Danh sách câu hỏi tự luận ( Có 499,952 câu hỏi trên 10,000 trang )

Câu 2. (4,0 điểm) Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh hai đoạn thơ sau: (1) ... Chỉ một người ở lại với anh thôi Lúc anh vắng người ấy thường thức đợi Khi anh khổ chỉ riêng người ấy tới Anh yên lòng bên lửa ấm yêu thương Người ấy chỉ vui khi anh hết lo buồn Anh lạc bước, em đưa anh trở lại Khi cằn cỗi thấy tháng ngày mệt mỏi Em là sớm mai là tuổi trẻ của anh Khi những điều giả dối vây quanh Bàn tay ấy chở che và gìn giữ Biết ơn em, em từ miền gió cát Về với anh, bông cúc nhỏ hoa vàng Anh thành người có ích cũng nhờ em Anh biết sống vững vàng không sợ hãi … Người đổi thay, năm tháng cũng qua đi Giữa thế giới mong mạnh và biến đổi “Anh yêu em và anh tồn tại”. … (Lưu Quang Vũ, ... Và anh tồn tại, in trong Lưu Quang Vũ – Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2013, tr. 199 – 200) (2) Nhưng lúc này anh ở bên em Niềm vui sướng trong ta là có thật Như chiếc áo trên tường như trang sách Như chùm hoa nở cánh trước hiên nhà   Em hiểu rằng mỗi lúc đi xa Tình anh đối với em là xứ sở Là bóng rợp trên con đường nắng lửa Trái cây thơm trên miền đất khô cằn   Đây tình yêu, em muốn nói cùng anh: Nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng Lòng tốt để duy trì sự sống Cho con người thực sự Người hơn (Xuân Quỳnh, Nói cùng anh, in trong Xuân Quỳnh – Không bao giờ là cuối, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2013, tr. 77 – 78)

