Danh sách câu hỏi
Có 28,949 câu hỏi trên 579 trang
Đoạn văn sau giải thích cho vấn đề gì?
Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), “thành công” là “đạt được kết quả, mục đích như dự định”. Thành công gần nghĩa với thành đạt “đạt được kết quả tốt đẹp, đạt được mục đích về sự nghiệp”. Nói khác đi, thành công là những thành tích, thành tựu mà con người đạt được sau những nỗ lực, cố gắng. “Tích số” là phép nhân của các số, ở đây được hiểu là sự phối kết, nhân lên của các yếu tố “làm việc, may mắn và tài năng”. Nếu “làm việc” là hành động suy nghĩ hoặc thể chất tiến hành một công việc nào đó thì “may mắn” là những yếu tố thuận lợi do khách quan đem lại, nhờ đó mà con người có được thành công. Còn “tài năng” là khả năng đặc biệt, sự khéo léo hơn người, trí sáng tạo vượt trội của con người. Từ đây, ta hiểu tác giả của câu nói muốn khẳng định: thành công không tự nhiên mà có, nó là sự phối kết, nhân lên của nhiều yếu tố như làm việc, may mắn và tài năng.
III. Bài tập viết và nói nghe
Nhận định sau đây có điểm nào cần điều chỉnh? Vì sao?
Khi viết bài nghị luận về một vấn đề liên quan đến tuổi trẻ, người viết không cần đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng cụ thể, tin cậy mà chỉ cần diễn đạt một cách tướng mính, hung hồn những nhận định, quan điểm, suy nghĩ của mình về khía cạnh tích cực hoặc tiêu cực của vấn đề bản luận, trong đó, cần chú ý những vấn đề chung của thời đại, chưa cần quan tâm đến yếu tố vùng miền, địa lí, dân tộc, lịch sử.
(Bài tập 3, SGK) Phân tích tác dụng của nghịch ngữ trong các ngữ liệu sau:
a)
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.
(Xuân Quỳnh)
b)
Nếu nhắm mắt nghe bà kể chuyện,
Sẽ được nhìn thấy các bà tiên,
Thấy chú bé đi hài bảy dặm,
Quả thị thơm, cô Tấm rất hiền.
(Vũ Quần Phương)
c)
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
(Xuân Diệu)
II. Bài tập tiếng Việt
(Bài tập 1, SGK) Tìm biện pháp tu từ nghịch ngữ trong các câu văn biền ngẫu dưới đây (trích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu). Cho biết mỗi nghịch ngữ đó có tác dụng khắc hoạ hình ảnh các nghĩa sĩ áo vải như thế nào.
a) Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
b) Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tẩu, bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ.
c) Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
Hãy chỉnh sửa lại định nghĩa sau cho phù hợp:
Câu chuyện tưởng tượng là một câu chuyện hoàn toàn có thật, do người kể kể lại, nghĩa là tình huống, bối cảnh, nhân vật, sự việc,... trong câu chuyện phải gắn với cuộc sống, đã, đang diễn ra trong cuộc sống. Câu chuyện tưởng tượng ấy không có yếu tố hư cấu, nhưng phải có ý nghĩa, mang đến một thông điệp về cuộc sống và con người,...
Chỉ ra biểu hiện và nêu nhận xét về sự kết hợp giữa kể với tả hoặc kể với biểu cảm hoặc kể với tả và biểu cảm trong các đoạn văn sau:
a) Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện. (Nguyễn Dữ)
b) Chúng tôi chỉ còn kịp nghe thấy tiếng bước chân huỳnh huỵch xuống cầu thang, rồi tiếng cổng sắt sập mạnh. Từ cửa sổ phòng khách, tôi còn thấy hắn chạy trối chết về phía cuối đường.
Đồ vô lại! – Hôm rủa. – Thằng khốn này sẽ gieo rắc tai hoạ cho đến ngày lên giá treo cổ thôi. Vụ này kể ra cũng không hoàn toàn vô vị. (Đoi-lơ)
c) Tôi tìm hung thủ trong hai người này chăng? Thoạt tiên thì đó là điều vô lí hết sức. Huy là người tôi biết đã lâu lắm, hiền lành, ngay thẳng,... Còn Thạc cũng là người tôi quen, hoạt bát, thông minh và ăn nói dễ thương. Vả lại, chính lúc xảy ra án mạng, cả hai người cùng đi xem chớp bóng với tôi, Huy ngôi bên cạnh tôi, và Thạc cũng ngồi liền một bên. Tôi ngồi giữa... Tuy vậy, một sự gì rất bí nhiệm, một điều quan sát không mấy khi ta lưu tâm đến... lúc thường tôi bỏ qua, nhưng bấy giờ đến mách bảo tôi, khiến tôi ngờ rằng hung thủ là Thạc. (Thế Lữ)
Chọn từ ngữ phù hợp với chỗ trống trong những câu sau để hoàn thành phần kiến thức về truyện kể sáng tạo và viết truyện kể sáng tạo.
