Hãy viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ Thơ duyên (Xuân Diệu). (10 mẫu)
Quảng cáo
Trả lời:
Dàn ý phân tích bài Thơ Duyên của Xuân Diệu
I. Mở bài
– Hồn thơ Xuân Diệu không bao giờ khép kín mà luôn luôn rộng mở đối với thiên nhiên và con người.
– Niềm khao khát được hòa hợp, giao cảm với cuộc đời thể hiện rõ nét qua một bài thơ thật hồn nhiên của nhà thơ: Thơ duyên (ghi lại bài thơ).
– Chuyển mạch.
II. Thân bài
A. Sự giao hòa tuyệt diệu trong thiên nhiên
– Duyên chỉ sự ràng buộc quấn quýt. Đây là cuộc gặp gỡ tình cờ không hẹn trước. “Thơ duyên” là thơ để làm duyên, để bắc nhịp cầu cảm thông.
– Cũng có thể hình tượng thơ cho thấy nhưng xúc cảm tinh tế của nhà thơ trước sự hòa hợp tuyệt diệu giữa con người và thiên nhiên, giữa “anh” và “em” trong không khí của thơ và mộng, trong âm hưởng của nhạc (tiếng huyền) và trong tình yêu mến (nỗi thương yêu).
Chiều mộng vừa hiện thực vừa lãng mạn. Một buổi chiều mùa thu với không gian êm đềm, cảnh vật như đang giao hòa trên nhánh duyên.
– Hình ảnh gợi cảm, thơ mộng:
Đôi chim hót ríu rít, chuyền trên những cành me.
Nền trời trong xanh màu ngọc bích đổ ánh sáng qua muôn lá.
– Dường như khắp nơi, thiên nhiên đều dạo lên khúc nhạc chào đón mùa thu:
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.
Cảnh vật trở nên nhẹ nhàng, duyên dáng:
– Con đường nho nhỏ với những làn gió xiêu xiêu nhẹ, những cành hoang lả lá dưới ánh nắng chiều…
– Những đám mây biếc bay gấp gấp, làm cho cánh cò trên ruộng cũng phân vân.
“Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều (Lạc hà dữ cô lộ tề phi: Thu Thủy cộng trường thiên nhất sắc, dịch là: Ráng chiều và cánh cò đơn chiếc lặng bay: Nước mùa thu cùng trời mùa thu một sắc) đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới” (Hoài Thanh). Vì Vương Bột quan sát, còn Xuân Diệu vừa quan sát vừa cảm nhận nên có sự cách biệt ấy.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánhHoa lạnh chiều thưa sương xuống đầu.
Như nêu bật cảm giác rợn ngợp của cánh chim trước bầu trời cao.rộng, và cảm giác dịu lạnh của một loài hoa dưới những giọt sương chiều rơi nhẹ.
Thiên nhiên trong buổi chiều hôm qua bài thơ thật êm đềm, thơ mộng. Tất cả dường như có duyên với nhau, giao hòa trong một sự vận động vốn có. Nét đặc sắc nhất của những câu thơ ở đây là “cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Nó chỉ mất một tí rõ ràng để được thêm rất nhiều thơ mộng” (Hoài Thanh).
Hơn nữa, thiên nhiên như đang chuẩn bị cho những cảm xúc trìu mến để con người đón nhận những tình cảm thương yêu.
B. Sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạnLần đầu rung động nỗi thương yêu.
Nhân vật trữ tình ở đây là ta, là anh, một chàng thanh niên mới lần đầu rung động con tim nên cảm thấy tràn ngập tình cảm thương yêu.
Anh đi dưới đất trời – như giữa bài thơ dịu trên con đường nho nhỏ thoảng làn gió xiêu xiêu trong âm vang của khúc nhạc thu êm ái, lòng chợt rung động bởi một tình cảm mới lạ, cứ nhịp bước theo em. Tâm hồn anh hòa điệu với em như một cặp vân, dù ta chẳng quen biết nhau, không có băng nhân mai mối:
Ai hay tuy lặng bước thu êmTuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Bạn đang xem: 6 Bài Phân tích bài Thơ duyên (Xuân Diệu) hay nhất
Nhân vật trữ tình đang lắng nghe lòng mình hòa điệu với vạn vật, cùng lúc khao khát giao cảm với cuộc đời, khao khát yêu thương và được thương yêu.
Tình cảm yêu thương trong bài thơ gây ấn tượng sâu đậm, như một niềm hạnh phúc chính đáng mà con người được hưởng, và thơ mộng như trong truyện thần tiên:
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậyLòng anh thôi đã cưới lòng em.
III. Kết bài
Khái quát cảm nghĩ của em về bài thơ
Thơ duyên cho thấy bao nét đẹp của một chiều thu quê hương qua những chi tiết được quan sát, chủ yếu là được cảm nhận thật tinh tế. Đây là một trong số rất ít bài thơ trong sáng, hồn nhiên của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Phân tích bài Thơ duyên Xuân Diệu hay nhất
Phân tích Thơ duyên – Mẫu 1
Nói đến thơ Xuân Diệu là nói đến những cảm xúc tột cùng mãnh liệt, những yêu thương tột độ đắm say, sôi nôi. Bởi vậy, đọc tập Thơ thơ, người đọc vừa ngạc nhiên vừa thú vị khi gặp một bài thơ rất dịu dàng, dịu từ ý đến lời: Thơ duyên.
Xét cho cùng, Thơ duyên cũng là một bài thơ về tình yêu, nhưng là tình yêu theo nghĩa rộng lớn, tình yêu đối với cuộc sống, đối với con người, đối với mọi vẻ đẹp, sự hòa hợp ở đời. Đây là thơ về cái duyên, cái hài hòa tuyệt vời mà một ngày kia nhà thơ bỗng nhận ra, giữa vũ trụ với cuộc đời, giữa đất trời với cây cỏ muông thú, giữa thời gian với không gian, giữa vạn vật với con người.
Điều ấy không phải bất kì lúc nào cũng xảy ra nhưng đã có lần xảy ra. Lúc ấy, nhìn vào đâu, từ bầu trời đến mặt đất, nhà thơ cũng chỉ nhìn thấy cái đẹp:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền
Chiều thì mộng, nhánh thì duyên. Quả thật đây là lúc mà cả không gian lẫn thời gian đều thi nhau mà hiện ra trong vẻ tuyệt mĩ của mình. Bởi vậy mối quan hệ giữa chiều mộng và nhánh duyên là một mối quan hệ tuyệt mĩ: hòa thơ. Từ mối quan hệ ấy, mọi điều đều trở nên hài hòa tuyệt đẹp. Cặp chim đang chuyền cành trên cây me trở nên ríu rít. Tiếng ríu rít hình như không chỉ vang lên từ cặp chim chuyền mà vang lên cả từ cây me nữa. Muốn lá vốn xanh, bầu trời vốn xanh, nhưng nhờ đổ trời qua muôn lá mà cả trời cũng muốn là trở nên xanh hơn, xanh đến tuyệt đẹp: xanh ngọc, Trong khổ thơ, có đường nét, dáng hình, có cả màu sắc, âm thanh, mà điều nào cũng đến tột cùng của cái duyên, cái thơ, cái đẹp, cái đáng yêu. Kết thúc khổ thơ, Xuân Diệu phát hiện ra:
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền
Có một điều gì đó thật là huyền bí, thật là đẹp đẽ, chi phối cả vũ trụ lúc này, tạo nên mọi vẻ đẹp lúc này. Nó như một âm thanh không nghe thấy được nhưng huyền diệu vô cùng, có sức mạnh vô cùng. Lắng nghe được tiếng huyền ấy của vũ trụ, nhà thơ nhìn vào cảnh vật xung quanh mình: tất cả những điều bình thường bỗng trở nên khác thường đẹp hơn, đáng yêu hơn, có tình hơn, hòa hợp hơn:
Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Con đường như nhỏ lại để trở nên đẹp hơn. Ngọn gió chiều thổi se sẽ hơn, nương nhẹ hơn bởi ngọn gió như ý thức được việc mình đang làm. Những cành hoang là xuống trước ngọn gió xiêu xiêu nhưng cũng tự mình lả xuống để hòa hợp cùng ngọn gió. Từ cảnh vật ấy, nhà thơ nhìn lại chính lòng mình. Hóa ra điều kì diệu ấy cũng đang xảy ra đến trong tâm hồn con người. “Lòng ta nghe ý bạn”, đây là điều chỉ mới xảy ra lần thứ nhất trong đời. Một sự lắng nghe nhưng không lắng nghe bằng tại mà nghe bằng lòng, người nói thì không nói bằng lời mà lại nói bằng ý, cho nên lòng ta nghe ý bạn. Đây là sự cảm thông, một sự hòa hợp tự nhiên của tâm hồn, không muốn, không định, mà vẫn xảy ra. Và kết quả của điều xảy ra ấy là một nỗi thương yêu. Xuân Diệu rất tinh tế khi dùng mấy tiếng “nỗi thương yêu” để xác định tâm trạng của mình. Đây không phải là yêu, là tình yêu, mà là thương yêu, một tình cảm về sự hòa hợp trọn vẹn, lại không phải là tình mà là nỗi, một nỗi niềm xúc động, rung động của trái tim, không dành riêng cho một đối tượng cá biệt nào cả, cũng không vì một mục đích ngăn ngủi hay tự lợi nào. Từ nỗi thương yêu ấy nhà thơ muốn đi đến tột cùng tình cảm của mình. Lại cũng xảy ra điều rất lạ:
Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đứng chẳng theo gần
Vô tâm, nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần.