Xem chi tiết 1.7 K lượt xem 1 tuần trước

Câu 2 (4,0 điểm) Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nhân vật Điền và Hộ trong hai đoạn trích dưới đây: Đoạn truyện (1) (Tóm tắt truyện: Hộ là một văn sĩ có tài; Hộ cưu mang Từ, có công cứu vớt đời Từ và Từ trở thành vợ Hộ. Hộ mải mê với văn chương, chung cuộc sống cơm áo không để Hộ ngồi yên mà viết văn, thưởng thức văn chương, … Túng quẫn và phẫn uất, Hộ chán nản lao vào rượu chè, say xỉn, … Mỗi lần say lại bốc đồng và về nhà làm khổ Từ…Khi tỉnh dậy, Hộ lại hối hận, ăn năn…)   Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ trưa như thế. Ðầu Từ ngoẹo về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống, cái bàn tay hơi xòe ra lỏng lẻo. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi ngùi. Chao ôi! Trông Từ nằm thật đáng thương! Hèn chi mà Từ khổ cả một đời người! Cái tướng vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ. Hộ nhớ ra rằng: một đôi lúc, nếu nhìn kỹ thì Từ khó mặt lắm. Ðột nhiên Hộ nảy ra ý muốn lại gần Từ, nhìn kỹ xem mặt Từ lúc bây giờ ra sao? Hắn rón rén, đi chân không lại. Hắn ngồi xổm ngay xuống đất, bên cạnh võng và cố thở cho thật khẽ. Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lắm. Da mặt Từ xanh nhợt; môi nhợt nhạt; mi mắt hơi tim tím và chung quanh mắt có quầng, đôi má đã hơi hóp lại khiến mặt hơi có cạnh. Hộ khẽ thở dài và lắc đầu ái ngại. Hắn dịu dàng nắm lấy tay sã xuống của Từ. Cái bàn tay lủng củng rặt những xương! Trên mu bàn tay, những đường gân xanh bóng ra, làn da mỏng và xanh trong, xanh lọc. Cái cổ tay mỏng manh. Tất cả lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì ẻo lả, cần được hắn che chở và bênh vực... Một vẻ bạc mệnh, một cái gì đau khổ và chật vật, cần được hắn vỗ về an ủi... Thế mà hắn đã làm gì để cho đời Từ đỡ khổ hơn? Hắn đã làm gì để cho Từ khỏi khổ? Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc... Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc. Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực mình mà khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ nhàng núi hắn vào, để hắn gục đầu lên cạnh ngực Từ. Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng khóc:   - Anh... anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn!...   - Không!... Anh chỉ là một người khổ sở!... Chính vì em mà anh khổ...   Từ bảo thế. Tay Từ níu mạnh hơn một chút. Ngực Từ thổn thức. Từ chực ngả đầu sát vào vai Hộ. Nhưng đứa con, bị giằng, khóc thét lên. Từ vội buông chồng ra để vỗ con. Tiếng vẫn còn ướt lệ, Từ dỗ nó:   - A! Mợ đây! Mợ đây mà! Ôi chao! Con tôi nó giật mình... Mợ thương...   Hộ đã tránh chỗ để Từ đưa võng... Từ vừa đưa vừa hát: Ai làm cho gió lên giời,     Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;     Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ,     Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân... (Trích “Đời thừa” , Sách Ngữ văn 11 nâng cao, NXB GD 2010, tr.207) Đoạn truyện (2) (Tóm tắt truyện: Điền cả đêm mệt mỏi chăm con là thằng cu Chuyên ốm, sáng ra chuẩn bị lên tỉnh lĩnh tiền. Vợ dặn phải mua thuốc cho con bé Hường đang nổi mụn khắp mặt. Hắn cáu kỉnh, bực tức vì đủ thứ phải chi tiêu, nhưng lại không chịu nổi sự càu nhàu của vợ nên đành chịu. Bản thân hắn mắc bệnh ở tim, cũng chẳng có tiền để theo đuổi thuốc thang. Làm chẳng đủ ăn, chẳng dám mua một cái áo, một quyển sách, lại suốt ngày con ốm, con đau. Hắn ngao ngán cho kiếp mình.  