạm dắt hoặc khối mỡ gầu, thái ra những miếng mỏng nhưng to bản, với cái sung sướng bình tĩnh của một người được tỏ bày cái sở trường của mình trong nghề. Ông nào ăn phở mà có chất hoạ thì thấy muốn vẽ tranh tĩnh vật ngay. Có những lúc ông phở ấy gắt, gắt với vợ ông, vì ông thái không đẹp. Một ông làm đầu bếp hiệu chim quay trong hồi Hà Nội chiếm đóng, nay cũng ra mở phở và thích múa dao nói chuyện với khách về cái khoa thái. “Chặt thái loài có cánh đã khó, mà thái miếng thịt bò không xương còn khó hơn. Tôi dạy mãi mà đàn bà nhà tôi vẫn không làm được, đàn bà thường chỉ thái bánh thôi”.
(5) Phở cũng có những quy luật của nó. Như tên các hàng phở, hiệu phở. Tên người bán phở thường chỉ dùng một tiếng, lấy ngay cái tên cúng cơm người chủ hoặc tên con mà đặt làm tên gánh, tên hiệu, ví dụ phở Phúc, phở Lộc, phở Thọ, phở Trưởng ca, phở Tư... Có khi một cái tên tật nguyền trên thân thế người bán phở được cảm tình quần chúng thân mật nhắc lại thành một cái tên hiệu : phở Gù, phở Lắp, phở Sứt... cái khuyết điểm trên hình thù ấy đã chuyển thành một cái uy tín trong nghề bán miếng chín mà lưu danh một thời trên cửa miệng những người sành. Quần chúng nhân dân, nhất là nhân dân Hà Nội có nhiều sáng kiến để đặt tên cho những người họ yêu tin. Anh hàng phở ấy hãy đứng ở đâu bán hàng, họ lấy luôn cái địa điếm ấy mà gọi thành tên người Bác phở Nhà thương, ông phở Đầu ghi, anh phở Bến tàu điện, anh phở Gầm cầu... Có khi lấy một vài nét đặc thù trong cách phục sức mà gọi. Cái mũ tàu bay trên đầu ông bán phở thời Tây xưa, đã thành cái tên một người bán phở trứ danh của thủ đô sau này.
(6) [...] Hương vị phở vẫn như xa xưa, nhưng cái tâm hồn người ăn phở ngày nay, đã sáng sủa và lành mạnh hơn nhiều... Ngày trước, anh hàng phở có tiếng rao, có người rao nghe quạnh hiu như tiếng bánh dày giò đêm đông tội lỗi trong ngõ khuất; có người rao lên nghe vui rền. Tại sao, bây giờ Hà nội vẫn có phở, mà tiếng rao lại vằng hẳn đi? Có những lúc, tôi muốn thu thanh vào đĩa, tất cả những cái tiếng rao hàng quà rong của tất cả những thứ quà rong, của tất cả những thư quà miếng chín trên toàn cõi quê hương chúng ta. Những tiếng rao ấy, một phần nào vang hưởng lên cái nhạc điệu sinh hoạt chung của chúng ta đấy.
(7) [...] Đêm Hà Nội, nay thức khuya nhất vẫn là những hiệu phở [...]. Và cái món ăn Hà Nội đầu tiên… vẫn là cái món phở ngày xưa chúng ta vẫn ăn đủ cả rau mùi hành hoa đủ chua cay và sôi sùng sục. Tôi biết ở Nam Bộ vẫn có phở, phở hủ tíu, nhưng bát phở Bắc ăn ở đầu hè di cư không bao giờ có thể ngon được bằng bát phở cổ truyền Hà Nội ăn ngay bên lò than quả bàng đỏ lửa giữa ngàn năm văn vật này. [...]
(Nguyễn Tuân)
Lời giải
- Mùa nắng, ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt qua lưng, thấy như giời quạt cho mình.
- Trong một ngày mùa đông của người nghèo, bát phở có giá trị như một tấm áo kép mặc thêm lên người.