Đã “điềm nhiên” lại còn “không vướng chân” hình như nhà thơ dùng từ hơi thừa thãi, nhưng đó chính là cách để nhà thiơ muốn nhấn mạnh vào tâm trạng điềm nhiên, hoàn toàn vô tư của con người. Bởi vậy ở câu thơ tiếp theo, đã “đi lững đứng” lại còn “chẳng theo gần”. Rồi sang câu thứ ba, mở đầu tác giả lại nhấn mạnh: vô tâm. Nghĩa là giữa hai con người, chưa hề có một tình ý gì, một sự chuẩn bị nào, một mong muốn khát khao nào. Thế mà cái điều phải đến vẫn cứ đến, đến như một quy luật, như một lẽ bình thường của trời đất, trong cái khoảng không gian và thời gian đặc biệt của buổi chiều hôm nay:
Anh với em như một cặp vần
Một cặp vần, ấy là sự hòa hợp trọn vẹn của ngôn từ và âm thanh để tạo nên cái điều kì diệu trong đời được gọi là thơ. Sự hòa hợp giữa hai tâm hồn ở đây là như thế, trọn vẹn đến độ hoàn toàn. Xuân Diệu còn nhấn mạnh đây là sự hòa hợp của một cặp vần trong “một bài thơ dịu”. Sự hòa hợp ấy được nâng lên đến độ tuyệt đối.
Từ sự thay đổi của lòng mình, nhà thơ nhìn ra vạn vật xung quanh. Tất cả đều đổi thay như được chinh phục bởi một sức mạnh thần diệu. Vạn vật không còn vô tư, vô cảm nữa, vạn vật cũng có cảm xúc, có linh hồn, cũng biết yêu thương, xao động như con người. Từ một đám mây, một cánh cò, một cánh chim, một bông hoa, một giọt sương, tất cả đều có sự trăn trở bên trong:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần
Những đám mây đã bay hàng ngàn năm trong thơ cổ Việt Nam, trong thơ Đường, thơ Tống, nhưng chưa bao giờ có những đám mây “bay gấp gấp” như trong thơ Xuân Diệu. Những con cò đã từng bay hàng ngàn năm trên đồng ruộng Việt Nam, trong ca dao và thơ Việt Nam, chưa bao giờ có đôi cánh phân vân như trong thơ Xuân Diệu. Đây là cái náo nức, phân vân của một thế hệ mới, thế hệ các nhà thơ hiện đại, các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới.
Thế là nhà thơ đang ngắm nghía cả bề rộng và bề sâu của trời đất, của vạn vật xung quanh, đã cảm nhận cả bề sâu lẫn bề rộng của lòng mình. Tự nhiên, như một sự tổng hợp tất yếu, sự kì diệu cuối cùng lại xảy ra nơi lòng con người:
Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng bằng nhân gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em
Hình như bắt đầu vốn chẳng có gì cả, không có một ý muốn chủ quan nào, cũng chẳng có một sự môi giới khách quan nào tác động. Con người bước đi êm ả giữa mùa thu. Chính nhà thơ cũng đã lấy làm lạ: buổi chiều này nào có gì đâu! Nhà thơ gọi cái buổi chiều này là buổi “chiều hôm ngơ ngẩn”. Ngơ ngẩn nghĩa là thế nào? Nghĩa là rất vớ vẩn, rất bình thường, chẳng có gì đặc biệt đáng người ta quan tâm. Buổi chiều đẹp đến ngơ ngẩn lòng người? Cũng không biết nữa, chỉ biết rằng cái buổi chiều ấy tạo nên sự lạ lùng:
Lòng anh thôi đã cưới lòng em
Anh cưới em ư? Không phải, lòng anh cưới lòng em. Từ “cưới” mà Xuân Diệu dùng ở đây, độc đáo đến lạ lùng, mới mẻ đến vô lí. Ngẫm nghĩ ra ta lại thấy nhà thơ có lí, lòng anh cưới lòng em, đó là sự hòa hợp hai tấm lòng, hai tâm hồn đến độ trọn vẹn, tuyệt đối, sự hòa hợp trong mức độ cao nhất của cảm nhận về hạnh phúc. Từ “thôi” trong câu thơ này cũng rất lạ. “Thôi” nghĩa là thế nào? Nghĩa là đành vậy, đành phải chấp nhận như vậy, không còn cách nào khác, không thể từ chối được, không thể lẩn tránh được. Như vậy, cái việc lòng anh cưới lòng em, cái việc lòng anh hòa hợp với lòng em là việc tự nhiên, như của trời đất, con người không thể tạo ra, con người không thể chối bỏ.
Sao gọi là “thơ duyên”? Duyên vốn được coi như sự hòa hợp mà trời đất tạo ra. Xưa nay đã từng có chuyện:
Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng
Cái duyên trong Thơ duyên của Xuân Diệu chính là cái duyên ấy, nhưng còn bao hàm một cái duyên lớn hơn, cái duyên của vũ trụ, của đất trời, của cuộc sống nói chung. Cái duyên ấy không phải lúc nào cũng có nhưng khi đã có thì nó tạo ra cho cuộc sống sự hài hòa đẹp vô cùng, kì diệu vô cùng.
Không thể nói được thơ Xuân Diệu nghệ thuật vị nghệ thuật. Thơ Xuân Diệu là tình yêu cuộc sống, nó khiến ta biết yêu cuộc sống, biết quí trọng mọi vẻ đẹp của cuộc đời. Tất nhiên, khi biết yêu cuộc đời, con người ta phải biết góp phần làm cho cuộc đời trở nên đẹp hơn.
Phân tích Thơ duyên – Mẫu 2
Xuân Diệu là “ông hoàng thơ tình’ với những vần thơ say đắm, ngọt ngào và mãnh liệt về tình yêu đôi lứa. Mỗi bài thơ đều để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm và ấn tượng riêng. “Thơ duyên” là bài thơ tràn đầy cảm hứng mê say, tin tưởng và đầy phấn khởi cho những giây phút rung động trong tình yêu.
