Bài tập Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau có đáp án
35 người thi tuần này 4.6 770 lượt thi 2 câu hỏi
🔥 Đề thi HOT:
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 6)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 9)
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 10)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 3)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 1)
Bộ 12 đề kiểm tra giữa học kì 1 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án - Đề 1
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 7)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 3)
Nội dung liên quan:
Danh sách câu hỏi:
Lời giải
Mẫu 1
Quan Âm Thị Kính là vở chèo cổ có sức sống lâu bền trong dân gian, vớ chèo trụ vững với thời gian là tác giả đã xây dựng thành công chân dung người phụ nữ với những tính cách trái ngược với xã hội phong kiến bấy giờ. Bởi vậy khi đọc hay xem vở chèo này: Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách.
Thị Mầu là một cô gái trẻ đẹp được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ Chèo rất đặc trưng, đa dạng, phong phú. Thị Mầu là biểu tượng của khát vọng tình yêu, là sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt của tình yêu đối với những trói buộc khắt khe, vô nhân đạo của lễ giáo phong kiến khác với số đông nhân vật nữ chính khi ra trò đều mang những nét chung của tính cách được giáo dục trong nếp lễ giáo gia đình phong kiến với nền luân lý Nho gia. Nhân vật Mầu xuất hiện đã thu hút người nghe, người xem qua lời giới thiệu độc đáo. Thị Mầu là hình tượng khiến người tiếp nhận có ấn tượng đậm nét với vẻ ngoài của nhân vật. Vẻ đẹp ngoại hình của Mầu có sự cộng hưởng của cái yếm thắm trong đó thổn thức bộ ngực con gái thèm khát yêu đương, chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy, với con mắt sắc như dao cau, với nụ cười tươi nở ra trên đôi môi đỏ mọng, và với cái thân hình uốn éo luôn để lộ những đường cong khêu gợi…Thị Mầu từ kịch bản văn học bước ra sân khấu đã hút hồn người xem bởi chính ánh mắt đong đưa, lúng liếng, lời nói ngọt ngào, sóng sánh như mật, nụ cười môi thắm, răng trắng ngọc ngà mời mọc, năm ngón tay búp măng nõn nà xòe, phẩy quạt, váy áo bay tung, dải thắt lưng xanh phấp phới, quấn quyện ngay trên đầu chú tiểu trẻ đang ngồi gõ mõ, niệm kinh, chịu trận như hóa đá... những bước đi vòng rộng nhún nhẩy, dáng dấp phóng túng bay bướm đầy ắp sinh khí như muốn phá tung mọi ràng buộc của lễ nghi phong kiến. Rõ ràng vẻ bên ngoài của Thị Mầu đã toát lên tính cách, việc làm, tâm tư của Thị. Nguyên tắc đối lập trong xây dựng nhân vật chèo cổ đã làm nổi bật hai hình tượng. Thị Kính – áo nâu sồng, miệng tụng kinh, tay gõ mõ, ngồi bất động, Thị Mầu áo mớ ba mớ bảy sặc sỡ, tay cầm quạt, thoắt gập, thoắt xòe…Thị Kính trần tư bao nhiêu thì Thị Mầu cuồng nhiệt bấy nhiêu. Thị Kính dịu dàng, kín đáo, đoan trang, Thị Mầu lại mạnh mẽ, lẳng lơ, táo bạo. Thị Kính càng né tránh thì Thị Mầu càng lăn xả để thỏa mãn dục tình. Không chỉ bộc lộ cảm thức về thân phận, tính cách bản năng. Họ khao khát được yêu – một tình yêu chân thành, và ở một chừng mực nhất định, chèo đã hé lộ những khát khao tính dục từ phía người phụ nữ - một dục vọng hết sức con người. Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu. Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Ý thức tự do trong tình yêu bộc lộ ở lời nhủ mình và khuyên chị em chớ nghe họ hàng. Sự thật có biết bao người con gái đau khổ, bất hạnh vì hôn nhân không tình yêu bởi hệ luật ép duyên. Nên lời Thị Mầu thể hiện sự phản kháng với lễ giáo vô lý trong xã hội mà quyền yêu và lấy người mình yêu không được ủng hộ, chấp thuận. Thị Mầu trong chèo cũng là một tấm gương điển hình về sự phá phách, chống lại những trói buộc của chế độ phong kiến hà khắc, khát khao hướng tới hạnh phúc của người phụ nữ thời bấy giờ. Người phụ nữ này dám bộc lộ hết mình, biết sống, biết khao khát tận hưởng với đời. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu - giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu.Thị cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Mầu ở đây thật mới. Cô chấp nhận, van lơn thứ tình “ở trọ”, “qua đường” và chính trong cái quyết liệt đó đã mai phục sẵn một tâm thế liều lĩnh: “mai sau dù có ra sao cũng đành” sẽ được bùng lên ở những chặng sau trong cuộc đời cô. Sự nổi loạn của Thị Mầu là thách thức xã hội:
“Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên chẳng để sơn son mà thờ”
Thị Mầu đã dám nghĩ, dám yêu, dám bày tỏ và sẵn sàng chấp nhận hậu quả cuối cùng. Đam mê của Thị mang tính bản năng và xuất phát từ trái tim không toan tính vụ lợi, không ràng buộc. Khi bị từ chối, tình yêu càng trở nên mãnh liệt. Không đạt được mong muốn, khát khao của Thị Mầu càng cháy bỏng. Thị Mầu đã đi ngược quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân để tiến đến sát sạt tiểu Kính mà ghẹo, mà quyến rũ bởi Thị Mầu đã say đắm vẻ đẹp của thầy Tiểu và khát khao có được tình yêu của Kính Tâm. Xét ở phương diện yêu thì Thị Mầu đúng là một cô gái hiện đại. Thị đã dám yêu, dám bày tỏ, dám vượt qua lễ giáo của xã hội phong kiến, những mong có được tình yêu của mình. Có bao nhiêu cô gái thời đại ấy đã dám làm thế như Thị Mầu. Đến ngay cả Thúy Kiều, được coi là táo bạo, bị các nhà Nho thời đó cho là “dâm” khi dám “ xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” đi tìm Kim Trọng thì cũng chỉ mới dừng lại ở ranh giới nhất định. Kiều vẫn không dám phá bỏ lễ giáo phong kiến khi nói “Nên chăng là cũng tại lòng mẹ cha” để lúc sa chân vào cuộc đời gió bụi cũng chỉ dám thốt lên một câu tiếc nuối “Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta “tán thưởng” Thị Mầu về cách hành xử trong tình yêu, mà chỉ để thấy rõ hơn lý do lỗi lầm của Thị để tha thứ cho một cô gái mang cái “án lẳng lơ” theo suốt chiều dài văn hóa dân tộc. Lỗi lầm của Thị Mầu là ở chỗ yêu say đắm nhưng không hiểu rằng tình yêu cần phải có từ hai phía. Vì thế, Thị đã biến tình yêu của mình thành sự si mê mù quáng, dẫn đến bi kịch cho mình và người mình yêu. Thị Mầu là con người của nghệ thuật. Và nghệ thuật dân gian mang hơi thở của cuộc sống. Nên con người của nghệ thuật phải chăng chính là con người của cuộc đời. Và khát vọng của Thị Mầu là của bao cô gái trong xã hội phong kiến. Qua những phân tích trên thì mọi người có thể thấy rõ là em nghiêng về quan niệm thứ hai nhiều hơn.
Tóm lại Thị Mầu là nhân vật dám sống thật với bản thân, dám vượt qua những lễ giáo phong kiến, sắc thái nữ quyền trong Mầu cũng hiện lên rất rõ nét hơn ở khao khát tự do yêu đương, bản năng tính dục trong Thị Mầu điều mà người phụ nữa xưa không dám làm.
Mẫu 2
Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách. Theo em, Thị Mầu đích thực là một người phụ nữ đáng thương. Nàng là một người phụ nữ đẹp, khao khát tình yêu và cũng sống thật với những khao khát của mình. Tuy nhiên, thời đại nàng đang sinh sống lại không cho phép điều đó. Bằng ngôn ngữ chèo đặc trưng, nhân vật Thị Mầu được miêu tả rất rõ nét. Nàng là một người con gái đẹp, được thể hiện qua các hình ảnh như đôi môi đỏ mọng, nụ cười lúng liếng đa tình. Trên sân khấu chèo, những đặc điểm này được cụ thể hoá, biến ra một chú bướm lộng lẫy sắp phá kén chui ra. Nàng để ý đến Thị Kính, suốt ngày áo nâu, tụng kinh, bất động. Bất chấp mọi định kiến, Mầu nghe theo dục vọng và khát khao của trái tim, quấn lấy thầy Tiểu. Ở trong xã hội đó, đây được coi là một việc làm trái với luân thường đạo lý. Không chỉ quyến rũ sư thầy trong chùa, Mầu còn đi ngược lại luân lý thời đó là nam nữ thụ thụ bất thân. Gánh trên vai cái danh lẳng lơ muôn đời phỉ nhổ, nhưng nếu sống ở thời đại khác, có lẽ cuộc đời Thị Mầu sẽ không bi thảm như vậy. Có lẽ, nàng sẽ có được hạnh phúc, sống thật với bản thân và thoải mái thể hiện tính cách của mình. Chỉ tiếc rằng, thời thế không cho phép. Mặc dù những hành động của Thị Mầu không đúng với thuần phong mỹ tục, nhưng cũng không đến nỗi bị chửi là đồ lẳng lơ, xấu tính, gánh trên vai những lời thoá mạ muôn đời.
Mẫu 3
Nhân vật Thị Mầu có lẽ là một nhân vật được bàn luận nhiều nhất trên sân khấu chèo và cả trong thế giới văn chương của Việt Nam. Khi bàn luận về nhân vật này, thường có hai luồng ý kiến trái chiều nhau. Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách. Đầu tiên, phải nói về cách xây dựng nhân vật Thị Mầu. Nàng là một người con gái xinh đẹp, từ khuôn mặt đến dáng hình. Dưới ngòi bút của tác giả, Thị Mầu xuất hiện trên sân khấu chèo có thể làm cho người xem kinh diễm. Từ những chi tiết như bờ môi, ánh mắt, tác giả lại nói đến dáng vẻ đỏng đảnh, lả lướt phô bày hết thảy những đường cong cơ thể của người con gái. Mọi sự việc diễn ra từ ngày Mầu phải lòng với sư tiểu Thị Kính trên chùa. Mối lương duyên này đi ngược lại với thế tục, nên người đồi không ưa, Thị Kính cũng chẳng bằng lòng. Trái với thời đại, nàng lại chẳng quan tâm đến những cái yêu cầu đặt điều của người đời, chỉ quan tâm đến khao khát và ham muốn của bản thân. Vậy nên, tuân theo dục vọng đó, nàng đã quyến rũ Thị Kính. Hành động của nàng trong xã hội ấy được xem là vô đạo đức, đáng bị người đời phỉ nhổ, trừng phạt. Nhưng liệu rằng, hành động ấy đáng bị lên án như thế hay chăng? Thử hỏi rằng, nếu Mầu sinh ra trong thời hiện đại, nàng có bị vạn người thóa mạ như trước hay chăng? Có lẽ là không. Nàng sinh ra trái thời, vậy nên những khát khao ấy trở nên sai trái, trở nên ngỗ nghịch. Vậy nên, Thị Mầu đã sống thực với bản thân, nhưng lại sống sai thời đại, là một người đáng thương hơn là đáng trách.
