Danh sách câu hỏi tự luận ( Có 499,952 câu hỏi trên 10,000 trang )

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Câu 1. (2,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận nỗi nhớ của nhân vật trữ tình trong bài thơ sau: Nắng hè đỏ hoa gạo Nước sông Thương trôi nhanh Trên đường quê rảo bước Gió nam giỡn lá cành.   Bỗng tiếng chim tu hú Đưa từ vườn vải xa Quả bắt đầu chín lự Ngọt như nỗi nhớ nhà.   Cha già thêm tóc bạc Chống gậy bước lên đồi Thương một mùa vải đỏ Má hồng con đang tươi.   Có chàng qua dạm ngõ Bỗng khói lửa ngút trời Con đi đêm súng nổ Vải rụng bến sông trôi...   Rồi tiếng chim tu hú Vang suốt những mùa hè Con đi dài thương nhớ Mười năm chửa về quê.   Tu hú ơi tu hú Kêu hoài chi vườn xanh? Ta còn đi đi nữa Như dòng sông trôi nhanh   Nhắn với chim tu hú Cha già vui đợi mong Mười năm trong khói lửa Má con dù nhạt hồng Nhưng bao nhiêu em gái Đẹp lên mùa vải chín ven sông   (Tiếng chim tu hú, Anh thơ, Theo Thơ Bắc Giang thế kỉ XX, NXB Hội Nhà văn, 2002, tr.53) * Anh Thơ sinh tại thị trấn Ninh Giang, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; quê quán: thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Cha bà là một nhà nho đậu tú tài và ra làm công chức cho Pháp nên phải thuyên chuyển nhiều nơi, Anh Thơ cũng phải đổi trường học từ Hải Dương sang Thái Bình rồi về lại Bắc Giang mà vẫn chưa qua bậc tiểu học. Ban đầu, bà lấy bút danh Hồng Anh, sau mới đổi thành Anh Thơ. Bài thơ nổi tiếng Tiếng chim tu hú được in lần đầu trong tập thơ Những cánh chim câu (1960). Từ đó đến nay, bài thơ xuất hiện nhiều lần trong các tuyển tập thơ khác nhau, chứng tỏ sức sống và vẻ đẹp bền lâu của nó.

Xem chi tiết 13.4 K lượt xem 1 tuần trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Câu 1. (2,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích ngắn gọn hình tượng đất nước được thể hiện trong đoạn thơ sau: […] đất nước có thể đó là một chú dế mèn gọi mùa thu về chập chờn ngoài cửa lớp là trái bồ kết để em gội tóc thơm hoài trong hơi thở buổi tự tình có thể là một sáng bình minh chú gà gáy chùng chình trong gió sớm đường đi học có cu cườm và bướm cũng bay theo ấm áp mặt trời lên đất nước là cây cỏ không tên những Vô Danh đối đầu cùng giông bão chân lấm tay bùn làm ra lúa gạo là đêm trăng bên cái giếng đầu làng em khua gầu làm vỡ ánh trăng tan năm ấy tôi mới vừa mười bày tuổi sáng đầu thu trước sân nhà rụng đầy hoa bưởi tôi đưa tay hứng lấy mối tình đầu. […] (Trích Định nghĩa về đất nước, Lê Minh Quốc, in trong Tôi vẽ mặt tôi, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1994) Chú thích: Nhà thơ Lê Minh Quốc sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, từng là bộ đội ở chiến trường K (1977 – 1982), nguyên Trưởng ban Văn hóa – Văn nghệ báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh (nhiệm kì 2020 - 2025). Anh là cây bút đa tài và sung sức của làng văn làng báo, đã xuất bản hàng chục đầu sách ở nhiều thể loại: thơ, văn xuôi, biên khảo.

Xem chi tiết 17.9 K lượt xem 1 tuần trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Câu 1. (2,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích nhân vật bác Lê trong đoạn trích sau: Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một người con. Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay nhăn nheo như một quả trám khô. Khi bác mới đến phố, ai ai cũng chú ý đến đám con của bác: mười một đứa, mà đứa nhớn mới có mười bảy tuổi! Đứa bé nhất hãy còn bế trên tay. Mẹ con bác ta ở một căn nhà cuối phố, cái nhà cũng lụp xụp như những căn nhà khác. Chừng ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan đã gãy nát. Mùa rét thì giải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc. Đối với những người nghèo như bác, một chỗ ở như thế cũng tươm tất lắm rồi. Nhưng còn cách kiếm ăn? Bác Lê chật vật, khó khăn suốt ngày cũng không đủ nuôi chừng ấy đứa con. Từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng. Những ngày có người mướn ấy, tuy bác phải làm vất vả, nhưng chắc chắn buổi tối được mấy bát gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đợi ở nhà. Đó là những ngày sung sướng. Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng lúa đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ dưới gió bấc lạnh như lưỡi dao sắc khía vào da, bác Lê lo sợ, vì không ai mướn bác làm việc gì nữa. Thế là cả nhà nhịn đói. Mấy đứa nhỏ nhất, con Tý, con Phún, thằng Hy mà con chị nó bế, chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét, như thịt con trâu chết. Bác Lê ôm ấp lấy con trong ổ rơm, để mong lấy cái ấm của mình ấp ủ cho nó.    (Thạch Lam, Trích Nhà mẹ Lê, Nhà xuất bản Đời nay, 1937)

Xem chi tiết 10.1 K lượt xem 1 tuần trước