Ngay ở nhan đề tác phẩm, người đọc đã cảm nhận được nét “duyên” của con chữ và nét duyên ngầm trong lòng người. Cảm xúc bao trùm bài thơ chính là niềm hăng say, vui tươi, phơi phới khi có những giây phút rung động đầu đời của một chàng trai mới biết yêu. Người đọc chắc chắn sẽ mê mẩn với những dòng cảm xúc vừa nhẹ nhàng vừa sôi nổi:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Xuân Diệu đã mở đầu bài thơ bằng một không gian thật nên thơ và lãng mạn. Hình như không phải một buổi chiều như một ngày mà là “chiều mộng”. Một buổi chiều lãng mạn, tràn đầy chất thơ, chất nhạc, khiến lòng người say đắm. Một buổi chiều mùa thu nhẹ nhàng, tinh tế có cặp chim đang chuyền nhau trên cành cây mẹ. Một sự hòa quyện, giao thoa thật tuyệt vời giữa thiên nhiên và đất trời. Giọng thơ tuy nhẹ nhàng nhưng tràn đấy hứng khởi.
“Nhánh duyên” trong câu thơ đầu tiên khiến người đọc liên tưởng đến một mối nhân duyên ngầm nào đó nhưng vẫn còn e thẹn, ngượng ngùng.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền
Hai câu thơ như tan ra cùng đất trời, mùa thu hiện hữu rõ từng đường nét và lắng nhẹ vào lòng người. Màu xanh của bầu trời như đang “đổ” xuống vạn vật, tạo nên một màu “ngọc” thật trong lành và dịu mát. Từ “đổ” khiến cho câu thơ bừng sáng lên. Đó như báo hiệu một mùa thu ngọt ngào, tinh tế đã đến. Dường như trời đất của mùa thu luôn có sức hút mạnh mẽ như vậy.
Một buổi chiều thật nên thơ, đầy tình tứ sẽ thêm thi vị hơn khi có câu chuyện tình đôi lứa:
Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu
Hoa ra sự vui tươi của đất trời đều xuất phát từ nỗi rung động “lần đầu” ấy. Hình ảnh con đường “nho nhỏ’ trong câu thơ có điểm xuyết những cành lá đâm ngang như phác họa nên một bức tranh thu nhẹ nhàng, tinh tế đến lạ kỳ. Một không gian khiến cho người đọc ngỡ như mình đang lạc vào cảnh tiên thi vị. Dường như cảnh vật đang tạo cảm giác lâng lâng, nhẹ nhõm của người đang tràn ngập tình yêu. Câu thơ chợt bừng lên niềm reo vui thật khẽ nhưng thật sâu. Thơ Xuân Diệu cứ nhẹ nhàng nhưng đằm thắm như duyên con gái vậy.
Ở những vần thơ tiếp theo, nhân vật chính của tình yêu lần đầu ấy xuất hiện thật nhẹ:
Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững thững chẳng theo gần
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần
Anh chàng thi sĩ đi giữa một con đường mà như có cảm giác đang lạc vào một miền say mê, đắm đuối với tâm thế “lững thững” rất bình tâm, rất nhẹ nhàng và có chút gì đó lưỡng lự. Chàng trai ấy giữ một khoảng cách vừa đủ để cảm nhận được tình yêu đang tan chảy ra cùng mùa thu dịu ngọt, êm ái. Cả “anh” và “em” đều “vô tâm” nhưng dường như ai cũng muốn xích lại gần hơn, gần thêm chút nữa. Bởi ẩn sâu trong suy nghĩ thì câu chuyện tình nhẹ nhàng đó đã như một cặp vần. Những câu thơ nhẹ nhàng, nhịp điệu chậm rãi, khoan thai gieo vào lòng người niềm hân hoan, vui tươi.
Cảnh vật trong bài thơ duyên rất duyên, huyền diệu và tràn đầy vui tươi, làm nền cho tình cảm trở nên lâng lâng:
Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngác vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em
Mùa thu “êm” như khẽ khàng đi vào trái tim của những kẻ đang yêu, chẳng ai bày tỏ nỗi niềm nhưng lại khiến cho mọi thứ lâng lâng. Buổi chiều mưa thu “ngơ ngác” nhưng nhà thơ đã khẳng định chắc nịch “lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Một Xuân Diệu thật duyên, là duyên ngầm, nhưng cũng thật mãnh liệt. Không phải anh cưới em mà là “lòng anh cưới lòng em”.
“Thơ duyên” của Xuân Diệu là bài thơ tràn đầy niềm tin yêu và tràn nhựa sống. Một bài thơ tình nhẹ nhàng, nhưng cũng không kém phần mãnh liệt.
Phân tích Thơ duyên hay nhất
Phân tích Thơ duyên – Mẫu 3
Mỗi khi nhắc đến Xuân Diệu người ta sẽ nhớ ngay tới một thi sĩ với khả năng quan sát tinh tế, tình cảm say mê nồng cháy. Trong các bài thơ của ông, người đọc luôn thấy tình yêu cuộc sống, sự trân quý mọi khoảnh khắc của cuộc đời, của vạn vật và “Thơ duyên” là một trong những bài thơ như vậy. Ở bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được sự tinh tế của thi sĩ trong việc tái hiện sự trôi chảy của thời gian và hồn thu, tình thu cũng được khắc họa rõ nét qua ngòi bút tài hoa này.
“Thơ duyên” là khúc hát say mê, nhạy cảm với cuộc đời. Chữ “duyên” có thể hiểu là sự giao cảm, hòa nhịp với thiên nhiên đất trời, con người. Vốn là một con người dễ rung động trước cái đẹp, lại là người đa sầu đa cảm nên nhà thơ lại càng trân trọng sự chuyển động của thời gian và cụ thể ở bài thơ này là sự chuyển giao giữa hạ sang thu. Không chỉ đến bài thơ này thi sĩ mới viết về mùa thu mà trong tập “Thơ thơ” độc giả cũng đã bắt gặp “nàng thơ” với sự “ngẩn ngơ”, u sầu trong “Đây mùa thu tới”. Còn “Thơ duyên” bắt đầu với những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng.
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,Cây me ríu rít cặp chim chuyền.Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.”
Nhìn tổng thể cảnh vật mùa thu qua khổ một có thể thấy đây là một bức tranh sinh động và nên thơ. Với không gian là buổi “chiều mộng” – lãng mạn, êm ái hòa vào đó “thơ trên nhánh duyên” gợi nên khung cảnh trữ tình. Vạn vật dường như cũng vui mừng, hò reo khi thu về khi có “cặp chim chuyền” đang ríu rít trên “cây me”. Động từ “ríu rít” lột tả được phấn khởi, vui vẻ khi chúng liên tiếp “chuyện trò” với nhau. Hình ảnh cây me cũng gợi nhớ lại Hà Nội xưa cũ, một phần của quê hương xứ sở. Cùng lúc đó cả “bầu trời”, “lá” đều chuyển sang màu ngọc. Sắc màu này đã từng được nhà thơ Hàn Mạc Tử nhắc đến qua “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” (Đây thôn Vĩ Dạ). Màu sắc gợi lên cảm giác trong xanh cùng với động từ “đổ” tạo cảm giác dứt khoát, lan tràn. Bây giờ không gian không chỉ nhuốm màu xanh mà còn tươi vui, rộn rã với “động tiếng huyền”. Cụm từ “thu đến” như một tiếng reo vui mừng, phấn khích cho mơ ước bấy lâu giờ đã thành hiện thực.
Nếu như đối với khổ thơ đầu, tác giả vẽ nên bức tranh thiên nhiên thì khổ kế tiếp nhà thơ đã tinh ý khi lồng vào đó chút tình cảm riêng tư.
“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,Lả lả cành hoang nắng trở chiều.Buổi ấy lòng ta nghe ý bạnLần đầu rung động nỗi thương yêu.”
Từ tầm nhìn trên cao tác giả “kéo” không gian của mình xuống gần hơn. Thi sĩ liên tiếp sử dụng từ láy hoàn toàn như “nho nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả” gợi sự đáng yêu trên nền nắng chiều. Động từ “trở” đầy sức gợi, mang đến cảm giác chuyển mình. Nếu từ “chiều” ở khổ một còn mang nét huyền huyền ảo ảo thì với khổ thơ này nó mang nét mạnh mẽ, “đậm nắng” hơn. Trong cái sắc hương của trời đất khi sang thu, thi sĩ nhớ lại lần rung động đầu tiên của mình. Thêm một động từ nữa cũng kích thích trí tò mò của độc giả không kém là “nghe”. “Nghe” ở nghĩa tường minh tức là sử dụng thính giác để lắng nghe âm thanh của cuộc sống, nhưng ở nhân vật “ta” hành động “nghe” lại chỉ ra được tâm ý, sự thầm thương, phải lòng “cố nhân”. Đó là cách dùng từ vô cùng đặc sắc của tác giả.