Mẫu 4
Xin chào cô và các bạn. Trong buổi thảo luận hôm nay, em sẽ đưa ra những ý kiến, quan điểm của bản thân xoay quan vấn đề "Xây dựng văn hóa đọc". Kính mời cô cùng các bạn theo dõi, lắng nghe.
Trước khi đi sâu vào vấn đề, mình có một câu hỏi nhỏ cho mọi người như sau: Các bạn có thường đọc sách hay không? Mỗi tháng bạn đọc bao nhiêu cuốn sách? Như các bạn có thể thấy, ngày nay, thiết bị công nghệ điện tử phát triển và bùng nổ đã mang đến rất nhiều hứng thú cho con người. Chúng ta có thể dành hàng giờ chỉ để lướt Tiktok, Facebook nhưng lại keo kiệt thì giờ cho việc đọc sách. Như vậy, xây dựng văn hóa đọc là vấn đề ý nghĩa và cần thiết, phục vụ cuộc sống của con người. Mình biết có một số bạn cho rằng phát triển văn hóa đọc là không cần thiết, đọc sách không tích lũy nhiều kinh nghiệm bằng việc trải nghiệm thực tế.
Dưới góc nhìn của mình, xây dựng văn hóa đọc không phải là kiểu chạy theo số lượng, theo "trend" hay nhiệm vụ. Đọc ở đây là để hiểu, để tích lũy tri thức và kinh nghiệm. Thay vì tiếp cận những thông tin thật giả lẫn lộn, chưa được kiểm chứng trên mạng xã hội, bạn có thể tìm hiểu chúng trong sách báo. Mở một trang sách, bạn sẽ biết vô vàn điều mới mà không phải ai cũng dạy cho chúng ta.
Từ đây, để việc xây dựng văn hóa đọc thêm phát triển và mở rộng, các cơ quan có liên quan cần đưa ra chương trình cụ thể. Ngoài ra, phải không ngừng nâng cao và đổi mới, cập nhật đầu sách. Những thư viện quản lí cần cải thiện cơ sở vật chất để đáp ứng nhu cầu của người đọc.
Trên đây là một số ý kiến của em về vấn đề xây dựng văn hóa đọc. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.
Mẫu 5
Chào cô và các bạn. Em là Hà Linh. Trong tiết Nói và nghe ngày hôm nay, em sẽ trình bày những ý kiến của mình về vấn đề "Tôn trọng sự khác biệt".
Các bạn hiểu như nào là "tôn trọng sự khác biệt"? Theo mình, tôn trọng sự khác biệt là có cái nhìn đúng đắn và toàn diện về mọi người xung quanh, không tỏ ra kì thị hay chê bai, ghét bỏ những thứ đi ngược lại với số đông. Tuy nhiên, ngày nay, vài cá nhân thường phán xét và cho rằng khác biệt là "chơi trội", không đúng với thuần phong mỹ tục của người Việt. Nhưng bạn ơi, chớ vội đưa những đánh giá phiến diện như vậy. Thế giới rộng lớn có 7 tỉ người, tương đương với vô vàn tính cách, quan điểm sống khác nhau. Cớ sao chúng ta lại bắt ép người khác đi theo một khuôn khổ nhất định, đúng không nào?
Như vậy, mỗi người hãy học cách nhìn nhận và tôn trọng sự khác biệt. Để làm được điều đó, từng cá nhân phải biết đặt vị trí của mình vào người khác để thấu hiểu, đồng cảm. Thay vì soi mói và bới móc, chúng ta nên tôn trọng quyền riêng tư ở mỗi cá nhân.
Sau khi lắng nghe những ý kiến đóng góp của mọi người, mình đưa ra kết luận như sau: Tôn trọng sự khác biệt là một việc làm ý nghĩa, thể hiện sự tôn trọng người khác. Mỗi người hãy có cái nhìn cởi mở hơn nữa với mọi người xung quanh. Khi góp ý, chúng ta cần đóng góp bằng thái độ tích cực, hài hòa, không nên "bới lông tìm vết". Mong rằng, các bạn sẽ luôn nhớ tới câu nói của chú mèo Zorba trong tác phẩm "Chuyện con mèo dạy hải âu bay": "Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương kẻ nào giống mình, nhưng để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn, và con đã giúp chúng ta làm được điều đó".
Cảm ơn cô và các bạn đã theo dõi, lắng nghe bài trình bày của em.
Mẫu 6
Mình là Ngọc Khánh. Trong tiết học ngày hôm nay, mình sẽ đưa ra những ý kiến, quan điểm về vấn đề "Tham gia hoạt động thiện nguyện".
Như mọi người đã biết, cha ông ta từ xưa đến này luôn đề cao truyền thống tương thân tương ái "lá lành đùm lá rách". Giữ gìn và phát huy truyền thống cao đẹp ấy, ngày nay, có rất nhiều cá nhân và tổ chức các hoạt động thiện nguyện. Hoạt động này đã đem đến giá trị tốt đẹp về vật chất và tinh thần cho những người khó khăn trong cuộc sống. Đó là những chương trình ý nghĩa như: "Đông ấm cho em", "Hướng về miền Trung ruột thịt",... Có thể nói, tất cả mọi người đều cho rằng hoạt động thiện nguyện là cần thiết, ý nghĩa. Tuy nhiên, một số vấn đề nổi cộm gần đây đã làm chúng ta có cái nhìn khác đi về thiện nguyện. Như việc vài cá nhân, tổ chức lợi dụng từ thiện để kiếm lợi cho bản thân. Ngoài ra, vài kẻ xấu còn chăn dắt trẻ em, người già yếu nhằm trục lợi.
Theo quan điểm của cá nhân mình, những hiện tượng trên chỉ là "con sâu làm rầu nồi canh". Vẫn còn nhiều mạnh thường quân sẵn sàng bỏ túi tiền cá nhân để làm từ thiện. Họ cho đi mà không đòi hỏi được nhận lại. Các chuyến đi tình nghĩa tìm đến vùng khó khăn luôn được tổ chức đều đặn. Trường lớp hay một vài nhà xuất bản cũng thường xuyên tổ chức quyên góp sách vở... Từ đây, hoạt động thiện nguyện vẫn tồn tại trong xã hội bằng nhiều phương thức khác nhau, đúng không các bạn?
(Mọi người nêu ý kiến của bản thân và đưa ra ý kiến thống nhất)
Mình cảm thấy rất vui và hạnh phúc khi mọi người đều ủng hộ hoạt động từ thiện. Kết thúc bài thảo luận, mình sẽ đưa ra những kết luận sau: hoạt động thiện nguyện là hành động cao đẹp cần được giữ gìn và tiếp tục phát triển. Chúng ta hãy biết mở rộng tấm lòng, quan tâm tới những người có số phận đau khổ, bất hạnh.
Kính chào thầy cô và các bạn. Tôi tên là............học sinh.........trường.........
Trước một tác phẩm truyện, mỗi người đọc có thể có những cảm nhận, quan điểm riêng biệt, những đánh giá khác nhau về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó, hoặc những cách lý giải khác nhau về một nhân vật, tình tiết truyện. Đến với bài nói ngày hôm nay tôi xin chia sẻ quan điểm của tôi trước ý kiến: Để hiểu đúng nhân vật Huấn Cao, có nhất thiết phải biết tường tận về Cao Bá Quát - một nhân vật lịch sử được Nguyễn Tuân chọn làm nguyên mẫu không?.
Trước hết tôi sẽ trình bày lí do vì sao tôi lựa chọn vấn đề này. Thứ nhất, vấn đề mối quan hệ giữa nguyên mẫu và nhân vật trong tác phẩm là một trong nhiều yếu tố cần phải quan tâm khi người đọc tiếp nhận tác phẩm. Liệu có nên đồng nhất nhân vật trong tác phẩm và nguyên mẫu ngoài đời không? Thứ hai, Nguyễn Tuân lựa chọn Cao Bá Quát làm nguyên mẫu xây dựng nhân vật Huấn Cao, vậy sự tương đồng và khác biệt khi hư cấu một nhân vật văn học nằm ở đâu? Liệu có cần phải biết tường tận về một nhân vật lịch sử để lý giải một nhân vật văn học không? Để trả lời các câu hỏi trên, tôi xin phép trình bày một số quan điểm của cá nhân tôi.
Tác phẩm “Chữ người tử tù’ nằm trong tập “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940 của Nguyễn Tuân. Xây dựng nhân vật Huấn Cao như một hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương, Nguyễn Tuân đã gửi gắm quan điểm nghệ thuật và nhân sinh sâu sắc qua nhân vật chính này. Huấn Cao hiện lên với tài viết chữ nổi tiếng, với khí phách hiên ngang - là tử tù nhưng rất ung dung, bình thản, thái độ đầy ngạo mạn và khinh bạc trả lời viên quản ngục, luôn bình thản, ung dung chờ đợi cái chết, không chịu khuất phục trước uy quyền; với thiên lương trong sáng, nhân cách cao đẹp - không tham quyền, hám lợi mà bán rẻ giá trị của mình, trọng nghĩa khí.
Chữ Cao trong tên của nhân vật gợi nhắc đến tên tuổi của một nhân vật có thật trong lịch sử - Cao Bá Quát, người cũng nổi tiếng với tài viết chữ đẹp. Dân gian có câu “thần Siêu thánh Quát” để ca ngợi hai con người có nét chữ xuất thần. Cao Bá Quát sống vào khoảng thế kỷ 19, là một nhà nho, nhà thơ lớn, “văn võ song toàn”; một vị quan thanh liêm, chính trực, bảo vệ quyền lợi cho dân, cũng là lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, từng bị triều đình bắt giam.
Giữa nhân vật trong “Chữ người tử từ” và nhân vật lịch sử có rất nhiều điểm tương đồng: đều là người có tài viết chữ đẹp, văn võ song toàn, có bản lĩnh, khí phách kiên cường, bất khuất, tính cách ngang tàn. Trong mắt triều đình, họ đều là tên giặc nguy hiểm đã nổi dậy khởi nghĩa, nhưng trong mắt nhân dân, họ là những anh hùng đã đứng lên bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Cả hai đều là những người tôn thờ cái đẹp, Cao Bá Quát chỉ cúi đầu trước nét đẹp thanh tao của hoa mai; Huấn Cao say mê thú chơi chữ tao nhã.