sáng tạo, hư cấu, miêu tả, mô phỏng, nhân vật, tưởng tượng, sự việc, đời sống, tự sự, người kể, tác giả, thông điệp
Truyện kể sáng tạo là một văn bản (1)..........., ở đó, (2)........... (có thể là nhân vật trong truyện – ngôi thứ nhất, hoặc người ngoài cuộc – ngôi thứ ba) kể lại một cách sáng tạo những (3)........... đã diễn ra ở một không gian, thời gian nào đó, gắn với những (4)........... cụ thể. Thông qua câu chuyện, (5)........... thể hiện quan điểm, suy nghĩ, thái độ của mình về những vấn đề của đời sống. Trong truyện, bên cạnh lời kể, còn có những câu, đoạn văn (6)..........., biểu cảm để làm nổi bật đặc điểm của nhân vật hoặc bối cảnh, đồng thời bộc lộ cái nhìn, tình cảm, cảm xúc của người kể và của chính nhà văn. Truyện kể sáng tạo có thể là một câu chuyện hoàn toàn mới hoặc (7)........... một truyện đã có nhưng điều chỉnh, thay đổi các chi tiết, sự việc, nhân vật,... theo ý tưởng của người kể.
Viết truyện kể sáng tạo là tạo lập một văn bản tự sự có yếu tố (8)........... và có tính nghệ thuật nhất định. Khác với các văn bản như nhật kí, hồi kí, bản tường trình,..., truyện cho phép người viết (9)........... những sự việc, con người không có thật (ví dụ: thần tiên, ma quỷ,...) hoặc chỉ có một phần sự thật (ví dụ: Sự tích Hồ Gươm). Nhưng dù hư cấu thế nào thì truyện vẫn luôn đặt ra những vấn đề của (10)........... con người. Vì thế, việc (11)........... ra các tình huống, sự việc, chi tiết, nhân vật (con người, con vật, thần, thánh,...),... chỉ là phương thức để người viết gửi gắm những (12)....... về cuộc sống. Đó có thể là một bài học về đạo lí, lối sống hay một quan niệm, một góc nhìn về thiên nhiên, xã hội, con người.
(Bài tập 2, SGK) Tìm câu bị động trong những đoạn văn dưới đây. Cho biết việc sử dụng những câu bị động đó phù hợp như thế nào đối với văn cảnh và mục đích diễn đạt.
a) Sau nghi lễ bái tổ, hai đô thực hiện nghi thức xe đài. Những động tác xe đài được thực hiện rất đa dạng. (Phí Trường Giang)
b) Địa đạo Củ Chi hình thành trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp (khoảng năm 1948). Hệ thống địa đạo được xây dựng sớm nhất tại hai xã Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An [...]. Lúc đầu, địa đạo chỉ có những đoạn ngắn, cấu trúc đơn giản, dùng để giấu tài liệu, trú ém cán bộ trong vùng địch hậu. Sang giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Mỹ, địa đạo được gia cố và mở rộng. (Di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi)
c) Trong hơn một thế kỉ trở lại đây, dân số thế giới ngày càng tăng, trong khi số lượng các loài động vật ngày một giảm đi rõ rệt. Môi trường sống của động vật bị con người chiếm lĩnh, phá hoại [....]. Nhiều loài thậm chí thường xuyên bị con người ngược đãi, săn bắt vô tổ chức và tàn sát không nương tay. (Theo Kim Hạnh Bảo – Trần Nghị Du)
(Bài tập 1, SGK) Thử chuyển mỗi thành phần câu hoặc thành phần của cụm từ được in đậm dưới đây sang vị trí khác trong câu; qua đó, giải thích vì sao các tác giả lại chọn vị trí của chúng như ở những câu đã cho.
a) Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn.
(Hồ Chí Minh)
b) Vì đường xa, chúng tôi chỉ ở nhà được có ba ngày. Trong ba ngày ngắn ngủi đó, con bé không kịp nhận ra anh là cha.
(Nguyễn Quang Sáng)
c) Giữa mặt vịnh mênh mông xanh ngắt và tim tím, nhô lên những tảng đá vôi hình thù kì dị và dường như được bút sơn của một hoạ sĩ quét lên vô số màu sắc, từ màu xanh ngọc bích đến màu đỏ nâu và vàng.