“Em bước điềm nhiên chẳng vướng chânAnh đi lững đững chẳng theo gần.”
Hình ảnh của sự “rung động” ấy được tái hiện rõ hơn. Nhân vật “em” và “anh” cùng dạo bước trên con đường nhỏ. “Em” thì hồn nhiên, ngây thơ bước đi không hề bận tâm gì. Còn “anh” thì “lững đững” – trạng thái thoải mái, thong dong. Hai con người xa lạ bỗng gặp nhau trên con đường nhỏ, tưởng xa hóa lại gần. Quả là cái duyên tiền định!
“Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,Anh với em như một cặp vần.”
“Vô tâm” phải chăng là sự lãnh cảm, rời xa hay chính là cái xa lạ nhưng có sự giao lưu, kết nối. Với thủ pháp so sánh nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra quan niệm của mình về chữ “duyên”. Đối với ông thiên nhiên hòa hợp với thiên nhiên, con người say đắm trước cảnh vật vẫn là chưa đủ mà còn một “cặp bài trùng khác” là sự giao duyên giữa con người với nhau. Chẳng thế mà dù em vô tư bước đi không để ý gì về người đằng sau, còn anh thong dong ngắm nhìn trời đất cũng không đoái hoài gì người phía trước nhưng giữa họ lại có sự kết nối như “cặp vần” – gắn bó khăng khít, không thể tách rời. Một nhân sinh quan thật mới mẻ!
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp,Con cò trên ruộng cánh phân vân.Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.”
Khổ bốn mang đến cho độc giả cảnh thu trên không gian rộng lớn. Hoạt động của thiên nhiên cũng dần dồn dập, nhanh chóng hơn. Từ láy “gấp gấp” tạo cảm giác hối hả, thúc giục. Tuy nhiên cụm từ “về đâu” lại đặt ra câu hỏi cho nơi đến của mây. Cùng với mây, con cò dường như cũng “phân vân”, đắn đo không biết nên bay lên cao hay xuống thấp, bay gần hay bay xa. Chiều thu tàn bắt đầu có chút gì đó bâng khuâng, bầu trời trải rộng ra và dường như cánh chim cũng đã thích nghi với điều này để rồi “giang thêm cánh”. Thi sĩ gán cho chim với động từ “nghe” như để sinh vật này hiểu được bầu trời, cảm nhận được thiên nhiên rồi từ đó điều chỉnh để thích nghi. Cách nhà thơ sử dụng cái hữu hạn (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn (bầu trời) là một thủ pháp hay và ý vị. Người đọc dễ dàng hình dung được một cánh chim không mỏi, bay miệt mài trên nền xanh của bầu trời. Và càng chìm dần vào chiều thu, sương càng rơi xuống nhiều. “Hoa lạnh” vì có thể do “đẫm sương” hoặc do cơn gió nào đó. Chiều mùa thu bắt đầu lạnh làm cho người đọc cũng mang chút gì xao xuyến, bâng khuâng.
Đến khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình lại hồi tưởng về mối tình đầu của mình, về những rung động đầu đời lồng ghép vào trong hình ảnh thiên nhiên. Hình ảnh nhân hóa “bước thu êm” như sự chuyển động nhẹ nhàng, dịu dàng của nàng thu. Từ “êm” gợi cảm giác dễ chịu, thoải mái. Trên nền thu dịu dàng , e ấp “anh” lại nói về sự rung động của mình khi gặp em – “lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Động từ “cưới” như một sự chắc nịch rằng anh đã phải lòng em và tấm lòng của anh chỉ hướng tới em. Động từ này còn nói lên sự gắn bó, xem “em” như là “mảnh ghép” còn lại của đời mình.
Bài thơ “Thơ duyên” không chỉ xuất sắc về nội dung mà ở khía cạnh hình thức bài thơ cũng đã làm rất “tròn vai” của mình. Bên cạnh việc sử dụng các từ láy, phép nhân hóa, các từ ngữ đặc sắc một nét khá đặc biệt trong bài thơ là cách ngắt câu. Thường thường ở thơ bảy chữ mà có bốn câu thì chỉ chấm kết thúc ở dòng cuối cùng ở mỗi khổ nhưng với “Thơ duyên” thì khác, dòng một với dòng ba là có dấu chấm phẩy khi kết thúc dòng. Còn dòng hai với dòng bốn là dấu chấm. Tức là hai dòng sẽ tạo thành một câu. Đây là một nét lạ và sáng tạo của Xuân Diệu.
Bằng ngòi bút giàu nhiệt huyết, tình yêu sôi nổi của một con người luôn trân quý, nắm bắt thời gian nhà thơ Xuân Diệu đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên với nhiều hình ảnh, nhiều sắc thái đặc trưng của mùa thu. Cùng với đó tác giả đã viết nên sự rung động đầu đời của mình – sự giao cảm, kết nối giữa những con người tưởng chừng xa lạ nhưng lại là cái duyên đã được sắp đặt sẵn. Tình duyên nảy nở trong tình thu!
Như vậy chúng tôi đã gợi ý Phân tích bài thơ Thơ duyên (Xuân Diệu) bài tiếp theo, các em chuẩn bị cho phần Phân tích bài thơ Khi con tu hú và cùng với phần Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới để có thể hiểu rõ hơn về nội dung này.
Phân tích Thơ duyên – Mẫu 4
Có ai đó đã nói “Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu”. Quả đúng là như thế dù trong suốt cuộc đời cho đến những giây phút cuối, Xuân Diệu không được hưởng trọn vẹn cái ngọt ngào say đắm của tình yêu, hạnh phúc như trong thơ ông thì cái chan chứa, cái say mê của tình yêu tuổi trẻ với nhiều cung bậc khác nhau. Từ mỗi đam mê cuồng nhiệt của mối tình nồng cháy đang ở độ chín muồi như: xa cách đến những rung động ban đầu của một tâm hồn còn nguyên sơ trong trắng với trái tim đang e ấp yêu đương như trong Thơ duyên. Đây là một bài thơ tình yêu rút trong tập thơ đầu tay Thơ thơ của Xuân Diệu diễn tả sự hòa hợp giữa hai trái tim đang yêu với tình yêu vừa chớm nở rất tinh tế và cũng rất thơ mộng.
Bài thơ mở đầu bằng một bức tranh thiên nhiên đẹp rực rỡ:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyênCây me ríu rít cặp chim chuyềnĐổ trời xanh ngọc qua muôn láThu đến – nơi nơi động tiếng huyền
Bức tranh về một buổi chiều tuyệt đẹp như mộng: có âm thanh ríu rít của tiếng chim, có màu xanh ngọc suốt bầu trời trút qua ngàn lá, có cả đường nét hài hòa. Vần thơ hòa xao xuyến trên “nhánh duyên” chiều mộng và hơn nữa có cả âm thanh huyền diệu, đất trời ngân vang tiếng đàn tình yêu rạo rực. Bức tranh ấy được vẽ ra bởi một người với trái tim lần đầu rung động. Hình như hơi thở tình yêu làm cho lòng người vui hơn. Tình yêu thổi vào cảnh vật hơi ấm và sự sống tràn trề nhuốm vào cảnh vật vẻ đẹp diệu kì làm cho cảnh sắc bừng lên tươi tắn:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Câu thơ nghe rạo rực tiếng lòng một con người đang tràn ngập hạnh phúc. Chiều trong mắt người sao mà đẹp thế, không phải là một buổi chiều bình thường mà là buổi chiều mộng – chiều đẹp – đẹp như giấc mơ tình yêu. Những vần thơ trữ tình ngân nga trong lòng người cũng như xao xuyến, hòa quyện, quấn quýt trên cành cây ngọn lá, xao xuyến cả trời chiều. Và những nhánh cây cũng trở thành “nhành duyên”, nhánh cây tình yêu – nhánh cây mang màu hạnh phúc.