Nhưng giữa nhân vật lịch sử và nhân vật văn học vẫn có một khoảng cách xa, và nhà văn đã dùng tưởng tượng của bản thân để lấp đi khoảng cách đó. Trong tác phẩm “Chữ người tử tù”, Huấn Cao (người tử tù) hiện lên như một người nghệ sĩ sáng tạo cái đẹp qua cảnh ông cho chữ quản ngục. Ở một nơi toàn “phân gián, phân chuột”, mạng nhện giăng đầy, nền ẩm ướt... người cho chữ lại là người tử tù “tay đeo gông, chân vướng xiềng” nhưng tư thế cho chữ thì hiên ngang, lồng lộng. Tuy nhiên, nguyên mẫu trong thực tế - Cao Bá Quát, không được lưu truyền câu chuyện cho chữ nào. Mặc dù chữ của Cao Bá Quát rất đẹp, rất quý, nhưng thực tế không có cảnh cho chữ khuôn mẫu nào ở nhân vật này để Nguyễn Tuân tái hiện. Vì thế, cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” là một sáng tạo độc đáo. Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật quản ngục - một người kính nể, ngưỡng mộ Huấn Cao, biệt đãi Huấn Cao vì muốn được xin nét chữ quý. Nhưng trong lịch sử, trong suốt thời gian dài bị giam cầm, Cao Bá Quát thường chịu nhục hình tra tấn.
Từ con người đời thực là Cao Bá đến con người trong văn học Huấn Cao là một sự sáng tạo của Nguyễn Tuân, là sự bù đắp của nghệ thuật vào phần thiếu hụt của cuộc sống. Tìm hiểu thêm về Cao Bá Quát để thấu hiểu được một thời “vang bóng”, con người “vang bóng” mà Nguyễn Tuân tôn sùng là thời đại nào. Nhưng nếu rập khuôn nguyên mẫu vào nhân vật văn học, thì rất nhiều điểm chênh sẽ hiển lộ ra. Vì thế, tôi cho rằng khi tìm hiểu về Huấn Cao, có thể tìm hiểu về Cao Bá Quát, nhưng không nên áp đặt toàn bộ những tư liệu đó vào việc lý giải nhân vật.
Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Tôi rất vinh hạnh nếu được nghe chia sẻ của thầy cô về vấn đề mà tôi đang suy ngẫm, đồng thời rất sẵn lòng được cùng thảo luận những vấn đề khác mà thầy cô và các bạn đưa ra.
Mẫu 7
Thuốc kháng sinh là cái tên không còn quá xa lạ với tất cả mọi người. Loại thuốc quen mặt này xuất hiện trong điều trị nhiều bệnh lý, từ đơn giản đến phức tạp và có thể mua ở hầu hết mọi nhà thuốc. Tuy nhiên nhiều người lại lạm dụng chúng quá mức và còn nêu ra quan niệm: Khi ốm đau, tốt nhất là dùng kháng sinh cho nhanh khỏi bệnh.
Vậy có thực là thuốc kháng sinh sẽ giúp nhanh khỏi bệnh hay không? Mặc dù kháng sinh có tác dụng tích cực là điều trị bệnh, diệt vi khuẩn gây bệnh, không cho vi khuẩn sinh sôi nảy nở tiết ra các độc chất gây hại cho cơ thể, nhưng nó còn có tác dụng phụ như phản ứng phụ hoặc dị ứng. Mặt khác, việc lạm dụng thuốc kháng sinh khiến sự xuất hiện của các vi khuẩn kháng thuốc đang ngày càng phổ biến như: tụ cầu kháng methicilline; phế cầu kháng penicilline; khuẩn salmonela đa kháng với choramphenicol, ampicillin, cotrimoxazole... Sự xuất hiện của các vi khuẩn này gây nguy hiểm nghiêm trọng đến tính mạng của con người. Thực trạng dễ thấy hiện nay là nhiều người khi bị ốm, thậm chí bị cảm cúm do virus nhưng do ngại đến cơ sở y tế khám nên tự tìm mua kháng sinh để uống với mong muốn nhanh khỏi bệnh. Tuy nhiên việc sử dụng thuốc kháng sinh chưa hợp lý, lạm dụng thuốc… sẽ tạo điều kiện cho các vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh, khiến cho thuốc kém hiệu quả và mất dần tác dụng. Đặc biệt là các bậc phụ huynh thấy trẻ bị ho, sốt, viêm họng nhẹ, mặc dù chưa cần dùng đến thuốc kháng sinh cũng tự ý kê đơn kháng sinh hoặc mua thuốc theo đơn cũ cho trẻ uống. Những bệnh nhẹ này của trẻ thay vì sử dụng thuốc kháng sinh có thể dùng những biện pháp vừa an toàn vừa hiệu quả như rửa mũi, súc họng bằng nước muối, sử dụng thuốc ho... Nếu bệnh tình tái phát hoặc không thuyên giảm thì đưa trẻ đến các trung tâm y tế điều trị theo chỉ định của bác sĩ. Việc tự ý sử dụng thuốc kháng sinh khiến cho thuốc không những không trị được bệnh, mà còn làm cơ thể sản sinh ra các vi khuẩn kháng thuốc gây nguy hiểm cho người bệnh. Lạm dụng kháng sinh ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng: Tác dụng chính của kháng sinh là diệt khuẩn và nấm chính vì thế nếu lạm dụng sử dụng kháng sinh không đúng cách, liều lượng, tự ý dùng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người bệnh. Kháng sinh không chỉ diệt các vi khuẩn có hại mà chúng còn có thể ngăn chặn sự phát triển của các vi khuẩn có lợi trong khu vực niêm mạc, lợi, hầu, trong cơ quan tiêu hóa,… Vì vậy, sử dụng kháng sinh quá nhiều lần gây nên hiện tượng loạn khuẩn, khiến cho các vi khuẩn có lợi bị tiêu diệt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe. Đối với người cao tuổi sử dụng kháng sinh không đúng cách, sai nguyên tắc còn có thể gây nên các biến chứng nguy hiểm như sốc phản vệ, có thể tử vong nếu như không được cấp cứu kịp thời. Trẻ nhỏ cũng là một trong những đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nếu dùng kháng sinh sai cách, khiến cho bé dễ bị hen suyễn, sức đề kháng yếu đi,… nên bé khó có thể phát triển khỏe mạnh. Để hạn chế lạm dụng thuốc kháng sinh cần nâng cao nhận thức ngay từ mỗi cá nhân bằng cách bắt đầu bằng thói quen tuân thủ đơn thuốc của bác sĩ, không tự ý mua và dùng kháng sinh khi chưa có ý kiến của bác sĩ điều trị. Khi được bác sĩ kê đơn có thuốc kháng sinh, luôn uống đủ liều lượng đã được kê, không bỏ dở nửa chừng, ngay cả khi cảm thấy bệnh đã đỡ nhiều. Không dùng thuốc kháng sinh thừa từ lần sử dụng trước; không chia sẻ thuốc kháng sinh trong toa thuốc đang dùng cho người khác uống, ngay cả khi đó là người thân của mình.Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng để phòng ngừa lây nhiễm vi khuẩn, góp phần giảm bớt nguy cơ phải dùng đến thuốc kháng sinh. Mỗi cán bộ y tế cần sử dụng kháng sinh có trách nhiệm, chỉ định sử dụng kháng sinh đúng các hướng dẫn chuyên môn và kê đơn khi cần thiết. Đối với các cơ quan chức năng, trực tiếp là ngành y tế, cần tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động kê đơn và bán thuốc theo đơn tại các bệnh viện, nhà thuốc, tăng cường kiểm soát, quản lý sử dụng kháng sinh. Đồng thời, có chế tài xử lý thích đáng đối với các hành vi vi phạm.
Có thể thấy không phải cứ ốm mà mình sử dụng thuốc kháng sinh, thay vào việc tự tiện sử dụng hay lạm dụng nó thì chúng ta phải đến bác sĩ để khám bệnh và uống theo đúng liều lượng được kê đơn.
Mẫu 8
Mỗi nhân vật trong một tác phẩm văn học đều mang những vẻ đẹp, cá tính riêng. Tác phẩm đưa ra những ý kiến trái chiều để bạn đọc có thể bàn luận cũng được coi là đã thành công tạo được những ấn tượng, thu hút bạn đọc. Nhân vật Thị Mậu trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” là một người như vậy. Nhận xét về nhân vật, có ý kiến cho rằng: Thị Mầu trong đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách.
Tuy ý kiến trái chiều nhưng đều có những lí lẽ riêng, thể hiện cảm nhận của người đánh giá. Trước hết, hãy cùng thảo luận về ý kiến “Thị Mầu là một người lẳng lơ, xấu tính”. Trước hết, tính cách lẳng lơ của thị được thể hiện qua một vẻ ngoài ấn tượng. Vẻ đẹp ngoại hình của Mầu có sự cộng hưởng của cái yếm thắm trong đó thổn thức bộ ngực con gái thèm khát yêu đương, chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy, với con mắt sắc như dao cau, với nụ cười tươi nở ra trên đôi môi đỏ mọng, và với cái thân hình uốn éo luôn để lộ những đường cong khêu gợi…Thị Mầu từ kịch bản văn học bước ra sân khấu đã hút hồn người xem bởi chính ánh mắt đong đưa, lúng liếng, lời nói ngọt ngào, sóng sánh như mật, nụ cười môi thắm, răng trắng ngọc ngà mời mọc, năm ngón tay búp măng nõn nà xòe, phẩy quạt, váy áo bay tung, dải thắt lưng xanh phấp phới, quấn quyện ngay trên đầu chú tiểu trẻ đang ngồi gõ mõ, niệm kinh, chịu trận như hóa đá... những bước đi vòng rộng nhún nhẩy, dáng dấp phóng túng bay bướm đầy ắp sinh khí như muốn phá tung mọi ràng buộc của lễ nghi phong kiến. Rõ ràng vẻ bên ngoài của Thị Mầu đã toát lên tính cách, việc làm, tâm tư của Thị. Nguyên tắc đối lập trong xây dựng nhân vật chèo cổ đã làm nổi bật hai hình tượng. Thị Kính – áo nâu sồng, miệng tụng kinh, tay gõ mõ, ngồi bất động, Thị Mầu áo mớ ba mớ bảy sặc sỡ, tay cầm quạt, thoắt gập, thoắt xòe…Thị Kính trần tư bao nhiêu thì Thị Mầu cuồng nhiệt bấy nhiêu. Thị Kính dịu dàng, kín đáo, đoan trang, Thị Mầu lại mạnh mẽ, lẳng lơ, táo bạo. Thị Kính càng né tránh thì Thị Mầu càng lăn xả để thỏa mãn dục tình. Biết Thị Kính là một thầy tu nhưng Thị Mầu vẫn không ngừng tìm cách quyến rũ. Dù Tiểu Kính đã nhiều lần từ chối như Thị Mầu vẫn không bỏ cuộc mà vẫn luôn tìm cách để trò chuyện, liên tục gọi “thầy tiểu ơi” đầy dịu dàng, tha thiết. Từ những hành động trên, có thể thấy rằng Thị Mầu là một người phụ nữ lẳng lơ, xấu tính.