- Đêm đông, có người an phở xong, tự coi như vừa nuốt được cả một cái chăn bông và tin rằng có thế ngủ yên đến sáng, để mai đi làm khoẻ.
- Dùng những hình ảnh bình dị để nói lên mùa đông ở Việt Nam, tôi cho không gì nên thơ bằng cái hình ảnh một bếp lửa hàng phở bến ô tô nhiều hành khách quây quanh chờ đợi bát mình, vai rụt xuống một tí, người nhún nhẩy như trẻ em đang thú đời.
Lời giải
- Một số câu văn cho thấy sự hiện diện cái “tôi” của tác giả trong văn bản.
+ “Dùng những hình ảnh bình dị để nói lên mùa đông ở Việt Nam, tôi cho không gì nên thơ bằng cái hình ảnh một bếp lửa hàng phở bến ô tô nhiều hành khách quây quanh chờ đợi bát mình, vai rụt xuống một tí, người nhún nhẩy như trẻ em đang thú đời”
+ “Có những lúc, tôi muốn thu thanh vào đĩa, tất cả những cái tiếng rao hàng quà rong của tất cả những thứ quà rong, của tất cả những thư quà miếng chín trên toàn cõi quê hương chúng ta.”
+ “Tôi biết ở Nam Bộ vẫn có phở, phở hủ tíu, nhưng bát phở Bắc ăn ở đầu hè di cư không bao giờ có thể ngon được bằng bát phở cổ truyền Hà Nội ăn ngay bên lò than quả bàng đỏ lửa giữa ngàn năm văn vật này.”
* Nhận xét về cái “tôi” trữ tình của tác giả:
- Về tư tưởng, nội dung, tình cảm
+ Cái “tôi” của tác giả thể hiện tình cảm say mê, trân trọng, yêu mến sâu sắc đối với món ăn truyền thống của dân tộc: phở, biểu tượng văn hóa ẩm thực của Việt Nam.
+ Qua đó, tác giả đã bộc lộ tình cảm yêu thương và sự gắn bó sâu sắc với quê hương, với truyền thống văn hóa dân tộc. Tác giả cũng muốn truyền tải rằng việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, như món phở, là cách để giữ gìn và tôn vinh bản sắc dân tộc.
- Bút pháp nghệ thuật
+ Cách cảm nhận tinh tế, độc đáo của tác giả trong việc miêu tả những chi tiết cụ thể để làm nổi bật sự đặc biệt của món phở phản ánh vào trong VB dung dị, tự nhiên.
- Sử dụng, lựa chọn những hình ảnh giàu tính hình tượng với những BPTT, liên tưởng thú vị, tài hoa, độc đáo đế miêu tả chi tiết, sinh động về món phở Bắc truyền thống mang đậm giá trị văn hóa dân tộc.
- Kết hợp hài hòa yếu tố tự sự và trữ tình, đồng thời truyền tải những suy ngẫm, triết lý về đời sống qua việc miêu tả và phân tích món phở.
- Sử dụng ngôn ngữ uyên bác, giàu cảm xúc, giàu chất thơ; văn phong giản dị, mộc mạc, gần gũi nhằm bộc lộ sự yêu mến, tự hào về món ăn truyền thống.
Lời giải
* Dẫn ra 2 câu có yếu tố tự sự, 2 câu có yếu tố trữ tình trong đoạn (5), (6)
* Tác dụng:
- Nghệ thuật: Tăng sức gợi hình gợi cảm, làm cho đoạn văn thêm hấp dẫn, sinh động.
- Nội dung: Tác giả miêu tả nét đặc trưng trong cách đặt tên các quán phở ở Hà Nội, mỗi tên gọi gắn liền với những chi tiết thân thuộc và mang tính đặc thù; sự khác biệt trong tâm hồn của người ăn phở và tiếng rao phở ngày nay so với ngày xưa. Qua đó, tác giả bày tỏ tình cảm trân trọng, hoài niệm về phở Hà Nội - không chỉ là một món ăn mà còn là biểu tượng của văn hóa và đời sống tinh thần người dân. Cảm xúc nhớ thương xen lẫn với sự nuối tiếc khi một phần sinh hoạt truyền thống như tiếng rao đã dần biến mất, làm giảm đi một nét đẹp mộc mạc, thân quen trong cuộc sống hằng ngày của người Hà Nội.
