Bộ 10 đề thi giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Cánh diều có đáp án - Đề 8
5 người thi tuần này 4.6 12.9 K lượt thi 6 câu hỏi
🔥 Đề thi HOT:
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 4)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 3)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 2)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 5)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Cánh diều có đáp án (Đề 2)
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 12 Cánh diều có đáp án - Đề 7
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 4)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 2)
Nội dung liên quan:
Danh sách câu hỏi:
Đoạn văn 1
Phần 1: Đọc hiểu (5,0 điểm)
Đọc đoạn ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi:
Chị không thể nhớ được, mình đã đưa người đàn ông ấy qua lại trên cái bến sông này bao nhiều lần rồi. Đó là người đàn ông có dáng cao to, khuôn mặt khá đẹp và trông rất phúc hậu nhưng bị cụt mất một chân, cụt phải đến sát về. Hằng năm, đều đặn, cứ vào mùa hè thì anh từ thành phố về và lại nhích từng bước khó nhọc cùng với cây nạng gỗ, bước xuống cái dốc thoai thoải trước khi nhờ chị giúp đỡ để lên thuyền.
Chị nhớ, hình như lần đầu anh chưa quen, mà ngày hôm trước trời lại mưa, con dốc ở bến sông hơi trơn, cây nạng gỗ không chống đỡ nổi và anh đã trượt chân, người lăn dài xuống tận mép nước, làm chiếc áo dính đầy bùn đất. Chị đã giúp anh gột hết bùn trên áo rồi đưa anh sang sông.
Họ làm quen từ đó và được biết anh vốn là bộ đội hồi chiến tranh, có giai đoạn đã chiến đấu tại quê của chị. Theo anh kể, ngày xưa, anh có yêu một người con gái là một nữ du kích xã. Hai người đã hứa với nhau, ngày hoà bình sẽ tìm đến nhau để thành vợ thành chồng. Dù bị mất một chân ở chiến trường, nhưng cuối năm một chín bảy lăm, khi đất nước thống nhất mới được vài tháng, anh đã tìm đến chốn xưa. Song, cô gái không còn nữa, trên bàn thờ chị chỉ còn chiếc lược bằng mảnh xác máy bay do anh tự tay làm lấy và tặng chị năm nào. Rồi anh bùi ngùi ra đi, và sau đó, khi có gia đình cũng như việc làm dưới thành phố, thỉnh thoảng vài năm đúng vào mùa hè, anh lại tìm về để thắp hương cho chị.
Đàn bà đôi lúc bực bội, cho rằng đàn ông thường bội bạc. Người phụ nữ lái đò không tin điều đó. Chị biết có rất nhiều người tốt, và anh là một trong những người như thế. Chị tin chồng chị cũng như thế.
Ngày ngày, ngồi trên chiếc thuyền nhỏ đưa khách sang sông, chị hay nhìn lên con dốc. Chị ước gì một ngày nào đó chồng chị sẽ xuất hiện, dù anh có cụt tay, cụt chân đi nữa cũng không sao, chỉ cần anh trở về. Chị sẽ chạy vụt tới ôm chầm lấy anh.
Chồng chị vốn là nông dân nhưng cũng có thân hình cao lớn như người khách kia, chỉ tội da đen hơn. Ngày xưa anh cũng là du kích, sau đó được rút lên bộ đội chủ lực của tỉnh. Chị và hai đứa con bị địch bắt vào khu đồn cho đến ngày chiến tranh kết thúc. Chị và hai đứa con đã chờ, song chung quanh, làng trên, xóm dưới các gia đình có người ra trận đã về. Riêng gia đình chị thì không. Ai cũng trả lời chị là anh bị mất tích trong một trận ở tận vùng Giấy báo tử, bằng Tổ quốc ghi công đã được gửi về. Nhưng chị không tin anh chết. Theo chi mất tích không hẳn là chết, vì nếu đã chết thì thế nào anh cũng báo mộng cho chị hoặc cho hai con.
Từ ngày gặp anh thương binh cụt chân, ở chị, niềm tin chồng mình sẽ về càng lớn hơn. Anh ấy đã nói với chị rằng, nếu còn sống chồng chị nhất định sẽ tìm về. Rồi có lần anh còn lấy bút ra, ghi tên tuổi của chồng chị và hứa về thành phố sẽ nhờ các cơ quan tìm giúp. Chị biết anh nói thật và chờ...
Thời gian trôi đi, hai đứa con của chị đã lớn, đã lấy vợ, lấy chồng. Tóc chị đã bạc. Tóc của người thương binh thỉnh thoảng đi nhờ đò của chị cũng bắt đầu nhuốm bạc.
Nhưng hai năm nay, không rõ vì lí do gì, người thương binh chưa trở lại. Tin về chồng chị, vẫn vậy, vẫn chưa có,
Chiều nay đang mùa hè nhưng trời lại đổ mưa dầm. Thụng thịnh trong chiếc áo tơi, ngồi ở đầu thuyền chờ khách, lòng chị bỗng rộn lên niềm vui. Trên con dốc thoai thoải phía bên kia sông, có một người đàn ông cao lớn trong chiếc áo mưa màu rêu đang chầm chậm bước xuống. Chị vội vã chèo thuyền sang. Nhưng rồi lòng chị chợt se lại. Chị biết mình lại phải chờ, người khách xuống bến không phải chồng chị, cũng không phải anh thương binh với chiếc nạng gỗ mà là một chàng trai còn rất trẻ, người của làng chị, vừa hết hạn thi hành nghĩa vụ, trở về quê.
(Bến đợi, Hoàng Nhật Tuyên, Tạp chí Non nước, 2016)Lời giải
Lời giải
Lời giải
Lời giải
Phân tích tác dụng của những yếu tố thời gian trong đoạn trích từ: “Từ ngày gặp anh thương binh cụt chân” cho đến “một chàng trai còn rất trẻ, người của làng chị, vừa hết hạn thi hành nghĩa vụ, trở về quê”:
- Những yếu tố thời gian: từ ngày gặp anh thương binh cụt chân, thời gian trôi đi, hai năm nay, chiều nay.
- Tác dụng: tạo bối cảnh thời gian cho câu chuyện, giúp truyện được kế theo mạch thời gian; góp phần khẳng định sự chờ đợi bền bỉ theo năm tháng của nhân vật chị.Lời giải
HS chỉ ra ít nhất một điểm tương đồng và điểm khác biệt về nội dung giữa văn bản Bến đợi và một văn bản khác cũng nói về sự chờ đợi mà mình từng đọc. Ví dụ: có thể lựa chọn truyện dân gian Sự tích hòn Vọng Phu và chỉ ra nét chung, nét riêng của hai văn bản như sau:
- Điểm tương đồng: đều nói về sự thuỷ chung, son sắt.
- Điểm khác biệt: nhân vật chính trong truyện Bến đợi chờ người chồng đi lính trở về còn nhân vật chính trong Sự tích hòn Vọng Phu đợi chờ người chồng bỏ đi biệt xứ sau khi biết hoàn cảnh éo le của mình (hai vợ chồng thực chất là hai anh em).Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.