Thế nhưng, nếu nhìn trên phương diện tích cực thì Mầu lại là một cô gái có khát vọng tình yêu cao cả. Thật hiếm người phụ nữ nào trong xã hội xưa có thể bộc lộ tình cảm của mình một cách thẳng thắn như Mầu. Họ thường sẽ im lặng, âm thầm chịu đựng hoặc dịu dàng, ẩn ý trong tình yêu của mình. Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Thị Mầu trong chèo là một tấm gương điển hình về sự phá phách, chống lại những trói buộc của chế độ phong kiến hà khắc, khát khao hướng tới hạnh phúc của người phụ nữ thời bấy giờ. Người phụ nữ này dám bộc lộ hết mình, biết sống, biết khao khát tận hưởng với đời. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu - giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu.Thị cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Mầu ở đây thật mới. Cô chấp nhận, van lơn thứ tình “ở trọ”, “qua đường” và chính trong cái quyết liệt đó đã mai phục sẵn một tâm thế liều lĩnh: “mai sau dù có ra sao cũng đành” sẽ được bùng lên ở những chặng sau trong cuộc đời cô. Sự nổi loạn của Thị Mầu là thách thức xã hội:
“Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên chẳng để sơn son mà thờ”
Thị Mầu đã dám nghĩ, dám yêu, dám bày tỏ và sẵn sàng chấp nhận hậu quả cuối cùng. Đam mê của Thị mang tính bản năng và xuất phát từ trái tim không toan tính vụ lợi, không ràng buộc. Khi bị từ chối, tình yêu càng trở nên mãnh liệt. Không đạt được mong muốn, khát khao của Thị Mầu càng cháy bỏng. Thị Mầu đã đi ngược quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân để tiến đến sát sạt tiểu Kính mà ghẹo, mà quyến rũ bởi Thị Mầu đã say đắm vẻ đẹp của thầy Tiểu và khát khao có được tình yêu của Kính Tâm. Xét ở phương diện yêu thì Thị Mầu đúng là một cô gái hiện đại. Thị đã dám yêu, dám bày tỏ, dám vượt qua lễ giáo của xã hội phong kiến, những mong có được tình yêu của mình. Có bao nhiêu cô gái thời đại ấy đã dám làm thế như Thị Mầu. Đến ngay cả Thúy Kiều, được coi là táo bạo, bị các nhà Nho thời đó cho là “dâm” khi dám “ xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” đi tìm Kim Trọng thì cũng chỉ mới dừng lại ở ranh giới nhất định. Kiều vẫn không dám phá bỏ lễ giáo phong kiến khi nói “Nên chăng là cũng tại lòng mẹ cha” để lúc sa chân vào cuộc đời gió bụi cũng chỉ dám thốt lên một câu tiếc nuối “Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta “tán thưởng” Thị Mầu về cách hành xử trong tình yêu, mà chỉ để thấy rõ hơn lý do lỗi lầm của Thị để tha thứ cho một cô gái mang cái “án lẳng lơ” theo suốt chiều dài văn hóa dân tộc. Lỗi lầm của Thị Mầu là ở chỗ yêu say đắm nhưng không hiểu rằng tình yêu cần phải có từ hai phía. Vì thế, Thị đã biến tình yêu của mình thành sự si mê mù quáng, dẫn đến bi kịch cho mình và người mình yêu.
Thị Mầu là con người của nghệ thuật. Và nghệ thuật dân gian mang hơi thở của cuộc sống. Nên con người của nghệ thuật phải chăng chính là con người của cuộc đời. Và khát vọng của Thị Mầu là của bao cô gái trong xã hội phong kiến.
Tuy có những ý kiến trái chiều về nhân vật nhưng với quan điểm hiện đại ngày nay, có lẽ Thị Mầu không phải là một cô gái “xấu”. Vì vậy, khi đánh giá một nhân vật hay bất cứ con người nào, chúng ta cần dành cho họ một cái nhìn đa chiều và tích cực để từ đó có những cảm nhận đúng đắn, sâu sắc về con người ấy. Chính nhân vật Thị Mầu đã góp phần làm nên sức sống cho vở chèo “Quan Âm Thị Kính” vẫn còn âm vang mãi tới ngày hôm nay.
Mẫu 9
Mỗi chúng ta khi sinh ra đời chúng ta không thể tự lựa chọn cha mẹ hay số phận cho chính mình được. Tạo hóa cho mỗi con người một số phận khác nhau. Có những người vừa sinh ra đã gặp nhiều may mắn hạnh phúc có ba mẹ yêu thương, sinh ra trong một gia đình giàu có sung túc. Ngược lại có những người vừa sinh ra đã thiệt thòi bởi hoàn cảnh của gia đình khó khăn, hoặc bị ba mẹ bỏ rơi không cha không mẹ, có những người sinh ra đã không được khỏe mạnh bằng chúng bạn của mình, thiệt thòi hơn các bạn rất nhiều. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào thì những con người chúng ta đều cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Có những người dù bị thiệt thòi trong cuộc sống nhưng họ không vì thế mà buông xuôi cuộc đời mình mà luôn cố gắng vươn lên trong cuộc sống để không thua kém bạn bè. Những con người đó thật sự là tấm gương sáng để cho chúng ta noi theo, thái độ sống tích cực của họ.
Trong xã hội của chúng ta còn nhiều con người chịu nhiều thiệt thòi đó họ không đầu hàng số phận không chấp nhận mình sẽ là gánh nặng của gia đình và xã hội họ cố gắng vươn lên trong cuộc sống của chính mình quả là một điều thật sự đáng ngưỡng mộ. Như thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí một con người đã chịu rất nhiều trong cuộc sống khi sinh ra đã bị liệt hai tay. Nhưng bằng nghị lực phi thường của mình thầy đã cố gắng học viết chữ bằng chân. Những ngày đầu tập viết những nét chữ viết bằng tay còn khó khăn thì những nét chữ bằng chân vô cùng khó. Nhưng thầy Nguyễn Ngọc Kí vẫn kiên nhẫn tập viết mỗi ngày để rồi thầy có thể theo đuổi sự nghiệp học hành của mình. Rồi thầy Nguyễn Ngọc Kí đã thi đỗ đại học rồi trở thành một thầy giáo. Một thầy giáo dạy giỏi viết chữ bằng chân. Đó chính là một nỗ lực phi thường của mỗi con người.
Những con người thiệt thòi, khi họ sinh ra đã không được lành lặn nhưng chính nhờ ý chí, nghị lực sống phi thường của mình mà họ đã vươn lên trở thành những con người thành đạt không hề thua kém những người lành lặn. Thậm chí, nhiều bạn trẻ khỏe mạnh lành lặn nhưng sự nỗ lực trong cuộc sống lại không. Họ để cho những thói hư tật xấu trong cuộc sống cám dỗ mình rồi trở thành những kẻ tội phạm gây ra những tội ác ghê rợn. Những bạn trẻ này thật sự là gánh nặng của xã hội, họ thật sự không biết tận dụng những lợi thế mà cuộc sống, tạo hóa đã ban tặng cho mình sống hoài sống phí tuổi trẻ tương lai của mình. Trong khi đó nhiều người vừa sinh ra do những ảnh hưởng của chất độc màu da cam, hoặc do tạo hóa nên khi vừa chào đời họ đã thiệt thòi, nhưng họ vẫn luôn sống có ích, có ước mơ hoài bão của mình.
Cái đáng quý nhất của mỗi con người này chính là nghị lực sống kiên cường, phi thường của họ. Dù cuộc sống có nhiều khắc nghiệt nhưng họ vẫn vươn lên trong cuộc sống với những ước mơ, hoài bão vô cùng lớn lao. Những con người này thường phải nỗ lực gấp hai, ba lần thậm chí mười lần so với người khỏe mạnh bình thường nhưng họ lại tạo ra những kỳ tích mà người khỏe mạnh bình thường cũng không làm được. Dù tạo hóa không công bằng với họ nhưng họ không trông chờ vào lòng từ bi, thương hại của người khác mà luôn chủ động trong cuộc sống của mình. Thậm chí họ còn tạo nên nhiều thành công khiến cho người khác phải nể phục. Họ sinh ra có thể thiếu đi một bộ phận nào đó trên cơ thể nhưng bằng bàn tay khối óc của mình họ đã kiên cường vươn lên trong cuộc sống. Họ quyết khẳng định vị trí của mình không làm gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Chính trái tim khối óc, ý chí của con người đã chiến thắng mọi thứ trong cuộc sống. Những con người có nghị lực sống thì không có khó khăn nào có thể làm họ gục ngã.
Mẫu 10
"Chỉ cần có ước mơ đủ lớn, ý chí sẽ đưa bạn đến thành công". Quả đúng là như vậy, khi bạn dám ước mơ, dám đặt ra mục tiêu lý tưởng cho mình thì chắc chắn ý chí sẽ là liều thuốc tiếp thêm sức mạnh để bạn chạm tay tới cánh cửa thành công. Sau khi học xong hai văn bản "Hê-ra-clét đi tìm táo vàng" và "Chiến thắng Mtao Mxây" đã cho ta thấy rằng sức mạnh ý chí đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi con người.
Ý chí không phải từ khi sinh ra chúng ta đã sở hữu nó mà ý chí được sinh ra trong quá trình chúng ta rèn luyện bản thân. Ý chí là nghị lực vươn lên trong cuộc sống, khi gặp khó khăn cũng không lùi bước, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành mục tiêu. Sức mạnh ý chí sẽ giúp cho con người vượt qua khó khăn một cách dễ dàng hơn và nhận được sự kính phục từ mọi người.