Khắp không gian rộn vang những âm thanh tươi vui của chim chóc
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Không là chim chuyền ríu rít mà là ríu rít chim chuyền, đảo từ “ríu rít” đã là cho âm thanh tiếng chim vang hơn, rộn ràng hơn, tươi vui hơn, âm thanh như chan hòa cả vào trời chiều thơ mộng. Đâu phải chỉ có con người mới tìm về hạnh phúc, đâu phải chỉ có con người mới say đôi lứa, đâu phải chỉ có con người ngây ngất với tình yêu, mà chim chóc cỏ cây cũng có đôi lứa, cũng hạnh phúc ấm êm “cặp chim chuyền”.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn láThu đến nơi nơi động tiếng huyền
Gam màu pha nắng những thanh tạo cho bức tranh màu rực rỡ mà không làm cho người đọc chói mắt bởi “màu xanh ngọc” của trời. Bầu trời trong mắt con người đang yêu xanh một màu xanh trong suốt, thanh khiết vời vợi như rót qua muôn ngàn cây lá, đôi mắt mênh mang của người yêu khiến người ta như muốn hứng lấy, uống lấy màu trời. Cảm tưởng dòng xanh đang thấm dần dịu ngọt trong tâm khảm, có người cho rằng “tiếng huyền” ở đây là tiếng đàn mùa thu đến, nơi nơi ngân vang tiếng đàn, có lẽ là tiếng đàn thật nhưng cũng có lẽ là tiếng đàn của đất trời, cỏ cây cảnh vật – những âm thanh huyền diệu của không gian. Tình yêu chớm nở giữa mùa thu đem đến cho đất trời lung linh những âm thanh tuyệt diệu, náo nức vui tươi, như âm thanh chỉ có thể nghe thấy được bởi trái tim đang rạo rực niềm yêu:
Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêuLả lả cành hoang nắng trở chiều,Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn,Lần đầu rung động nói thương yêu
Rõ ràng bức tranh thiên nhiên ở đây không phải là một bức tranh tĩnh mà là một bức tranh động, một bức tranh thiên nhiên biến đổi rất tinh tế. Ngòi bút nhạy bén của Xuân Diệu đã miêu tả rất chính xác những biến thái tinh tế đó. Những từ láy “nho nhỏ”, “xiêu xiêu”? “lả lả” diễn tả sự chuyển động nghiêng nghiêng của cảnh vật dưới một con mắt nhìn say say gần như là chuếnh choáng: phải chăng đó là cái say của tình yêu, độ nghiêng của trái tim trong hạnh phúc? Con đường như nhỏ đi chật hẹp với tình yêu của hai người, gió lướt làm lung lay cành lá, cảnh vật chuyển động thật tự nhiên:
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạnLần đầu rung động nỗi thương yêu
Hình như người con trai cũng ý thức được rằng người bạn gái đó cũng rất mến mình, dễ chừng trái tim kia cũng dạng hồi hộp “đập”. “Hai trái tim chung một điểm tình” và trái tim anh xao xuyến những nhịp rung của tình yêu đầu: “lần đầu rung động nỗi thương yêu”
Em bước điềm nhiên không vướng chânAnh đi lững đững chẳng theo gần
Xuân Diệu thật tài tình khi đi sâu miêu tả tâm trạng của hai người. Tác giả hóa thân vào cả hai nhân vật, tự phân tích diễn biến của lòng mình, cũng là tâm lí chung của bao nam thanh nữ tú buổi đầu tiên biết yêu. Cả hai đều cố tỏ ra vô tâm, vô tình. Người con gái thẳng thắn bước đi như không để ý đến ai, như chẳng quan tâm đến ai và cũng chẳng cần biết có ai quan tâm đến mình. Anh con trai cũng thế: “lững đững bước theo sau”, không tiến nhanh cũng không đi chậm thẳng thắn bước có ý dè chừng người con gái, luôn luôn giữ một khoảng cách nhất định dù chỉ đủ để nhìn thấy người con gái chứ không dám làm phiền người mình yêu.
Song đằng sau cái “điềm nhiên không vướng chân” ấy, đằng sau cái “lững đững chẳng theo gần” ấy là tất cả những rung động e ấp mà thiết tha, trìu mến của tình yêu chớm nở. Đến đây câu thơ như có sự bộc bạch:
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịuAnh với em như một cặp vần
Xuân Diệu đã sáng tạo ra một hình ảnh rất mới lạ và độc đáo. Tình giữa “anh và em” như một cặp vần quấn quýt như giữa bản nhạc êm. Cuộc đời là một bài thơ dịu, một bài thơ không lời, êm ái và hai người như cặp vần, như đôi nốt nhạc hòa quyện vào nhau dìu dắt. Còn gì tha thiết hơn thế.
Mây biếc về đâu bay gấp gấpCon cò trên ruộng cánh phân vânChim nghe trời rộng giang thêm cánhHoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.
Nét bút tác giả chuyển hướng sang tả cảnh, nhịp thơ có sự chùng xuống, cảnh cũng trầm buồn hơn.
Mây biếc về đâu bay gấp gấpCon cò trên ruộng cánh phân vân
Ở đây có sự đối lập giữa mây và cánh cò, mây thì bay gấp gấp còn cánh cò thì lại “trên ruộng cánh phân vân”, nửa muốn bay nửa muốn không. Hai hình ảnh trái ngược của thiên nhiên hay là mâu thuẫn trong lòng người. Cuộc sống đang hối hả trôi, con người muốn bay gấp tới tình yêu nhưng lại rụt rè e lệ, thậm chí còn xen cả sự lo lắng. Tác giả hiểu và biểu hiện tế nhị điều này. Cái phân vân của cánh cò trên ruộng lúa đồng quê được đặt đối xứng với cái bay gấp gấp của mây biếc tạo nên một vẻ đẹp mới lạ của thơ ca truyền thống.
Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới (Hoài Thanh). Hai câu sau, sự can thiệp của chủ thể trữ tình đã rõ hơn nhưng vẫn rất tế nhị, khéo léo:
Chim nghe trời rộng giang thêm cánhHoa lạnh chiều thưa sương xuống dần
Trời dần về chiều, không gian xám trong màn sương giăng giăng, trời càng như rộng hơn, cánh chim nhỏ như đuối sức. Hai con người bỗng cảm thấy cuộc tình mênh mông quá, đời người như đôi cánh chim bé nhỏ ngợp mình giữa mênh mông trời đất muốn giang rộng thêm để bay giữa bầu trời bao la.
Mặc cảm buồn thoáng hiện kín đáo trong câu thơ trên thì đến câu thơ tiếp theo đã thấm dần vào hồn người qua cảm giác lạnh của hoa trong sương và trong ánh nhạc ban chiều.
Bài thơ kết thúc bằng những vần thơ dịu dàng, êm ái, bằng một khúc nhạc tình không lời mà tha thiết:
Ai hay tuy lặng bước thu êmTuy chẳng búng nhăn gạ tô niềmTrông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậyLòng anh thôi đã cưới lòng em
Chiều thu theo bước chân âm thầm của hai người kết nên một mối tình lặng lẽ, mối tình bắt đầu từ hai trái tim hòa hợp gắn bó, mối tình không cần mai mối. Đây chính là một mối tình hiện đại lí tưởng, biểu hiện của một tình yêu đích thực lần đầu tiên xuất hiện trong thơ. Giữa buổi chiều thơ mộng ấy, dù là từ sớm nở “buổi ấy lòng ta nghe ý bạn” dù chẳng nói nên lời “ai hay tuy lặng bước thu êm” nhưng đã hứa hẹn một điều gì rất tha thiết bền chặt “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”.