Lời giải
* Một số biện pháp tu từ trong văn bản
a) So sánh
- “Người công dân Việt Nam khi còn ẫm ngửa, cũng nhiều vị đã nếm phở rồi; chỉ có khác người lớn là cái bát phở của tuổi ấu trĩ chưa biết đau khổ ấy chưa cần phức tạp, không cần hành hăng, chanh chua, ớt cay.”
- “Mùa nắng, ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt qua lưng, thấy như giời quạt cho mình.”
- “Đêm đông, có người ăn phở xong, tự coi như vừa nuốt được cả một cái chăn bông và tin rằng có thế ngủ yên đến sáng, để mai đi làm khoẻ.”
- “Trong một ngày mùa đông của người nghèo, bát phở có giá trị như một tấm áo kép mặc thêm lên người.”
- “Dùng những hình ảnh bình dị để nói lên mùa đông ở Việt Nam, tôi cho không gì nên thơ bằng cái hình ảnh một bếp lửa hàng phở bến ô tô nhiều hành khách quây quanh chờ đợi bát mình, vai rụt xuống một tí, người nhún nhẩy như trẻ em đang thú đời.”
b) Liệt kê
- “Công nông binh trí, các tầng lớp nhân dân lao động, thành thị, nông thôn, không mấy ai là không biết ăn phở.”
=>Phép liệt kê giúp làm rõ sự phổ biến của phở trong mọi tầng lớp xã hội, từ công nhân, nông dân, binh lính, trí thức, đến người thành thị và nông thôn.
- “Phở ăn bất cứ vào giờ nào cũng đều thấy trôi cả. Sớm, trưa, chiều, tối, khuya, lúc nào cũng ăn được.”
=>Liệt kê cụ thể thời gian linh hoạt đế thưởng thức món phở, có thế ăn vào bất cứ lúc nào trong ngày.
c) Điệp từ
- Điệp từ “cũng” trong câu “Phở ăn bất cứ vào giờ nào cũng đều thấy trôi cả. Sớm, trưa, chiều, tối, khuya, lúc nào cũng ăn được.” Nhấn mạnh thời gian linh hoạt để thưởng thức món phở, có thể ăn vào bất cứ lúc nào trong ngày.
=> Tác dụng
- Nghệ thuật: Tăng sức gợi hình gợi cảm, tăng sự biểu đạt.
- Nội dung: Tác giả miêu tả phở không chỉ là một món ăn bình dân, mà còn là biểu hiện của sự gắn kết xã hội và tình cảm gắn bó của người dân. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng đã bày tỏ tình yêu và sự trân trọng đối với món phở, truyền tải việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt.
Lời giải
Gợi ý: Những món ăn truyền thống còn rất ý nghĩa với con người hiện đại bởi vì
- Mỗi món ăn mang đậm dấu ấn của lịch sử, văn hóa và truyền thống của dân tộc (Phở của Việt Nam, Kimchi của Hàn Quốc, Sushi của Nhật Bản).
- Các món ăn truyền thống thường xuất hiện trong các dịp lễ, tết, giúp gắn kết gia đình và cộng đồng.
- Gắn liền với ký ức, gợi nhớ quê hương, cội nguồn, đặc biệt đối với những người sống xa quê.
- Món ăn truyền thống giúp thế hệ trẻ hiểu về văn hóa, phong tục của dân tộc, từ đó biết trân trọng và tiếp tục phát huy giá trị này.
- Các món ăn truyền thống giúp quảng bá hình ảnh đất nước, con người và văn hóa dân tộc ra thế giới.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.