Người có sức mạnh ý chí là người luôn lạc quan trong cuộc sống, khi gặp khó khăn họ sẽ tìm cách để vượt qua chứ không chịu đầu hàng. Dẫu biết trên đời này không có ai là hoàn hảo nhưng chúng ta đều có thể cố gắng, trau dồi tri thức, làm đẹp cho bản thân để trở thành một phiên bản tốt nhất. Trong văn học, ta bắt gặp một Hê-ra-clét là người người phàm nhưng lại mang ý chí, sức mạnh phi thường. Sức mạnh ý chí chính là động lực giúp Hê-ra-clét chiến thắng các vị thần trong các cuộc giao đấu, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đem táo vàng về cho nhà vua. Bên cạnh đó, nhân vật Đăm Săn trong "Chiến thắng Mtao Mxây" cũng là người anh hùng mà chúng ta đáng ngưỡng mộ. Đăm Săn đã chiến đấu oanh liệt để cứu vợ khi bị Mtao Mxây bắt vợ và trở thành tù trưởng đáng kính của buôn làng. Không chỉ trong văn học, ở cuộc sống đời thường ta vẫn luôn bắt gặp những tấm gương có ý chí, nghị lực phi thường. Chắc hẳn mỗi chúng ta đều nhớ câu chuyện về người thầy Nguyễn Ngọc Ký. Thầy Nguyễn Ngọc Ký bị bại liệt cả hai tay nhưng bằng một sức mạnh phi thường thầy đã học viết bằng chân và trở thành một người thầy giáo đáng kính. Có lẽ, những khiếm khuyết trên cơ thể cũng không thể làm khó được thầy bởi thầy luôn nuôi trong mình một ngọn lửa tràn đầy nhiệt huyết, một ngọn lửa của ý chí vững vàng. Bởi vậy, sức mạnh ý chí có vai trò vô cùng to lớn và quan trọng trong việc khẳng định bản thân và sự thành công của mỗi người. Sức mạnh ý chí giúp con người sống có mục tiêu, hành động rõ ràng và luôn luôn biết cố gắng để đạt được mục tiêu. Sức mạnh ý chí còn giúp cho con người đứng vững trước những phong ba, bão táp của cuộc đời.
Bên cạnh những tấm gương về sức mạnh ý chí thì vẫn còn tồn tại một bộ phận nhỏ những người không nhận ra tầm quan trọng của sức mạnh ý chí. Thật đáng phê phán những người hèn nhát, dám nghĩ nhưng không dám làm, những người không có ý chí, nghị lực, thấy khó khăn đã vội nản chí, có lối sống ích kỉ và chỉ biết dựa dẫm vào người khác để đạt được mong muốn.
Để cho cuộc sống của chúng ta tươi đẹp hơn và để cho mỗi ngày trôi qua là một ngày ý nghĩa thì mỗi chúng ta cần trau dồi, rèn luyện bản thân để không bị gục ngã khi gặp khó khăn, thất bại. Bên cạnh đó, chúng ta cần chọn cho mình một thái độ sống tích cực, biết vươn lên để khẳng định chính mình.
Lời giải
Mẫu 1
Trước một tác phẩm truyện, mỗi người đọc có thể có những cảm nhận, quan điểm riêng biệt, những đánh giá khác nhau về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó, hoặc những cách lý giải khác nhau về một nhân vật, tình tiết truyện. Đến với bài nói ngày hôm nay tôi xin chia sẻ quan điểm của tôi trước ý kiến: Để hiểu đúng nhân vật Huấn Cao, có nhất thiết phải biết tường tận về Cao Bá Quát - một nhân vật lịch sử được Nguyễn Tuân chọn làm nguyên mẫu không?.
Trước hết tôi sẽ trình bày lí do vì sao tôi lựa chọn vấn đề này. Thứ nhất, vấn đề mối quan hệ giữa nguyên mẫu và nhân vật trong tác phẩm là một trong nhiều yếu tố cần phải quan tâm khi người đọc tiếp nhận tác phẩm. Liệu có nên đồng nhất nhân vật trong tác phẩm và nguyên mẫu ngoài đời không? Thứ hai, Nguyễn Tuân lựa chọn Cao Bá Quát làm nguyên mẫu xây dựng nhân vật Huấn Cao, vậy sự tương đồng và khác biệt khi hư cấu một nhân vật văn học nằm ở đâu? Liệu có cần phải biết tường tận về một nhân vật lịch sử để lý giải một nhân vật văn học không? Để trả lời các câu hỏi trên, tôi xin phép trình bày một số quan điểm của cá nhân tôi.
Tác phẩm “Chữ người tử tù’ nằm trong tập “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940 của Nguyễn Tuân. Xây dựng nhân vật Huấn Cao như một hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương, Nguyễn Tuân đã gửi gắm quan điểm nghệ thuật và nhân sinh sâu sắc qua nhân vật chính này. Huấn Cao hiện lên với tài viết chữ nổi tiếng, với khí phách hiên ngang - là tử tù nhưng rất ung dung, bình thản, thái độ đầy ngạo mạn và khinh bạc trả lời viên quản ngục, luôn bình thản, ung dung chờ đợi cái chết, không chịu khuất phục trước uy quyền; với thiên lương trong sáng, nhân cách cao đẹp - không tham quyền, hám lợi mà bán rẻ giá trị của mình, trọng nghĩa khí.
Chữ Cao trong tên của nhân vật gợi nhắc đến tên tuổi của một nhân vật có thật trong lịch sử - Cao Bá Quát, người cũng nổi tiếng với tài viết chữ đẹp. Dân gian có câu “thần Siêu thánh Quát” để ca ngợi hai con người có nét chữ xuất thần. Cao Bá Quát sống vào khoảng thế kỷ 19, là một nhà nho, nhà thơ lớn, “văn võ song toàn”; một vị quan thanh liêm, chính trực, bảo vệ quyền lợi cho dân, cũng là lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, từng bị triều đình bắt giam.
Giữa nhân vật trong “Chữ người tử từ” và nhân vật lịch sử có rất nhiều điểm tương đồng: đều là người có tài viết chữ đẹp, văn võ song toàn, có bản lĩnh, khí phách kiên cường, bất khuất, tính cách ngang tàn. Trong mắt triều đình, họ đều là tên giặc nguy hiểm đã nổi dậy khởi nghĩa, nhưng trong mắt nhân dân, họ là những anh hùng đã đứng lên bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Cả hai đều là những người tôn thờ cái đẹp, Cao Bá Quát chỉ cúi đầu trước nét đẹp thanh tao của hoa mai; Huấn Cao say mê thú chơi chữ tao nhã.
Nhưng giữa nhân vật lịch sử và nhân vật văn học vẫn có một khoảng cách xa, và nhà văn đã dùng tưởng tượng của bản thân để lấp đi khoảng cách đó. Trong tác phẩm “Chữ người tử tù”, Huấn Cao (người tử tù) hiện lên như một người nghệ sĩ sáng tạo cái đẹp qua cảnh ông cho chữ quản ngục. Ở một nơi toàn “phân gián, phân chuột”, mạng nhện giăng đầy, nền ẩm ướt... người cho chữ lại là người tử tù “tay đeo gông, chân vướng xiềng” nhưng tư thế cho chữ thì hiên ngang, lồng lộng. Tuy nhiên, nguyên mẫu trong thực tế - Cao Bá Quát, không được lưu truyền câu chuyện cho chữ nào. Mặc dù chữ của Cao Bá Quát rất đẹp, rất quý, nhưng thực tế không có cảnh cho chữ khuôn mẫu nào ở nhân vật này để Nguyễn Tuân tái hiện. Vì thế, cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” là một sáng tạo độc đáo. Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật quản ngục - một người kính nể, ngưỡng mộ Huấn Cao, biệt đãi Huấn Cao vì muốn được xin nét chữ quý. Nhưng trong lịch sử, trong suốt thời gian dài bị giam cầm, Cao Bá Quát thường chịu nhục hình tra tấn.
Từ con người đời thực là Cao Bá đến con người trong văn học Huấn Cao là một sự sáng tạo của Nguyễn Tuân, là sự bù đắp của nghệ thuật vào phần thiếu hụt của cuộc sống. Tìm hiểu thêm về Cao Bá Quát để thấu hiểu được một thời “vang bóng”, con người “vang bóng” mà Nguyễn Tuân tôn sùng là thời đại nào. Nhưng nếu rập khuôn nguyên mẫu vào nhân vật văn học, thì rất nhiều điểm chênh sẽ hiển lộ ra. Vì thế, tôi cho rằng khi tìm hiểu về Huấn Cao, có thể tìm hiểu về Cao Bá Quát, nhưng không nên áp đặt toàn bộ những tư liệu đó vào việc lý giải nhân vật.
Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Tôi rất vinh hạnh nếu được nghe chia sẻ của thầy cô về vấn đề mà tôi đang suy ngẫm, đồng thời rất sẵn lòng được cùng thảo luận những vấn đề khác mà thầy cô và các bạn đưa ra.
Mẫu 2
Chữ người tử tù là một truyện ngắn lãng mạn xuất sắc, tiêu biểu cho lý tưởng thẩm mĩ và phong cách nghệ thuật của ông.
Chữ người tử tù là một truyện ngắn gọn. Thế giới nhân vật ở đó cũng không nhiều. Thế nhưng nhân vật nào trong thiên truyện này cũng hiện lên thật sống động với số phận riêng, vẻ đẹp riêng. Vốn là người phóng túng, tài hoa, khinh bạc cái xã hội thối nát đương thời, Nguyễn Tuân đã say sưa, trân trọng khi xây dựng hình tượng người tử tù Huấn Cao.
Khi xây dựng hình tượng người tử tù Huấn Cao, Nguyễn Tuân dựa vào nhân vật lịch sử từng một thời vang bóng. Vậy ông đã tìm thấy những gì ở Cao Bá Quát - nguyên mẫu của hình tượng Huấn Cao? Cao Bá Quát nổi danh với văn hay chữ tốt, lại là người sống có lý tưởng, có bản lĩnh, bất chấp cường quyền. Trong lịch sử dân tộc ta, không thời đại nào vắng bóng anh hùng, nhưng kiểu anh hùng - nghệ sĩ như Cao Bá Quát không nhiều lắm. Cao Bá Quát vừa là một nhà nho uyên bác, vừa là một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa vừa là một cá tính tài hoa vừa là một nhân cách cứng cỏi. Vì thế, chúng ta hiểu vì sao trong sáng tác của Nguyễn Tuân cả trước và sau Cách mạng, Huấn Cao là một trong số không nhiều nhân vật mang vẻ đẹp rực rỡ, vẹn toàn nhất. Ở nguyên mẫu Cao Bá Quát, Nguyễn Tuân đã tập trung tô đậm những nét cao quý phù hợp với lý tưởng của mình và Huấn Cao là hiện thân lồng lộng của cái đẹp trong hoàn cảnh đen tối, tù túng thời đó.
Huấn Cao trước hết là một con người tài hoa khác thường. Mở đầu truyện ngắn, thông qua cuộc đối thoại bàn luận giữa quản ngục và thơ lại mà nhà văn giới thiệu với người đọc vẻ đẹp này của Huấn Cao. Ấy là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và đẹp. Người xưa thường treo trong nhà, nơi trang trọng nhất những bức họa quý, những hàng chữ đẹp viết trên lụa óng hoặc khắc trên gỗ phủ sơn mài. Ấy là tài thư pháp, là thú chơi chữ - một nét đẹp của truyền thống dân tộc... Bởi cảm cái tài viết chữ của Huấn Cao nên viên quản ngục có sở nguyện thiết tha: có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Trong tâm niệm của quản ngục có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời. Cái sở nguyện thầm kín, thiết tha trôi đi, ngày Huấn Cao bị hành hình mỗi lúc một gần.