Để tiết kiệm tiền xe, mãi đến mười giờ Ðiền mới đi bộ tới trạm Quỳnh Nha, gặp ông đội Trạm để lĩnh thư, sau đó mới lên nhà dây thép lĩnh tiền, nhưng đụng độ với người thư ký khiến một tờ giấy bạc bay mất, Điền phải nhịn ăn sáng, lếch thếch đi bộ về để tiết kiệm tiền nhưng lại quên mua thuốc cho con. Cuộc cãi vã với vợ khiến “hắn thấy mình khổ quá, khổ như một con chó vậy”. Điền nằm ngẫm nghĩ, nhưng tiếng khóc thút thít của đứa con bị bệnh đã khiến Điền ngẫm lại về lẽ đời và thở dài ngao ngán cho kiếp mình và kiếp người: “Bây giờ trong lòng hắn chỉ còn lại sự xót thương. Hắn thương vợ, thương con, thương tất cả những người phải khổ đau. Lòng hắn thiết tha rướn lên muốn vươn ra để ấp ôm lấy mọi người. Mắt hắn đầm đìa”) […] Hắn vùng vằng đi vào nhà, quăng mũ quăng áo, quăng nốt cả cái thân xác mỏi mệt xuống một cái giường, thở hổn hển, như để đẩy bớt ra ngoài cái khí giận đang cuồn cuộn trong ngực. Hắn thấy mình khổ quá, khổ như một con chó vậy. Hắn nhịn đói từ sáng đến giờ. Hắn đi bộ què chân, nắng hơ sém cả da. Hắn xẻn từ đồng xu uống nước trở đi. Hắn chịu nhục với mọi người... Như thế, bởi vì đâu? Chẳng phải vì vợ vì con ư? Nhưng nào vợ con có thèm biết cho đâu! Ðã chẳng an ủi một lời, vợ hắn còn vơ lấy một sự hắn quên để mà đay nghiến hắn. Ừ, mà cho rằng hắn không quên nữa, cho rằng hắn không lấy thuốc cho con là cố ý, là muốn khỏi mất mấy đồng bạc nữa, thì vợ hắn có nên nói tệ hắn như vậy hay không? Hắn hà tiện vì ai? Hắn khổ sở vì ai, riêng vào cái thân hắn chẳng phí phạm một đồng xu nào cả. Mấy mươi lần vợ hắn giục hắn may một cái áo sơ-mi, hắn chỉ ư hừ rồi để đấy, chưa bao giờ dám bỏ tiền ra mà may cả. Thế rồi bao nhiêu tiền cũng vào vợ, vào con hết... Hắn bủn xỉn, hắn tiếc tiền... ừ, nhưng mà hắn tiếc tiền cho ai?... Ðiền cứ càng nghĩ càng thấy hắn là người khổ, vợ hắn là người tệ bạc. […] Nhưng bỗng con bé Hường chạy vội ra đầu chái, về phía giường Ðiền. Ðiền nghe tiếng đôi guốc của nó lẹc kẹc rất nhanh một thoáng, rồi im lặng. Rồi Hường xịt mũi. Nó xụt xịt rất lâu ngoài ấy. Nó nghẹt mũi hay nó khóc? Ðiền cố lắng tai nghe. Hắn nghe thấy những tiếng Hường nức nở. Hắn đột nhiên run người. Lòng hắn quang ra. Những ý giận hờn bừa bộn vụt tan. Còn lại cái hình ảnh bé nhỏ của Hường, với cái mặt đầy mụn và sưng lên của nó, đôi mắt giàn giụa nước và miệng mếu. Con bé còn nhỏ tuổi nhưng đã rất hay khóc vụng; mỗi lần muốn khóc, nó lại tránh ra một chỗ, cố nén tiếng, không cho ai biết. Ðiền thấy thương nó quá. Tội nghiệp cho con bé! Nó ốm đau luôn và thường bị mẹ mắng chửi suốt ngày như tát nước. Mẹ nó mắng chửi nó, nhiều khi bất công và vô lý. Nhưng lạ thay! Lúc này Ðiền không vin vào đấy mà trách vợ. Hắn thấy vợ hắn không tệ. Thị vốn thương con lắm. Những lúc thị gắt gỏng với con như thế chỉ là những lúc thị sốt ruột quá, lo lắng quá. Cũng như hắn vậy, sao hắn nỡ đem lòng giận thị? Ai chả thế? Người không phải là thánh. Sự khổ sở dễ khiến lòng chua chát. Khi người ta lam lũ quá, lại còn lo trăm thứ, bị làm rầy vì trăm thứ, thì ai mà bình tĩnh được? Ai mà chả hay gắt gỏng? Gắt gỏng thì chính mình khổ trước. Không giữ được thì phải bật ra ngoài như vậy. Thật ra có ai muốn cau có làm chi?... Vậy thì vợ hắn gắt lên với hắn lúc này cũng chỉ là việc thường thôi.  […] Bây giờ trong lòng hắn chỉ còn lại sự xót thương. Hắn thương vợ, thương con, thương tất cả những người phải khổ đau. Lòng hắn thiết tha rướn lên, muốn vươn ra để ấp ôm lấy mọi người. Mắt hắn đầm đìa. Hắn gọi con rất dịu dàng: - Hường ơi!... Vào đây với thầy con!... (Trích Nước mắt, Nam Cao, Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn, NXB Văn học, 2016) Chú thích: Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri (1915 – 1951), quê ở Lý Nhân, Hà Nam. Ông là một nhà văn hiện thực phê phán (trước Cách mạng) và được xem là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của thế kỉ XX. Nam Cao còn là người có đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách viết truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX. Ông được sinh ra trong một gia đình công giáo bậc trung. Nam Cao làm rất nhiều công việc mưu sinh khác nhau, làm thư ký cho một hiệu may, dạy học, viết báo kiếm sống,.. với vốn sống phong phú Nam Cao đã cho ra đời rất nhiều tác phẩm có giá trị cho đến ngày nay. Các tác phẩm chính: Chí Phèo (truyện ngắn, 19410, Lão Hạc (truyện ngắn, 1943), Sống mòn (tiểu thuyết, 1944)

