Danh sách câu hỏi
Có 306,617 câu hỏi trên 6,133 trang
Theo Tri thức ngữ văn trong SGK Ngữ văn 12, tập một (tr. 130), “Tiếng cười hài kịch cất lên từ sự vênh lệch, không tương thích giữa mục đích và phương tiện thực hiện, bản chất và biểu hiện, hành động và hoàn cảnh, tham vọng cá nhân và các khả năng thực hiện,... tức là từ những cái ngộ nghĩnh, ngược đời, bất hợp lí”. Sự “vênh lệch, không tương thích” này đã được thể hiện trong đoạn trích như thế nào?
Đọc đoạn trích sau trong hài kịch Quan thanh tra (lớp 1, hồi thứ nhất) và trả lời các câu hỏi:
HỒI THỨ NHẤT
Một căn phòng nhà thị trưởng
LỚP 1
(Thị trưởng, quản lí viện tế bần, kiểm học, chánh án, cảnh sát trưởng, thầy thuốc, hai lính cảnh sát)
THỊ TRƯỞNG – Thưa các ngài, tôi mời các ngài đến để báo một tin hết sức không vui. Có quan thanh tra đến chỗ chúng ta.
AM-MỐT PHI-Ô-ĐÔ-RÔ-VÍCH (AMMOS PHIODOROVITR) – Thế nào! Quan thanh tra à?
ÁC-TÊ-MI PHI-LÍP-PÔ-VÍCH (ARTEMI PHILIPPOVITR) – Thế nào! Quan thanh tra à?
THỊ TRƯỞNG – Quan thanh tra ở Pê-téc-bua (Peterburg) đến, một cách bí mật, lại mang theo mật lệnh.
AM-MỐT PHI-Ô-ĐÔ-RÔ-VÍCH – Thế mới chết!
ÁC-TÊ-MI PHI-LÍP-PÔ-VÍCH – Thật là đang yên đang lành bỗng sinh chuyện thế đấy! LU-CA LU-KÍCH (LUKA LUKITR) – Lại mang theo cả mật lệnh kia ư, hở trời!
THỊ TRƯỞNG – Hình như tôi đã cảm thấy việc đó từ trước: suốt đêm qua, tôi nằm mơ thấy hai con chuột cống kì quái. Thật tôi chưa hề thấy loại chuột nào như thế bao giờ: nó đen mà to lớn lạ thường! Chúng bò tới, đánh hơi, rồi biến mất. Đây, tôi đọc cho các ngài nghe bức thư này của An-đrây I-va-nô-vích Tchi-mu-khốp (Andrei Ivanovitr Trmukhov) gửi cho tôi; ông Ác-tê-mi Phi-líp-pô-vích, ông biết lão ta chứ gì! Lão ta viết thế này: “Bạn thân mến, bạn cánh hẩu và ân nhân” (lẩm bẩm, đưa mắt đọc lướt bức thư)... “và báo cho đằng ấy biết.” À! Đây. “Mình cấp tốc báo thêm cho đằng ấy biết là có một viên quan đã tới; ông ta có lệnh phải xem xét toàn tỉnh và đặc biệt là quận nhà (giơ ngón tay lên một cách có ý nghĩa). Mình đã biết việc này từ những người đáng tin nhất, mặc dù ông ta giả làm thường dân. Theo như mình biết, đằng ấy cũng như mọi người, thường hay phạm lỗi vặt, vì đằng ấy là người thông minh, không ưa bỏ qua những món lọt đến tay...” (ngừng lại), không sao, ở đây là cánh ta cả... “cho nên mình khuyên đằng ấy nên hết sức đề phòng, bởi vì ông ta có thể đến bất cứ lúc nào, nếu không phải là đã đến rồi, lẩn quất ở đâu một cách bí mật... Hôm qua, mình...” Hừ, đoạn này là việc gia đình: “Em gái mình, An-na Ki-ri-lốp-na (Anna Kirllovna) cùng chồng nó đã đến thăm chúng mình; I-van Ki-ri-lô-vích (Ivan Kirillovitr) béo ra nhiều lắm và vẫn chơi vi-ô-lông như thường v.v... Đấy, tình hình như thế đấy.
AM-MỐT PHI-Ô-ĐÔ-RÔ-VÍCH – Phải, tình hình như vậy... thật là không bình thường, rất không bình thường. Không dưng sao lại có chuyện được.
LU-CA LU-KÍCH – Sao lại có chuyện ấy nhỉ, ông An-tôn An-tô-nô-vích (Anton Antonovitr)? Quan thanh tra đến vùng ta làm quái gì nhỉ?
THỊ TRƯỞNG – Còn sao nữa! Rõ ràng là số kiếp xui khiến ra như vậy! (Thở dài). Từ trước tới nay, ơn nhờ Bề trên, họ mò đến các thành phố khác. Bây giờ đến lượt vùng chúng ta đây.