Chữ ông Huấn Cao phải đẹp lắm, quý lắm thì viên quản ngục mới kiên trì, mới đối xử nhún nhường đến thế để mong được ông cho chữ. Mà đâu phải kiên trì, nhún nhường (ngay cả khi bị lạnh lùng đuổi ra), còn phải dũng cảm nữa. Biệt đãi một tên tử tù như thế rõ ràng là hành vi rất nguy hiểm. Hành vi này ắt phải trả giá rất đắt nếu bị bại lộ.
Người nghệ sĩ tài hoa Huấn Cao cũng là một con người có tâm đẹp. Nguyễn Du đã từng viết Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Chính cái tâm này khiến người đời càng nể trọng Huấn Cao, khiến viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin chữ. Có tài nhưng Huấn Cao đâu dễ phung phí! Chữ của ông vàng ngọc không mua được, quyền thế không ép buộc được. Cái tâm của một kẻ có tài thể hiện ở lòng tự trọng, ở chỗ biết giữ lấy, biết tiếc cho cái tài của mình, biết dùng cái tài đúng lúc, đúng chỗ.
Lòng tự trọng của Huấn Cao thể hiện rõ nhất qua ý thức giữ trọn thiên lương dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Khi viên quản ngục đánh bạo mở cửa buồng giam ông Huấn, ngỏ ý muốn biệt đãi ông miễn là ngài giữ kín cho, Huấn Cao chưa hiểu lòng tốt, thiên lương ở viên quản ngục khác thường này, cứ nghĩ y như trăm ngàn viên quản ngục tham lam, tàn nhẫn khác. Ông không muốn hưởng ơn huệ của người khác, nhất là lúc người ấy đang ở phía đối địch với mình. Cho đến khi cất lên những lời truyền dạy, khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục, Huấn Cao vẫn muốn người này giữ thiên lương cho lành vững, đừng để nhem nhuốc mất cái đời thiên lương đi.
Là người từng lãnh đạo nông dân tỉnh Sơn khởi nghĩa chống lại triều đình để rồi lãnh án tử hình, là kẻ cầm đầu bọn phản nghịch, Huấn Cao còn nêu cao vẻ đẹp của khí phách cứng cỏi, của tinh thần dũng cảm, thái độ coi thường cái chết. Ngay từ những giờ phút đầu tiên xuất hiện ở trại giam tỉnh Sơn, Huấn Cao đã tỏ rõ khí phách của mình bằng hành động rỗ gông. Bất chấp lời dọa đùa của tên lính áp giải, người đứng đầu cái gông bằng thang gỗ lim nặng dễ đến bảy, tám tạ ấy đã lạnh lùng khom mình thúc mạnh đầu gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái khiến một trận mưa rệp rơi xuống. Cũng người ấy ngồi đợi ngày chết chém mà không hề tỏ ra nao núng, vẫn ung dung đường hoàng... Cũng người ấy cố ý làm ra khinh bạc đến điều đối với viên quản ngục... Lại đến khi nhận được tin sáng sớm ngày mai sẽ bị giải về kinh để lĩnh án tử, người ấy chỉ lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười. Huấn Cao quên việc cái chết đang đến gần mà chỉ lo làm sao đền đáp tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục.
Từ bước ngoặt trong cốt truyện để đi đến cảnh cho chữ trong nhà giam cuối truyện ngắn, ta thấy hiện lên vẻ đẹp của một tấm lòng trọng nghĩa, của một người ứng xử cao thượng, đầy tinh thần văn hóa. Những bậc anh hùng - nghĩa sĩ thời xưa bao giờ cũng coi trọng đạo nghĩa. Vì chữ nghĩa, vì ân trả oán đền mà họ sẵn sàng hi sinh thậm chí cả tính mạng của mình. Khi chưa nhận ra lòng tốt của viên quản ngục, Huấn Cao không thèm chấp, lạnh lùng, cứng rắn. Song lúc chợt hiểu được đây là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ thì ông tìm mọi cách để báo đáp. Cao Bá Quát đã từng viết: Nhất sinh đê thủ bái lĩnh mai (Suốt đời chỉ biết cúi lạy trước hoa mai). Huấn Cao - con người suốt đời ngẩng cao đầu trước cường quyền, bạo lực ấy đã biết cúi đầu trước vẻ đẹp của một tấm lòng biệt nhỡn liên tài, một nhân cách. Con người không hề sợ gông cùm, tiền bạc ấy đã biết sợ phụ một tấm lòng trong thiên hạ: Ta cảm cái lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ. Chính Huấn Cao đã chủ động vạch ra kê hoạch cho chữ.
Ngòi bút của Nguyễn Tuân thật giàu tính tạo hình và đầy chất thơ khi dựng lên một cảnh tượng xưa nay chưa từng có ở cuối truyện ngắn. Bút pháp nghệ thuật đối lập được nhà văn vận dụng triệt để trong cảnh này. Trong cảnh cho chữ hiện lên sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, giữa hành động và hoàn cảnh, giữa sức mạnh tinh thần, bản lĩnh con người và vóc dáng ngoại hình, giữa cái đẹp, cái cao thượng và cái xấu, cái ác. Hoàn cảnh, địa điểm cho chữ xưa nay chưa từng có: bày ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy màng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu khiến khói tỏa như đám cháy nhà; tư thế của người cho chữ, nhận chữ xưa nay chưa từng có: Huấn Cao cho chữ trong đêm cuối cùng của cuộc đời, vẫn một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, viên quản ngục thì cẩn trọng, khúm núm, thầy thơ lại gầy gò thì run run bưng chậu mực. Giờ đây, Huân Cao trở lại cương vị người cho chữ, người truyền giáo; viên quản ngục ở vị trí người nhận chữ, được đáp ứng sở nguyện thiết tha của mình bấy lâu nay. Không có kẻ phạm tội, không có cai ngục, thơ lại. Chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước những đôi mắt sùng kính, ngưỡng mộ của những kẻ liên tài.
Tất cả đều sống động trong ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, của thiên lương và khí phách. Sự gặp gỡ kì lạ giữa ba tấm lòng ấy khiến cho nơi buồng giam nhơ bẩn, giữa chốn ngục tù tàn bạo ngời sáng lên một sức mạnh của nhân cách cao cả, của tài hoa, của cái đẹp. Với cảnh cho chữ, kẻ tử tù Huấn Cao đã đi vào bất tử.
Qua những phân tích trên, có thể không ngần ngại khẳng định rằng Huấn Cao là một trong những hình tượng nhân vật đẹp nhất của sự nghiệp văn học Nguyễn Tuân. Hình tượng này thể hiện khá đầy đủ đặc sắc tư tưởng thẩm mĩ và phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Mẫu 3
Nét nối bật đầu tiên trong tư tưởng thẩm mĩ Nguyễn Tuân qua việc xây dựng hình tượng Huấn Cao là lòng yêu quý truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Khi mượn lời viên quản ngục, người thơ lại khi miêu tả trực tiếp, Nguyễn Tuân không hề giấu giếm niềm say sưa, thán phục trước cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp của Huấn Cao. Phải phục cái tài ấy đến mức nào, phải thiết tha ánh sáng của chủ nghĩa đến đâu thì viên quản ngục mới cam lòng, nhẫn nhục đến như thế. Qua cuộc gặp gỡ khác thường giữa Huấn Cao và viên quản ngục để đi đến cảnh tượng cho chữ xưa nay chưa từng có. Chữ người tử tù nêu lên bài học về thái độ tôn trọng tài năng, phẩm giá ở con người. Tấm lòng biệt nhỡn liên tài này chính là biểu hiện sâu sắc của chủ nghĩa nhân đạo đã trở thành truyền thống trong lịch sử văn học dân tộc.
Tài phải gắn cùng tâm. Chữ nghĩa đâu phải là chỉ là chuyện chữ nghĩa mà chính là chuyện của nhân cách, thiên lương. Qua truyện ngắn này, Nguyễn Tuân đã nêu lên một quan niệm về vẻ đẹp con người, đặc biệt trong những hoàn cảnh đen tối. Tiêu chuẩn để xứng đáng với danh hiệu con người mà Nguyễn Tuân dựa vào là thiên lương. Huấn Cao là một bậc anh hùng tài hoa và có thiên lương. Viên quản ngục là người ở môi trường đen tối, làm nghề nghiệp tàn nhẫn nhưng biết trọng tài, biết quý giữ thiên lương. Ấy là kẻ đại diện cho bạo lực đen tối nhưng lại khát khao ánh sáng của chữ nghĩa. Huấn Cao và viên quản ngục càng đẹp lên trong cách ứng xử với nhau đầy văn hóa. Từ cuộc gặp gỡ khác thường giữa hai con người khác thường này, Nguyễn Tuân đã đặt ra vấn đề sức sống của tài năng, của nhân cách con người trước hoàn cảnh khắc nghiệt, thể hiện khát vọng được giữ gìn và phát huy trọn vẹn tài năng, nhân cách cao cả ấy. Kết thúc tác phẩm là sự chiến thắng của tài năng, của nhân cách người tử tù, là tác dụng cải biến con người, nhân lên gấp bội cái phần thiên lương ở con người từ hành động nghĩa hiệp, cao thượng của Huấn Cao.
Huấn Cao chết nhưng chữ của Huấn Cao còn, những hành động và lời dạy của Huấn Cao đã cảm hóa được quản ngục. Qua lời truyền dạy thiêng liêng của Huấn Cao khi cho chừ, Nguyễn Tuân như muôn khẳng định rằng cái đẹp, cái thiên lương không thể bị đày ải mãi giữa đống cặn bã, ánh sáng của chữ nghĩa và thiên lương ở con người đừng nên để nhem nhuốc mất mà phải tìm môi trường trong sáng cho nó tồn tại. Chuyện chơi chữ chính là chuyện nhân cách, chuyện lẽ sống.
Có thể nói Chữ người tử tù là một bài ca bi tráng về sự bất diệt của thiên lương, của tài năng và nhân cách cao cả ở con người. Những con người đáng kính Nguyễn Tuân say sưa ca ngợi ở đây như những ngọn lửa sáng trong đêm tối mông lung. Những ngọn lửa ấy có sức lan tỏa chiếu sáng cho nhiều đời sau.
Mẫu 4
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, người nghệ sỹ suốt đời đi tìm cái đẹp. Với kho kiến thức uyên bác và phong cách độc đáo, Nguyễn Tuân đã đưa thể loại truyện ngắn và tùy bút ở Việt Nam lên một nấc thang mới. Một trong những sáng tác tiêu biểu của nguyễn Tuân là tác phẩm “Chữ người tử tù”. Chữ người tử tù được xem là tác phẩm thành công nhất của tập Vang bong một thời”. Trong đó nổi bật lên hình tượng nhân vật Huấn Cao, một con người có đủ tài hoa khí phách và thiên lương.