(Thi Sảnh)
d)
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
(Bà Huyện Thanh Quan)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Hôm rời ghế ngồi, đứng giữa hai phần rèm cửa sổ, dõi mắt xuống con phố ảm đạm. Ngó qua vai anh, tôi thấy một phụ nữ cao lớn, cổ quấn khăn da trăn, đầu đội mũ da đỏ rộng vành đang đứng trên hè đường trông thẳng sang nhà. Trông cô ta đỏm dáng như nữ công tước Đi-vôn-sai (Devonshire) vậy. Cô cố giấu vẻ bối rối sau bộ phục trang rực rỡ, lưỡng lự ngước mắt lên căn hộ có sự hiện diện của chúng tôi, các ngón tay không biết làm gì ngoài mân mê hàng cúc áo. Đột nhiên, với sự quả quyết của một vận động viên bơi lội bật khỏi bờ, cô gái lao vút qua đường. Rồi chúng tôi nghe thấy một hồi chuông giòn giã ngoài cửa.
– Tôi biết cái triệu chứng này rồi! – Hôm ném điếu thuốc hút dở vào lò sưởi. – Dấp da dấp dính trên vỉa hè là có sự mà. Cô nàng muốn hỏi xin ý kiến, nhưng không chắc có nên thổ lộ vấn đề tế nhị cho người lạ không. Chúng ta nên phân biệt rõ. Nếu người chồng có lỗi rất nghiêm trọng thì cô ta đã không ngần ngại gì mà không đến chỗ chúng ta và rung chuông ngay. Đằng này chắc có chút gì liên quan đến tình cảm, thành thử cô nàng hơi lúng túng hoặc thương cảm. Được rồi, chính cô ấy sẽ đến giải toả các mối nghi ngờ của chúng ta.
Nói tới đây thì có tiếng gõ cửa. Người hầu giới thiệu cô Me-ri Sơ-thơ-len. Người phụ nữ dần dần hiện ra sau thân hình khiêm tốn của Hôm. Anh bạn tôi thân mật tiếp khách, sau khi khép cửa lại và mời cô ngồi. Ngắm kĩ bộ đồ độc đáo của nữ thân chủ, Hôm từ tốn:
– Thưa cô, cô không thấy khó chịu khi phải đánh máy quá nhiều với cặp kính cận này chứ?
– Ban đầu thì có. Nhưng giờ tôi đã có thể đánh máy mà chẳng cần nhìn bàn phím rồi.
Rồi như chợt nhận ra ngụ ý trong ngôn từ của Hôm, cô gái rùng mình ngước lên, trên khuôn mặt còn đọng lại nỗi sợ hãi và sửng sốt. Cô bối rối hỏi:
– Ông đã nghe nói về tôi rồi, ông Hôm? Nếu không làm sao ông biết chuyện ấy?
Đừng để ý đến chuyện ấy. – Hôm vui vẻ cười. – Nghề của tôi là phải biết nhiều thông tin. Có lẽ tôi đã quen quan sát những gì mà người khác bỏ qua. Nếu không, chắc gì cô đã tới xin ý kiến tôi, đúng không?
– Thưa ông, tôi được bà E-thơ-di (Etherege) giới thiệu đến gặp ông. Ông đã tìm lại người chồng cho bà ấy, trong khi nhiều người khác, thậm chí cảnh sát, đều cho rằng ông ấy đã chết. Ôi, ông Hôm, khẩn cầu ông giúp tôi càng nhiều càng tốt. Tôi chẳng giàu có gì, song cũng có lợi tức khoảng một trăm bảng mỗi năm. Ngoài ra, tôi còn có chút thù lao đánh máy nữa. Tôi sẽ chi hết, miễn là tìm được ông Hót-mơ En-giô.”
(Đoi-lơ, trích Sơ-lốc Hôm, tập 1, Bùi Liên Thảo – Vũ Thu Hà – Vũ Quế Anh dịch,
NXB Văn học, Hà Nội, 2016)
a) Đoạn trích trên kể về cuộc gặp gỡ giữa ai với ai? Vì sao có cuộc gặp gỡ này?
b) Hãy xác định người kể chuyện trong đoạn trích trên (chú ý kết nối với văn bản Vụ cải trang bất thành trong SGK) và tìm một ví dụ để phân biệt lời người kể chuyện và lời nhân vật.
c) Nhân vật Hôm đã được khắc hoạ như thế nào trong đoạn trích trên?
d) Tìm các chi tiết trong đoạn trích cho thấy những đặc điểm phổ biến về tính cách hoặc năng lực ở nhân vật thám tử.