AM-MỐT PHI-Ô-ĐÔ-RÔ-VÍCH – Ông An-tôn An-tô-nô-vích, tôi nghĩ rằng việc này có nguyên nhân gì lắt léo, hơn nữa, nguyên nhân chính trị đây. Như thế nghĩa là: nước Nga... phải... nước Nga muốn tiến hành chiến tranh; và trên Bộ, các ngài thấy đấy, cử một vị quan đến điều tra xem có vụ phản bội nào không.
THỊ TRƯỞNG – Hừ, sao lại nghĩ xa xôi như thế! Thế mà cũng là con người thông minh! Trong một thành phố ở quận như thế này mà lại xảy ra vụ phản bội! Làm như đây là một thị trấn ở biên giới không bằng! Từ ở đây, dù có phốc lên ngựa mà phi đến ba năm cũng chưa tới một nước ngoài nào cả.
AM-MỐT PHI-Ô-ĐÔ-RÔ-VÍCH – Không, tôi nói rằng, về việc đó ông không... Ông không... Quan trên có con mắt sáng suốt tinh vi: dù là nơi xa xôi, quan trên cũng phải để tâm tới chứ.
THỊ TRƯỞNG - Để tâm hay chẳng để tâm, không biết; nhưng thưa các ngài, thì đó báo trước cho các ngài biết tin rồi. Coi chừng đấy, các ngài ạ! Về phần tôi, tôi đã xếp đặt một số việc, tôi cũng khuyên các ngài nên làm như vậy. Nhất là ông, ông Ác-tê-mi Phi-líp-pô-vích! Không còn nghi ngờ gì nữa, quan thanh tra qua đây sẽ muốn xem gh trước tiên các nhà tế bần do ông quản lí; vì vậy, ông phải làm thế nào cho mọi cái đề được lịch sự dễ coi: mũ vải của bệnh nhân phải sạch sẽ, bệnh nhân không được ăn mặc nhem nhuốc như thợ rèn ấy, như chúng thường ăn mặc ở nhà.
ÁC-TÊ-MI PHI-LÍP-PÔ-VÍCH – Được, vấn đề đó cũng không đáng ngại lắm! Được có thể kiếm mũ vải cho họ đội, mũ sạch,
(Ni-cô-lai Gô-gôn (Nikolai Gogol), Quan thanh tra, Vũ Đức Phúc dịch NXB Lao động – Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2009, tr. 9-1)
Dựa vào nội dung tóm tắt tác phẩm trong SGK, hãy cho biết đoạn trích nặn ở phần nào của vở kịch.
Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi:
Sau Tết Nguyên đán một tháng là thời gian thích nhất ở rừng. Cây cối đều nhủ lộc non. Rừng xanh ngắt và ẩm ướt. Thiên nhiên vừa trang trọng, vừa tình cảm. Điều ấy một phần là do mưa xuân.
Khoảng thời gian này mà đi trong rừng, chân giẫm lên lớp lá ải mục, hít thở không khí trong lọc, thỉnh thoảng lại được thót mình bởi một giọt nước trên cây rỏ xuống vai trần thì thật tuyệt thú. Tất cả những trò nhố nhăng đê tiện vấp phải hằng ngày hoàn toàn có thể rũ sạch bởi một cú nhảy của con sóc nhỏ trên cành dâu da.
Chính dịp đó ông Diểu đi săn.
Ý nghĩ đi săn nảy sinh khi thằng con học ở nước ngoài gửi về biếu ông khẩu súng hai nòng. Khẩu súng tuyệt vời, nhẹ bỗng, hệt như một thứ đồ chơi, thật nằm mơ cũng không thấy được. Ở tuổi sáu mươi, với khẩu súng mới, đi săn trong rừng vào một ngày xuân kể cũng đáng sống.
Ông Diểu nai nịt, mặc quần áo ấm, đội mũ lông và dận đôi giày cao cổ. Để cho cẩn thận, ông còn mang theo cả nắm xôi nếp. Ông đi men theo suối cạn, cứ thế ngược lên mó nước đầu nguồn. Cách mó nước một dặm là vương quốc của hang động đá vôi.
Ông Diểu rẽ sang lối mòn ngoằn ngoèo đi miết. Chim xanh đầy trên rặng gắm hai bên lối mòn nhưng ông không bắn. Với khẩu súng này mà bắn chim xanh thì thật phí đạn. Chim xanh ông chén chán rồi. Ngon thì ngon nhưng có vị tanh. Nhà ông thiếu gì chim. Chim bồ câu nhà ông có đầy.