Huấn Cao là một người anh hùng đã lãnh đạo nhân dân chống lại triều đình. Cuộc khởi nghĩa bị thất bại, Huấn Cao bị kết án tử hình. Trong lúc đang đợi ngày ra pháp trường, ông được đưa đến giam giữ ở một nhà ngục của tỉnh Sơn. Đọc tác phẩm người đọc thấy hình tượng nhân vật Huấn Cao như mang bong dáng của người anh hùng Cao Bá Quát.
Cao Bá Quát sống vào thế kỷ XIX là người anh hùng của dân tộc, là lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân ở Mĩ Lương năm xưa. Ông cũng được xem là nhà thư pháp lừng danh một thời, một nhân cách thanh cao cả đời chỉ biết cúi đầu trước hoa mai.
Vì có nhiều điểm tương đồng như thế, nên có thể nói Huấn Cao đã được xây dựng từ nguyên mẫu có thật trong lịch sử là người anh hùng Cao Bá Quát. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã đi vào trang văn một cách tự nhiên và trở nên lung linh tỏa sáng.
Huấn cao là một con người văn võ toàn tài nhưng ở đây chúng ta chỉ đi sâu vào khía cạnh tài hoa nghệ sĩ của nhân vật. Ông là một nhà thư pháp lừng danh.Huấn Cao là người có tài viết chữ rất nhanh và đẹp.Chữ Hán là chữ tượng hình hệ ô vuông ,người học chữ Hán phải nhớ được mặt chữ mới viết được. Vì là chữ tượng hình nên ẩn sâu trong chữ không chỉ là ý nghĩa mà còn là quan niệm về văn hóa, về triết lí nhân sinh, nó thể hiện mơ ước, khát vọng của người chơi chữ. Như vậy để viết được chữ Hán thì người viết phải có học vấn uyên bác.
Vì là chữ tượng hình nên người viết phải thể hiện tài năng nghệ thuật,tài năng nghệ sĩ. Chữ thư pháp có bốn kiểu chính là trân,triện,thảo,lệ. Người viết chữ thư pháp có thể đẹp được là vô cùng khó. Chữ thư pháp mà đẹp nhìn vào sẽ giống như một bức tranh. Khi đó người viết chữ là nghệ sĩ . Người nghệ sĩ ấy mỗi lần cầm bút là một lần sáng tạo. Khả năng viết chữ của Huấn Cao đã được tôn vinh là nhà thư pháp tiếng tăm lừng lẫy.
Tài năng khác thường lí tưởng: Huấn Cao mới chỉ viết chữ có 3 lần để dành tặng cho ba người tri kỉ. Vậy mà tài thư pháp của ông đã nổi tiếng khắp vùng Tỉnh Sơn,bay vào tận chốn thâm sâu tăm tối,nơi tù ngục,nơi mà chỉ có cái ác,cái xấu ngự trị vậy mà chữ của ông đã khiến cho con người nơi đây phải ngưỡng mộ.Thế thì có thể nói chữ của Huấn Cao đẹp lắm.Huấn Cao viết chữ đẹp đến mức đã khiến cho quản ngục, một người đối lập với ông về mặt xã hội đã phải ao ước có được:” Ngay từ khi mới biết đọc vỡ chữ nghĩa chữ thánh hiền,quản ngục đã có một ao ước là một ngày được treo ở trong nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Như vậy, vẻ đẹp con chữ của Huấn Cao đã trở thành sở nguyện suất đời của viên quản ngục.Qua cách đánh giá của viên quản ngục, chữ của Huấn Cao được coi như vật báu trên đời:” Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm. Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”. Qua những nhận xét trên của Quản Ngục cho thấy chữ của Huấn Cao đã trở thành sở nguyện mà giá trị của nó còn được vật chất hóa như vật báu ở đời.Để có được chữ của Huấn Cao, Quản ngục đã phải hạ mình, không chỉ thế quản ngục đã biệt đãi với Huấn Cao. Quan coi ngục mà lại đi cung kính biệt đãi tử tù thì đó là chuyện không bình thường, lại phạm vào điều cấm kị của triều đình, việc làm ấy nếu bị triều đình phát giác thì rất có thể phải trả giá bằng tính mạng. Quản ngục đường đường là viên quan triều đình, ông ta chắc hẳn phải hiểu điều đó hơn ai hết. Vậy mà để có được chữ cảu Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng chấp nhận sự thiệt thòi về mình, sắn sàng bất chấp cả tính mạng.
*Qua phân tích trên có thể thấy rằng tài năng thư pháp của Huấn Cao đã đạt tới cảnh giới khác thường lí tưởng.
-Huấn Cao là người có khí phách:
+ Trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhà thơ đã xây dựng nhân vật Từ Hải thật hào hùng, đó là một con người, một anh hùng chói lọi “Đội trời đạp đất ở đời …Chọc trời khuấy nước mặc dầu/Dọc ngang nào hết trên đầu có ai”. Nhưng đến khi bị Hồ Tôn Hiến đánh lừa thì “ Hùm thiêng mức sa cơ cũng hèn”.Có thể nói Huấn Cao ở đây là một trang anh hùng với hoài bão tung hoành ở đời. Mộng lớn không thành, ông cũng rơi vào tình thể hổ sa cơ nhưng con người ấy vẫn dữ được cốt cách khí phách hiên ngang của mình. Khi đến nhà lao của quản ngục , Huấn Cao quay lại bảo với các bạn mình: “Dệt cắn tôi,đỏ cả cổ lên rồi.Phải dỗ gông đi”. Khi năm người thì sáu người đồng loạt theo lời Huấn Cao thực hiện dỗ gông thì bị tên lính áp giải bỡn cợt dọa nạt. Đứng dậy. Không ông lại phết cho mấy cái hòe bây giờ”. Trước sự dọa nạt đó”Huấn Cao lạnh lùng,trúc mũi gông nặng,khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống nền đá tảng,đánh thuỳnh một cái”Sự lạnh lùng của Huấn Cao ấy cho thấy khí phách hiên ngang ,không sợ cường quyền.Ông sẵn sàng bỏ ngoài tai những lời nói của kẻ tiểu nhân đang thị oai. Hành động ấy chứng tỏ khí phách của một tử tù mà vẫn hiên ngang thách đố ngục tù.
-Huấn Cao là người ung dung làm chủ ngục tù
+ Lẽ thường trong cuộc sông nếu một người rơi vào hoàn cảnh của Huấn Cao , một tử tù đang chờ ngày lên đoạn đầu đài thì hẳn sẽ cảm thấy vô cùng buồn,dễ rơi vào tình cảnh lo lắng run sợ.Thế mà ở đây , khi nhận được rượu thịt, Huấn cao vẫn ung dung thưởng thức “Coi đó như một việc làm trong cái hứng sinh bình” của mình. Nói như nhà thơ, nhà giáo Phan Bội Châu thì nhà tù chỉ là nơi để nghỉ ngơi mà thôi”Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”. Phải chăng khí phách đó cũng chính là khi phách của Huấn Cao ở đây?
+ Một tử tù mà được quản ngục vào thăm thì thường sẽ cảm thấy vô cùng vinh dự hoặc vô cùng sợ sệt bởi đó là người nắm quyền sinh quyền sát ,nắm tính mạng của mình trong tay. Huấn cao nghĩ,quản ngục có thể là một kẻ tiểu nhân,hắn sẵn sàng dùng mọi mánh khóe nhà lao để tra tấn ,hành hạ ông khi ông tỏ ý bất phục .Vậy mà ông vẫn thẳng thừng đuổi quản ngục ra khỏi nhà giam”Ngươi hỏi ta muốn gì ,ta chỉ muốn một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Khi nói như vậy , Huấn Cao đã sẵn sàng chờ đợi một trận mưa đòn từ cơn thịnh nộ của quản ngục . Nhưng con người này đến cảnh chết chém còn không sợ, huống chi là cái trò tiểu nhân diễu võ dương oai.
+ Đêm cuối trước ngày ra pháp trường trong tư thể cổ đeo gông chân vướng xiềng , vậy mà Huấn Cao vẫn ung dung điểm tô bức thư pháp. Đó là những con chữ thể hiện hoài bão tung hoành ở đời mỗi người: Ngày hôm sau lên đoạn đầu đài, vậy mà ông vẫn ung dung dành cái đêm của cuộc đời mình, dành những thời khắc cuối cùng ấy để ung dung sáng tạo vẻ đep cho đời. Huấn Cao giống như một ngôi sao băng trước khi từ biệt vũ trụ vẫn để lại một vệt sáng cho đời, một luồng ánh sáng rạng rỡ tuyệt vời.
4. Vẻ đẹp thiên lương
– Thiên lương là bản tính lương thiện được trời phú bẩm ngay từ khi mới sinh ra.
– Bản thân Huấn Cao là người có thiên lương
+ Không màng danh lợi: Huấn Cao là người có tài, ông hoàn toàn có quyền dùng tài năng ấy để phục vụ lợi ích cho mình, để tạo dựng cho mình có một cuộc sống sung túc đủ đầy. Song Huấn Cao lại là con người chính trực, không ham danh lợi: “Ta nhất dinh không vì vàng bạc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Ông là người có tài tạo ra cái đẹp nhưng ông chỉ tặng cái đẹp của mình chứ không đánh đổi, không mua bán. Và ông chỉ tặng cái đẹp ấy cho những người tri kỉ, những người biết trân trọng cái đẹp. Cả đời sông mới chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn tri kỉ. Qua đây cho thấy ông là người không ham danh lợi.
+ Huấn Cao là con người kiêu bạc, tính ông vốn”Khoảnh” nhưng lại rất dễ mềm lòng trước những tấm lòng . Khi chưa hiểu về quản ngục thì tỏ ra khinh bạc đếm điều không cần giấu giếm nhưng đến khi hiểu về quản ngục, biết về cái sở thích cao quý của quản ngục thì thái độ Huấn Cao đã thay đổi hoàn toàn. Huấn Cao biết mình có lỗi đã công khai nhận lỗi, biết nhận lỗi là biểu hiện của người có lòng tự trọng. Một nhân cách thanh cao “Nào ta có biết đâu,một người như thầy quản đây lại có sở thích cao quý vậy. Thiếu chút nữa ta đã mất đi một tấm lòng thiên hạ”. Không chỉ nhận lỗi qua lời nói,Huấn cao còn sữa lỗi qua hành động . Đêm hôm đó,Huấn cao đã dành cả đêm tâm huyết của mình, dành cả thời khắc cuối cùng của đời mình để viết bức thư pháp dành tặng quản ngục. Nghĩa là Huấn cao là một con người có thiên lương tự tỏa sáng.
phantichhinhtuongnhanvathuancao
Cảnh Huấn Cao cho chữ Quản Ngọc
-Huấn cao muốn người khác cũng bừng sáng thiên lương
+ Khi Huấn Cao cho chữ quản ngục, ông đã khuyên bảo quản ngục, cho chữ quản ngục. Qua đó người đọc thấy được Huấn Cao mong muốn quản ngục từ bỏ chốn quan trường nghĩa là tránh xa cái nơi con người ta sống “Bằng lừa lọc ,bằng tàn nhẫn”là từ bỏ chốn bàn nhơ để về chốn thanh cao. Để giữ thiên lương cho lành vững. Điều đó cho thấy Huấn cao mong muốn quản ngục có thể giữ được bản tính lương thiện của mình ,làm tiền đề cho việc thưởng thức cái đẹp,thưởng thức thú chơi chữ đẹp. Qua lời khuyên ấy, quản ngục đã được Huấn Cao cảm hóa,quản ngục đã bái lính di huấn tinh thần của Huấn Cao ,quản ngục đã được khai sáng thiên lương.