Có thể nói Xuân Diệu đã rất thành công khi diễn tả tinh tế những biến thái tinh vi của cảnh sắc thiên nhiên và của lòng người. Những hình ảnh từ ngữ mới lạ rất thơ, rất Xuân Diệu đã giúp chủ thể trữ tình tự phân tích thế giới tâm hồn mình một cách tinh tế để biểu hiện một tình yêu chớm nở chưa hẹn thề, còn e ấp nhưng đã tha thiết gắn bó.
Bài thơ cũng nói đến sự giao duyên của đất trời, đó là sự hòa quyện giao cảm của tâm hồn người đang yêu với thiên nhiên vũ trụ.
Bài thơ kết thúc nhưng dư âm của một tình yêu tha thiết thì vấn vương mãi. Những rung động tinh tế, những xúc cảm mới mẻ của chủ thể trữ tình trước một tình yêu say đắm khiến cho bài thơ thêm sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Bài thơ đẹp mãi trong lòng người đọc, đặc biệt là trái tim tuổi trẻ và biết đâu nó đã chẳng là lời thổ lộ tâm tình lúc ban đầu của duyên thầm bao lứa đôi.
Phân tích Thơ duyên – Mẫu 5
Hồn thơ Xuân Diệu luôn mở rộng ra cả đất trời và cõi người. Nó luôn khao khát được giao cảm với con người, thiên nhiên, vũ trụ. Thơ duyên biểu hiện điều ấy.
Thơ duyên chưa hẳn là bài thơ tình vốn rất đắm say sôi nổi trong thơ Xuân Diệu. Bài thơ có anh và em họ đi xa nhau như không quen biết. Em thì “điềm nhiên” anh thì “lững thững” và cả hai đều “vô tâm”.
Có lẽ duyên ở đây là “tác hợp cơ trời” của thiên nhiên, vũ trụ và lòng người. Sự hòa thơ, hòa nhạc âm thầm, mãnh liệt và đầy quyến rũ. Nó khởi đầu từ cái “buổi ấy lòng ta nghe ý bạn” để rồi nhìn đâu cũng thấy chiều mộng, nghe đâu cũng động tiếng huyền nó vô thanh với tác nhưng náo nức con tim.
Tất cả đều cặp đôi trong yêu thương đắm đuối, mỗi lúc một mãnh liệt, lơi lả. Chiều mộng thì hòa thơ với nhánh duyên, trên cây me thì cặp chim ríu rít như không biết buổi chiều mà ngỡ là sáng bình minh. Chim chuyền cành này qua cành khác, bầu trời trong xanh thì như đổ tràn ánh sáng như ngọc lấp lánh qua muôn lá, mùa thu tới thì khắp nơi như tiếng nhạc đón mừng (“động tiếng huyền” – tiếng huyền là tiếng đàn), con đường “nho nhỏ” thì đi với gió “xiêu xiêu”, cành hoang thì lả tả như có tình với “nắng chiều”, con cò trên ruộng thì như cảm thông với “Mây biếc về đâu bay gấp gấp” nên cánh nó cũng “phân vân”, chim cũng thế, hoa cũng vậy, tất cả đều giao hòa cảm thông như vốn có duyên với nhau tự bao giờ. Và tất nhiên con người cũng thế, anh với em tuy chưa quen biết nhau và cũng chẳng có mối lái gì (băng nhân) mà tự nhiên cũng cứ đi sóng đôi với nhau nhịp nhàng như “một cặp vần” trong bài thơ, thậm chí “Lòng anh thôi, đã cưới lòng em”…
Cảnh trong thơ tươi tắn, trong sáng, tình trong thơ thì hòa hợp nhịp nhàng. Đây là một bài thơ vui tuy viết về một cảnh chiều thu. Trong thơ truyền thống, cảnh chiều mà lại là chiều thu thì nói chung là buồn. Thơ xưa nói đến cảnh chiều thì thường có chim mỏi về rừng, người lữ thứ tha hương thì nhớ nhà, chân bước vội. Còn mùa thu thì lá vàng rơi rụng, hoa sen tàn tạ trên các đầm ao… ở đây cảnh chiều thu lại vui. Xuân Diệu có bài thơ xuân không mùa, nghĩa là mùa nào cũng là xuân cả, vì xuân tự trong lòng nhà thơ tỏa ra trời đất bốn mùa:
“Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm,
Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu.
Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều.
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng…”
Nhưng cảnh thu thực ra cũng có cái vui của nó chứ, nhất là mùa thu ở một nước nhiệt đới như nước ta. Xuân Diệu là nhà “Thơ mới”, ông không nhìn cảnh vật theo công thức, ước lệ của thơ cổ, ông khám phá cái đẹp, cái vui của mùa thu có thật trên đất nước bằng con mắt chân thật của mình và thấy mùa thu rất thơ mộng: “Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên”, không khí mùa thu khô ráo và sáng, trời thu thì cao và trong xanh, khí hậu mùa thu không nóng và chưa rét, con người cảm thấy dễ chịu, tâm hồn thơ thới sảng khoái, gió rì rào trong lá cành, chim chóc ríu rít, nghe như đâu đây vang vọng lại tiếng nhạc của đất trời:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”.
Nhưng niềm vui của mùa thu không ồn ào mà êm ái dịu dàng. Phải có một tâm hồn lắng nghe, tinh tế và nhạy cảm mới thấy hết được. Nhà thơ đi giữa đất trời như đi giữa một “bài thơ dịu”, không dám ồn ào, chỉ “lững đững” trên đường, lắng nghe bước đi nhẹ nhàng êm ái và lặng lẽ của mùa thu:
“Ai hay tuy lặng bước thu êm”.
Và cũng lắng nghe nơi lòng mình niềm cảm thông với vạn vật và nỗi khao khát thương yêu, khao khát hòa hợp với mọi người, nhất là với cô gái nào kia ngẫu nhiên cùng bước lên đường.
– Trong thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh có một nhận xét rất tinh tế về Xuân Diệu: “… Sự sống muôn hình thức nhưng hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trong rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sống. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi!”.
Bài Thơ duyên là một trường hợp Xuân Diệu bày tỏ sức sống của mình trong những cảm nhận hết sức tinh vi về thiên nhiên và sự sống. Nhìn chung cảnh thơ yên tĩnh mà vẫn có một cái gì xôn xao từ trong lòng sự vật, chỉ cảm thấy được nhưng khó phân tích, diễn giải cho rõ ràng:
“… Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”
“… Con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả tả cành hoang, nắng trở chiều”.
Bình hai câu thơ trên, Hoài Thanh viết: “Cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Nó chỉ mất một tí rõ ràng để được thêm rất thơ mộng”.
Thiên nhiên đúng là có hồn, nó lặng lẽ vận động, nhưng chỉ là những biến thái tinh vi không thể gọi tên ra được. “Nắng trở chiều” là màu sắc thế nào? Thật khó nói rõ ra được.
Sự cảm nhận còn tỏ ra tinh vi hơn nữa trong mấy câu thơ này:
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng dang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”.
Hoài Thanh viết: “Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay tới ráng chiều (“Lạc hà dữ cô lộ tề phi – Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”, dịch là: “Ráng chiều và cánh cò đơn chiếc láng bay – Nước mùa thu cùng trời thu một sắc”) đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới”.
Sự cách biệt ấy thể hiện ở chỗ, một đằng thì tả sự vận động bên ngoài, mắt thường thấy được, một đằng thì cảm nhận được sự vô hình, chỉ mới có trong gân cốt của cánh cò.
Cũng như vậy: “Chim nghe trời rộng dang thêm cánh – Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”, nhà thơ dường như nhận thấy cái cảm giác trống trải rợn ngợp của con chim trước không gian cao rộng, và cái cảm giác se lạnh của bông hoa khi sương chiều buông xuống…
Bài thơ giúp ta hiểu được ở Xuân Diệu một hồn thơ yêu đời, yêu sống, khao khát giao cảm với thiên nhiên, với con người. Nó cũng giúp ta cảm nhận được một cảnh vật thu tươi tắn, trong trẻo thơ thới, êm ả, dịu dàng, như gợi mát tâm hồn ta. Nó còn giúp ta mài sắc cảm giác của mình để biết kĩ lưỡng hơn, tinh tế hơn với cuộc sống này trong mỗi giây phút của đời mình.