Đến chỗ ngoặt, ông Diểu giật mình bởi một tiếng soạt trong lùm dẻ gai. Một chùm dây màu sặc sỡ tung trước mắt ông. Ông nín thở: một đôi gà rừng ton tón lao về phía trước, đầu chúi xuống, kêu quang quác. Ông Diểu rê nòng súng theo. “Bắn sẽ trượt thôi!” Ông nghĩ bụng và ngồi bất động ở trong tư thế như vậy rất lâu. Ông muốn chờ rừng yên tĩnh lại. Đôi gà rừng sẽ nghĩ là chưa gặp người. Như thế tốt cho chúng nó. Cũng tốt cho ông.
Dãy núi đá cao ngất hùng vĩ. Ông Diểu ngắm nhìn để lượng sức mình. Nã được một chú khỉ hoặc chú sơn dương thì thật đã đời. Sơn dương thì khó, ông Diểu biết thế.
Giống này bắn được chỉ nhờ ở ngẫu nhiên thôi. Ông Diểu không tin vận may sẽ đến.
Cân nhắc kĩ, ông tính đi men chân núi đá vôi sang rừng dâu da săn khỉ. Chắc ăn hơn mà đỡ tốn sức. Đây là Hoa Quả Sơn, Thuỷ Liêm Động của thung lũng này. Ở rừng dấu da, khỉ có hàng bầy. Việc bắn được một chú khỉ với ông không khó.
Ông Diểu dừng lại mô đất có cây dây leo. Không biết thứ cây này là thứ cây gì, lá bạc phếch giống như lá nhót, những bông hoa vàng như hoa tai rủ xuống tận đất. Ông ngồi đấy lặng lẽ quan sát. Cần xem bọn khỉ có ở đây không? Loài thú này khôn tựa người, khi kiếm ăn bao giờ cũng có canh gác. Con gác rất thính. Không thấy nó đừng có hòng cuộc săn thắng lợi, đừng có hòng bắn được con át chủ bài. Con át chủ bài cũng là khỉ thôi. Nhưng đây là con khỉ của ông, là con ấy chứ không con khác. Vì vậy ông phải chờ, phải có cách thì mới bắn được.
(Muối của rừng, in trong Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,
NXB Văn học – Công ti cổ phần Văn hoá Đông A, Hà Nội, 2020, tr. 108 – 109
Cảnh rừng mùa xuân được miêu tả như thế nào? Xác định điểm nhìn được sử dụng trong đoạn trích.
Theo nội dung đoạn trích sau đây, hãy chỉ ra sự khác biệt căn bản giữa yếu tố thần kì trong truyện truyền kì và truyện cổ tích thần kì.
Sự tham gia của yếu tố thần kì vào câu chuyện không phải là do những nhân vật có phép lạ như kiểu trời, Bụt, thần tiên,... trong truyện cổ tích thần kì, mà phần lớn ở ngay hình thức “phi nhân tính” của nhân vật (ma quỷ, hồ li, vật hoá người,...). Tuy nhiên, trong truyện bao giờ cũng có những nhân vật là người thật, và chính những nhân vật mang hình thức “phi nhân” thì cũng chỉ là sự cách điệu, phóng đại của tâm lí, tính cách một loại người nào đấy, và vì thế truyện truyền kì vẫn mang rất đậm yếu tố nhân bản, có giá trị nhân bản sâu sắc.
(Nguyễn Kim Hưng, in trong Từ điển văn học, tập II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 448 – 449)
Đọc đoạn trích sau và cho biết tác giả đoạn trích đã khẳng định ưu điểm của tác phẩm Hải khẩu linh từ ở những khía cạnh nào?
Tuy vậy, ưu điểm nổi bật của Truyền kì tân phả là người viết rất có ý thức ủng hộ lối sống phóng khoảng vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp của lễ giáo phong kiến và đề cao vai trò người phụ nữ trong xã hội. Phần lớn các truyện của Đoàn Thị Điểm đều được xây dựng từ những nhân vật có thật, hoặc những truyền thuyết lịch sử; đặc biệt, truyện Hải khẩu linh từ bắt nguồn từ tấn bi kịch có thật của một nàng cung phi đời Trần Duệ Tông (1372 – 1377), nhưng với tài hư cấu nghệ thuật của mình, tác giả đã khéo léo dẫn dắt và nâng cao tính cách nhân vật chính lên, làm cho câu chuyện có sức truyền cảm sâu sắc. Cái chết tự nguyện của nàng Bích Châu là kết quả của một sự suy nghĩ lâu dài về vận mệnh đất nước, dân tộc và hình tượng của nàng trong truyện còn có ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa. Hải khẩu linh từ được đánh giá là tác phẩm thành công hơn cả của Đoàn Thị Điểm...
(Đặng Thị Hảo, in trong Từ điển văn học – Bộ mới, NXB Thế giới, Hà Nội, 2004, tr. 1833)