+ Huấn Cao lãnh đạo nhân dân chống lại triều đình là thể hiện khát vọng đem lại cuộc sống ấm no thái bình, hạnh phúc hơn cho nhân dân. Khi cuộc sống đã ấm lo, thì đạo đức con người cũng thực hiện tốt hơn. Huấn Cao không chỉ muốn bản thân mình hay những tri kỉ của mình mà ông còn muốn tất cả mọi người đều bừng sáng thiên lương.
5. Ý nghĩa hình tượng nhân vật Huấn Cao.
– Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao nhà văn Nguyễn Tuân đã thể hiện quan niệm của mình về cái đẹp. Với Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ xuất đời đi tìm cái đẹp, thì cái đẹp phải gắn liền với cái tài, và cái tài phải đi đôi với cái thiện. Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhà văn cũng thể hiện phong cách nghệ thuật của mình đó là khi tiếp cận, thể hiện về con người,nhà văn thường nhìn nhận đánh giá đối tượng ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.
– Thông qua nhân vật Huấn Cao,nhà văn Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng tha thiết. Huấn Cao mang bóng dáng của người anh hùng Cao Bá Quát trong lịch sử dân tộc. Ca ngợi Huấn Cao là ca ngợi người anh hùng đất nước Ca ngợi những con người ưu tú của đất nước,chính là biểu hiện tấm lòng yêu nước. Hơn nữa khi viết Chữ người tử tù, nhà văn Nguyễn Tuân đã viết về thú chơi chữ đẹp và sự đam mê chữ đẹp của quản ngục. Điều đó có nghĩa là nhà văn Nguyễn Tuân đã ca ngợi thú chơi chữ đẹp cũng tức là đã ca ngợi nghệ thuật thư pháp, ca ngợi nét đẹp văn hóa của dân tộc. Vì thế có thể nói rằng với Chữ người tử tù nhà văn đã thể hiện tấm long nâng niu và gìn giữ phát huy nét đẹp văn hóa trong truyền thống của dân tộc. Đây chính là biểu hiện của tấm long yêu nước thầm kín mà tha thiết cở nhà văn Nguyên Tuân.
KL
Qua từng nét bút phác họa của Nguyễn Tuân, nhân vật Huấn Cao hiện lên rõ nét, oai phong và đĩnh đạc đã khiến cho người đọc không khỏi khâm phục và thêm phần quý trọng. Để làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo là cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục và thầy thơ lại. Đó là cuộc gặp gỡ của tử tù với cai ngục nhưng cũng là cuộc hội ngộ của những kẻ “liên tài tri kỉ”. Để miêu tả Huấn Cao cũng như làm nổi bật sự chiến thắng của cái tài cái đẹp cái tâm và khí phách ngang tàng, Nguyễn Tuân đã sử dụng triệt để sức mạnh của thủ pháp tương phản, đối lập. Đó là sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái đẹp cái cao cả với cái phàm tục dơ bẩn, giữa sự cho chữ và hoàn cảnh cho chữ… Ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân cũng rất giàu chất tạo hình. Ông sử dụng nhiều từ hán việt, lời ăn tiếng nói mang khẩu khí của những bậc trượng phu xưa để làm tăng thêm vẻ đẹp của một thời vang bóng ở hình tượng Huấn Cao. Có thể nói, thành công trong tác phẩm “Chữ người tử tù” là việc xây dựng nhân vật Huấn Cao tài năng, nhân cách trong sáng và khí phách hơn người. Sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp, cái tâm trước cái phàm tục, dơ bẩn của khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ đã cho thấy lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn và ý nghĩa tư tưởng nhân sinh sâu sắc của hình tượng.
Mẫu 5
Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật luôn vươn tới cái Chân - Thiện - Mỹ - văn học là một trong bảy loại hình nghệ thuật, phản ánh cuộc sống, xây dựng hình tượng nghệ thuật bằng ngôn từ cũng không nằm ngoài sự phản ánh ba tiêu chí trên. Muốn như vậy, văn học phải gắn với hiện thực xây dựng, phản ánh trung thực cuộc sống nhưng không phải là sự sao chép y nguyên mà phải có sự nhào nặn, hư cấu để làm rõ tính cách của nhân vật và tư tưởng của tác giả kí thác vào tác phẩm đó. Đây cũng là đặc trưng của văn học. Đặc trưng này đã giúp các nhà văn thế giới nói chung và nhà văn Việt Nam nói riêng có rất nhiều thành công trong lĩnh vực xây dựng nhân vật văn học từ nguyên mẫu cuộc sống: M. Gorky, Anh, Đức, Nguyên Ngọc … trong bài viết này tôi đề cập tới một nhân vật yêu cái Đẹp mang cái Tài, cái Tâm - Thiên Lương cao cả - kẻ tử tù nhưng mãi sống trong lòng người đọc đó là nhân vật Huấn Cao trong văn phẩm “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyên Tuân được xây dựng từ nguyên mẫu danh Nho Cao Bá Quát thế kỷ XVIII.
Nguyên mẫu và nhân vật văn học có những đặc điểm chung tương đồng - nguyên mẫu là cơ sở, là nền tảng, chất liệu để người nghệ sĩ bằng tài năng nghệ thuật của mình, bằng bàn tay và khói óc tạo nên cho mình một tác phẩm hình tượng nghệ thuật riêng. Bằng ngôn ngữ của riêng mình làm cho đứa con tinh thần của mình có sức sống mãnh liệt. Tuy nhiên, nguyên mẫu và nhân vật văn học cũng có điểm khác nhau: Có nhiều điểm ở nguyên mẫu có nhưng không thể đưa vào nhân vật văn học được bởi vì lý do và có những chi tiết có ở nhân vật văn học lại không tìm thấy ở nguyên nhân. Điều này, thể hiện nghệ thuật hư cấu tưởng tượng trong trang viết của tác giả. Sự hư cấu nhằm làm cho nhân vật của tác giả trở thành chỉnh thể nghệ thuật, chân lý, thước đo thẩm mỹ trong văn học và làm cho con người thực trở nên hoàn mỹ hơn. Do vậy, yếu tố nguyên mẫu cuộc sống và yếu tố hư cấu văn học có mối quan hệ khăng khít nhau, bổ sung cho nhau tạo nên vẻ đẹp cuộc sống.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân - nhà văn duy mĩ lại lấy nguyên mẫu Cao Bá Quát để tạc nên một Huấn Cao vừa yêu cái Đẹp lại có cái Tài và cái Tâm. Bởi nhà văn có thể xây dựng nhân vật của mình bằng cách không dựa vào nguyên mẫu mà có thể tổng hợp từ nhiều con người trong đời sống để xây dựng nền nhân vật điển hình cho các tiêu chí nghệ thuật đề ra và cái Tài của Nguyễn Tuân có thể giúp ông thành công rực rỡ ở sự sáng tạo tưởng tượng ấy. Nhưng ở đây Nguyễn Tuân đang giúp chúng ta tìm về cội nguồn của cái Đẹp xuất phát từ những con người có khí phách trong hiện thực cuộc sống. Bằng sự sáng tạo tưởng tượng của mình ông đã cung cấp cho độc giả thấy được mối quan hệ sâu sắc của yếu tố nguyên mẫu với yếu tố hư cấu của nhân vật cho ta thấy được bóng dáng thật, con người thật Cao Bá Quát qua nhân vật Huấn Cao đồng thời làm cho hình tượng Huấn Cao trở nên sinh động hơn, thật hơn và bản chất của ông nổi rõ hơn, đời sống được tập trung hơn.
Thâm nhập vào tác phẩm, ta mới từng bước khám phá ra cái tài của Nguyễn Tuân trong việc xây dựng nhân vật từ nguyên mẫu. Tất nhiên một người như Nguyễn Tuân không có chuyện bê nguyên Cao Bá Quát đặt vào “Chữ người tử tù” mà ông đã phải lọc đi và pha vào một số “dung môi” chi tiết khác để tạo nên một Huấn Cao của riêng mình.
Sự thành công trong việc xây dựng nhân vật Huấn Cao của Nguyễn Tuân, là sự bù đắp của nghệ thuật vào phần thiếu hụt của cuộc sống nó làm cho Huấn Cao sống mãi trong lòng người đọc và cũng sáng mãi danh Nho Cao Bá Quát - Bản thân, việc làm tài nhân của Cao Bá Quát khiến nhân dân tôn thờ ngày càng ngày từ trong cuộc đời thường - một con người thực giữa cuộc đời giờ lại được hóa thân vào văn học - loại hình nghệ thuật ngôn từ xây dựng một tượng đài Cao Bá Quát bằng đặc trưng riêng của mình. Cuộc sống và nghệ thuật cách nhau không xa nên người ta biết sử dụng và chế tác tư liệu sống dựa vào nghệ thuật.
Từ con người của đời thực Cao Bá Quát đến con người trong văn học Huấn Cao là cả một sự nhào nặn, sáng tạo ngth của Nguyễn Tuân. Phải chăng Nguyễn Tuân có tình cảm vô cùng sâu đậm, tôn kính Cao Bá Quát thì mới vận bút lực của mình để xây dựng nên Huấn Cao - con người vừa có cái Đẹp, vừa có cái Tài, cái Thiên Lương cao cả? Sáng tạo nhân vật Huấn Cao từ Cao Bá Quát là Nguyễn Tuân đang trở về tìm lại cội nguồn của cái Đẹp nay chỉ còn trong quá vãng, đồng thời ông muốn kí thác tâm sự, tư tưởng tình cảm của mình đối với một vị danh nho ở thế kỷ XVIII qua nhân vật của mình. Có thể nói đây là quà tinh thần mà Nguyễn Tuân thay mặt lớp hậu thế dâng lên trước vong linh Cao Bá Quát - con người trượng nghĩa.
154 Đánh giá
50%
40%
0%
0%
0%