Phân tích Thơ duyên – Mẫu 6
Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình Việt Nam, thơ của ông luôn nồng nàn, đắm say và ẩn chứa một tình yêu mãnh liệt đến khao khát cháy bỏng. Tuy nhiên bên cạnh những bài thơ sôi nổi như vậy, ta lại có thể bắt gặp một Xuân Diệu khác, dịu dàng, nhẹ nhàng, say đắm trong bài “Thơ duyên” – một tác phẩm ca ngợi cái duyên, sự hòa hợp đến kì diệu xảy đến trong một buổi chiều thu.
Bài thơ mở đầu bằng một bức tranh t hiên nhiên rộng lớn, có hình khối, có màu sắc, có cả âm hữu thanh và vô thanh. Tất cả quy tụ ở vòm me xanh trong một buổi chiều thu:
“Chiều mộng hòa trên nhánh duyênCây me ríu rít cặp chim huyềnĐổ trời xanh ngọc qua muôn láThu đến – nơi nơi động tiếng huyền”
Chiều thì “mộng”, nhánh thì “duyên”, quả thật đây là lúc cả không gian và thời gian đều thi nhau hiện ra vẻ tuyệt mĩ của mình. Bởi vậy mối quan hệ giữa chiều thu và nhánh cây mùa thu là một mối quan hệ tuyệt mĩ: hòa vào nhau. Nhìn từ góc độ hòa quyện ấy, thiên nhiên hiện lên trong con mắt của nhà thơ thật tuyệt diệu. cặp chim đang chuyền cành trên cây me, ríu rít trò chuyện, tạo nên một bản nhạc sống động giữa không gian. Lá vốn xanh, trời cũng vốn xanh nhưng nhờ trời đổ một màu xanh ngọc mà muôn lá lại càng xanh mướt hơn nữa. Cái màu xanh kì diệu ấy dường như mang lại sức sống cho vạn vật, cho cả bài thơ. Dòng thơ thư tư là một tiếng “huyền” rất bí mật. Có một điều gì đó thật là huyền bí, thật là đẹp đẽ, chi phối cả vũ trụ, tạo nên mọi vẻ đẹp lúc này. Nó như một âm thanh không nghe thấy được nhưng huyền diệu vô cùng. Lắng nghe được tiếng “huyền” ấy của vũ trụ, nhà thơ nhìn vào cảnh vật xung quanh mình: tất cả những điều bình thường bỗng trở nên khác thường, chúng đẹp hơn, đáng yêu hơn, có tình hơn, hòa hợp hơn:
“Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêuLả lả cành hoang nắng trở chiềuBuổi ấy lòng ta nghe ý bạnLần đầu rung động nỗi thương yêu”
Con đường như nhỏ lại để trở nên đẹp hơn. Ngọn gió chiều thổi se sẽ hơn, nương nhẹ hơn bởi ngọn gió như ý thức được việc đang làm. Những cành hoang lả xuống trước ngọn gió “xiêu xiêu” hay là do những cành lá ấy tự mình rủ xuống để hòa hợp hơn với ngọn gió. Con đường, cành cây, gió, nắng đều là những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống, quen thuộc đến mức đôi khi ta không còn để ý chúng ra sao nhưng khi kết hợp với các từ láy “nho nhỏ”, “lả lả”, “xiêu xiêu” và dáng điệu của nắng “trở chiều” một cách duyên dáng, kiểu cách đã khiến đã khiến cho mọi sinh vật trở nên có hồn người. Ta tưởng như thiên nhiên đang đi vào hồn mình, đi vào cuộc tình của mình mỗi lúc một sâu sắc, gắn bó. Từ cảnh vật, nhà thơ nhìn vào lòng mình: “Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn”. Một sự lắng nghe nhưng không lắng nghe bằng tai mà lắng nghe bằng tiếng lòng, người nói thì không nói bàng lời mà nói bằng ý. Đây là sự cảm thông, một sự hòa hợp của tâm hồn không muốn, không định nhưng vẫn xảy ra “Lần đầu rung động nỗi thương yêu”. Đây không phải là yêu, là tình yêu mà là thương yêu, một tình cảm về sự hòa hợp trọn vẹn, lại không phải là tình mà là “nỗi” một nỗi niềm xúc động, rung động của trái tim, không dành riêng cho một đối tượng cá biệt nào cả. Từ nỗi thương yêu ấy, nhà thơ muốn đi đến tột cùng cảm xúc của mình:
“Em bước điềm nhiên không vướng chânAnh đi lững đững chẳng theo gầnVô tâm – nhưng giữa bài thơ dịuAnh với em như một cặp vần”
Cái “điềm nhiên” và cái “lững đững” chỉ tạo ra một khoảng cách giả tạo. Cặp đôi đã chuyển biến về đại từ nhân xưng. “Ta” và “bạn” đã trở thành “anh” và “em”. Hai con người ấy hoàn toàn vô tư, em thì “điềm nhiên” như chẳng hay biết, anh thì “lững đững” từ từ lối theo gót em một cách tình cơ. Sự vô tư ấy cứ ngỡ rằng thành “vô tâm”, bởi giữa họ chưa hề có một tình ý gì, một sự chuẩn bị, một mong muốn, khát khao nào. Nhưng họ lại trở thành “cặp vần” trong một “bài thơ dịu”, tạo thành cấu trúc cho một bài thơ. “cặp vần” ngỡ rất “vô tâm” với nhau bởi trong mọt bài thơ chúng thường đứng cách xa nhau nhưng chúng nhất thiết phải có cặp với nhau, bởi nếu chỉ tồn tại riêng lẻ, thì còn ai gọi là vần nữa. Cũng giống như nếu không có em thì anh cũng chỉ là vô nghĩa mà thôi bởi bên trong họ đã mắc phải tơ duyên. Đến khổ thơ thứ tư, ta thấy cảm xúc đột nhiên biến diệu, tất cả quan hệ cặp đôi đã trở nên lẻ loi, buồn bã:
“Mây biếc về đâu bay gấp gấpCon cò trên ruộng cánh phân vânChim nghe trời rộng giang thêm cánhHoa lạnh chiều thưa xuống xuống dần”
Hình ảnh “mây biếc” và hình ảnh “con cò” là hai cá thể tồn tại độc lập với nhau. Một bên thì bay “gấp gấp”, mọt bên thì “phân vân” nửa muốn đi nửa muốn ở lại. Trạng thái nước đôi này đủ biểu hiện một sự mặc cảm tất yếu về sự chia ly, đổ vỡ trong tình ái. Khi chưa nắm bắt được đối tượng mà mình hết lòng, mà trao hết hi vọng vào đó thì sự run rẩy tội nghiệp của Xuân Diệu, sự phân vân của cánh cò là điều tất yếu. con chim càng giang thêm cánh nghĩa là ước vọng nhiều hơn thì sẽ thấy nỗi cô đơn cùng sự trống trải ngày càng lớn hơn. Từ “phân vân” biểu hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình, nên đi tiếp hay gừng lại, có nên tiến sau vào con đường tình ái hay là nên rút lui?
Từ những suy tư như vậy, nhà thơ đã rút ra một quan niệm nhân sinh trong khổ thơ cuối”.
“Ai hay tuy lặng bước thu đêmTuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềmTrông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậyLòng anh thôi đã cưới lòng em”
Nhà thơ cho rằng, tình yêu không cần một sự mai mối nghi thức nào cả mà tình yêu xuất phát từ một nguyên nhân đặc biệt. Con người ta đầu tiên do “ngơ ngẩn” với nhau mà dần dẫn đến đắm chìm trong tình yêu. Với tình yêu, chữ “duyên” do ông trời ban tặng là không thể nào dùng lý lẽ thông thường lý giải được và cũng chẳng bao giờ có thể nắm bắt và điều khiển được. Chính vì thế “lòng anh” đến với “lòng em” là một quy luật rất đỗi tự nhiên do ông trời sắp đặt. Nhà thơ cho rằng “lòng cưới lòng” là cái tình yêu đích thực nhất.