Xem chi tiết 9.3 K lượt xem 1 tuần trước

Câu 2: (4,0 điểm) Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), phân tích bài thơ sau: QUÊ HƯƠNG (Giang Nam) Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ: “Ai bảo chăn trâu là khổ?” Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.   Những ngày trốn học Đuổi bướm cầu ao Mẹ bắt được.... Chưa đánh roi nào đã khóc! Có cô bé nhà bên Nhìn tôi cười khúc khích...   Cách mạng bùng lên Rồi kháng chiến trường kì Quê tôi đây bóng giặc Từ biệt mẹ tôi đi Cô bé nhà bên - (có ai ngờ!) Cũng vào du kích Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!) Giữa cuộc hành quân không nói được một lời . Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại... Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...   Hoà bình tôi trở về đây Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày Lại gặp em Thẹn thùng nép sau cánh cửa... Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ - Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!) Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...   Hôm nay nhận được tin em Không tin được dù đó là sự thật Giặc bắn em rồi quăng mất xác Chỉ vì em là du kích, em ơi! Đau xé lòng anh, chết nửa con người!   Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm Có những ngày trốn học bị đòn roi... Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phân xương thịt của em tôi. 1960 (Theo Thơ tình người lính, NXB Phụ nữ, Hà Nội. 1995)

Xem chi tiết 3.1 K lượt xem 1 tuần trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Câu 1. (2,0 điểm) Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày tác dụng của sự kết hợp giữa sự kiện hiện thực và trải nghiệm, thái độ, đánh giá của người viết trong đoạn trích sau của Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm: 3/12/1969 Đêm lạnh, gió đông bắc từng cơn thổi về làm mình lạnh tê người. Chạy đến bên em, mình khẽ run vì lạnh và mình đã ấm lại nhờ em đem tấm dù choàng lên vai mình và bàn tay em nắm chặt tay mình tha thiết thương yêu. [...] Bốn giờ kém mười lăm, mình và Thường khoác ba lô lên vai. Em tiễn mình đi cho đến tận chỗ tập trung. Giây phút chia tay mình nhìn em thấy trong đôi mắt đen ngời ấy một nỗi nhớ thương kì lạ – mình đã chia tay em như chia tay một người thân yêu ruột thịt. Bao giờ gặp lại em đây? Có phải khói lửa chiến tranh đã làm nước mắt mình khô cạn? Trước đây một câu chuyện đau buồn trong một cuốn phim có thể làm mình giàn giụa nước mắt thì bây giờ mình có thể cắn môi đứng lặng yên trong một buổi chia tay mà người đi, kẻ ở đều không hiểu ai còn ai mất sau buổi chia tay ấy. Và chiều nay đứng trước nấm mộ em Nhiều, đau thương đến rớm máu trong lòng vậy mà mình cũng chỉ rưng rưng nước mắt. Nấm mộ nằm ngay bên đường đi, vòng hoa chưa tàn, em đã chết hơn một trăm ngày mà tưởng như đứa em nhỏ dại ấy mới ngã xuống. Đốt một nắm hương cắm lên nấm mộ em mà mình nghẹn ngào không biết nói gì với người đã chết. Nhiều ơi! Em đã chết như một người chiến sĩ kiên cường mà cuộc đời em là bài ca cho những người còn sống ca ngợi. Nhiều ơi! Em chết đi giữa tuổi đời xanh ngát ước mơ, giữa tình yêu đang nở thắm. Chị và những người thân của em chỉ biết hứa với em rằng sẽ tiếp tục chiến đấu để trả thù cho em. (Trích Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm, Đặng Kim Trâm chỉnh lí, Vương Trí Nhàn giới thiệu, NXB Hội Nhà văn, 2023)

Xem chi tiết 1.8 K lượt xem 1 tuần trước