Xuyên suốt bài thơ “Thơ duyên”, hình ảnh con người luôn hòa quyện vào với thiên nhiên, tình yêu của con ngươi luôn hòa hợp với tình yêu của trời đất, vũ trụ. Con người và thiên nhiên đã sống trong không khí của chữ “duyên”, tuy mơ hồ nhưng định sẵn một tình yêu.
Phân tích Thơ duyên – Mẫu 7
Xuân Diệu đã viết về mùa xuân với tất cả sự say đắm, nồng nàn:
... "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần...
... Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi"...
Thi sĩ cũng đã đến với mùa thu trong bâng khuâng, man mác. Viết về mùa thu, Xuân Diệu có một lối nói riêng đầy thi vị, tứ thơ mới mẻ, cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cái hồn thu của đất trời, quê hương xứ sở. "Thơ duyên" là một bài thơ thu độc đáo nhận diện cảnh thu, tình thu qua tâm hồn thơ mộng của một chàng trai đa tình và tài hoa lãng mạn.
"Thơ duyên" - một thi đề rất thơ. Cái "duyên" được thi sĩ nói đến là sự tương giao nhiệm mầu của vũ trụ, thiên nhiên và con người, trước hết là những chàng trai, cô gái "hồn xanh như ngọc bích".
Một buổi chiều thu tuyệt đẹp - "chiều mộng" - êm ái, nhẹ nhàng như ru, tạo vật như đang "hóa thơ trên nhánh duyên". Nhành cây mềm mại đung đưa duyên dáng theo làn gió thu nhẹ giữa sương khói tà dương. "Con gió xinh thì thào trong lá biếc" ("Vội vàng"), cả một trời thu "nơi nơi động tiếng huyền". Tiếng nhạc, tiếng đàn du dương, dịu ngọt như ru hồn người vào cõi mộng. Tiếng gió hoà điệu với tiếng chim ríu rít. Trên ngọn me "cặp chim" vừa chuyền cành vừa hót, biết bao âu yếm và yêu thương. Cây me cũng như cây sấu là hình ảnh thân thuộc của đường phố cổ Hà Nội. Ta như được sống lại phố cũ yêu thương của đất Tràng An hơn nửa thế kỉ trước. Đã từng biết "khúc nhạc thơm"; "khúc nhạc hường", giờ đây ta lại được thưởng thức "tiếng huyền" của buổi "chiều mộng":
"Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đồ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền".
Cảnh thu có gió reo, chim hót. Còn có trời thu xanh trong, đẹp như ngọc; tất cả màu xanh ấy của trời thu như "đổ" xuống, như tràn qua muôn lá, cỏ cây ánh ngời lên sắc ngọc với trời thu, sắc ngọc ấy ai có thể quên? Sau này, thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng viết trong bài "Đây thôn Vĩ Dạ”: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"... Màu ngọc của lá cũng là sắc thu làm nên cái hồn thu.
Khổ một nói đến gió, cây và cặp chim chuyền - cảnh vật hòa hợp tương giao, gắn bó; cái "duyên” ấy được cảm nhận qua tâm hồn một thi sĩ hào hoa, đa tình . Khổ hai nói về con đường và trái tim "rung động nỗi thương yêu". "Nhỏ nhỏ"... “ xiêu xiêu"... "lả lả" - bây nhiêu nét vẽ tinh tế hiện lên trên một gam màu vàng nhạt của ngày thu tàn "nắng trở chiều". Hồn thu của bức tranh quê gợi một nỗi buồn đẹp. "Buổi ấy", trái tim "ta" xao xuyến, "rung động" một tình thu. Thi sĩ đi giữa đất trời, lắng nghe tiếng đập nhẹ của con tim, tâm hồn rộng mở giao hòa đi vạn vật, với con người, một thiếu nữ đang nhẹ bước trên đường:
"Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu".
"Em" và "anh" cùng dạo bước trên đường. "Em" bước đi "điềm nhiên", trông tự nhiên, hồn nhiên, duyên dáng. Anh cũng đang say sưa ngắm cảnh đất trời, bước chân "lững đững" - thong thả, ung dung. Cuộc ngẫu gặp của đôi lứa thanh tân, tưởng "vô tâm" mà hình như đã có cái "duyên" trời sắp sẵn. Chẳng hò hẹn gì mà nhiều bâng khuâng!
"Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần".
Cặp câu song hành bình đối nhiều ý vị "Anh với em" đẹp như một cặp vần trong "bài thơ dịu". Cặp vần ấy ngân lên "rung động nỗi thương yêu". Một so sánh độc đáo nói lên cái "duyên" lứa đôi:
"Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần".
Cảnh vốn đẹp, giờ thêm người đẹp, sự giao hòa, giao cảm càng muôn phần tăng lên, sắc thu trong sáng, tình thu thanh khiết mơ màng. Bức tranh thu được dệt thêu bằng cái duyên của sự sống và một tình yêu rạo rực, xôn xao. Đúng như nhà văn Hoài Thanh đã nhận xét: "Xuân Diệu say đắm cảnh trời... khi vui, khi buồn đều nồng nàn, da diết...”
Khổ bốn nói về cảnh thu trên một không gian rộng và lạnh. Một áng mây chiều và một cánh cò thân thuộc của đồng quê. Không phải là mây xám. Cũng không phải "Mây trắng nghìn năm bay chơi vơi" ("Lầu Hoàng Hạc" - Thôi Hiệu). Mà là mây biếc, mây tuyệt đẹp. Hai chữ "về đâu" đầy gợi cảm. Hỏi mây hay hỏi nàng thiếu nữ? Cảnh vừa thực vừa mộng, nhiều man mác, bâng khuâng. Câu thơ "Con cò trên ruộng cánh phân vân" là một sáng tạo rất độc đáo của Xuân Diệu. Hình tượng thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong vị Đường thi và thơ mới. "Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới" (Hoài Thanh). Hình ảnh "cánh phân vân" đặc tả dáng cò đang lững lờ đôi cánh, không biết nên bay cao hay bay thấp, bay gần hay bay xa, bay lên hay đậu xuống...
Chiều thu tàn, bầu trời như trải rộng thêm ra. Cảm nhận ấy được diễn tả qua hai câu thơ tuyệt bút:
"Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần".
Lấy cái hữu hạn, cô đơn, bé nhỏ (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn, mênh mông (bầu trời) là một nét vẽ tài hoa. "Chim nghe...” - sự chuyển đổi cảm giác đầy thi vị. Cánh chim nhỏ nhoi, bay miết, in dáng trên nền trời chiều bao la. Hoàng hôn buông xuống, sương thu chớm lạnh. Hoa khép cánh dần...
Thời gian nhẹ nhàng trôi "bước thu êm". Tâm hồn thi nhân dào dạt tình thương mến. Chan hòa cùng đất trời, tạo vật. Mọi tâm hồn sẽ tự tìm đến với nhau và "thắm lại" (Xuân Hương), cần chi băng nhân? Nhà thơ khe khẽ reo lên: "Lòng anh thôi đã cưới lòng em". Phải chăng ý câu thơ này: "Anh đã phải lòng em" như có người đã hiểu?
"Thơ duyên" đã tồn tại hơn nửa thế kỉ mà vẫn "duyên" vẫn đẹp. Bởi lẽ cảnh thu tuyệt đẹp, thơ mộng. Tình thu trong sáng, bâng khuâng. Từ chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến đến "Thơ duyên", hơn bao giờ hết, ta cảm nhận sâu sắc rằng, "Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới”. Chim đã có đôi, có cặp rồi, cho nên "Lòng anh thôi đã cưới lòng em" vậy. Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy. "Thơ duyên" là một bài thơ tình của Xuân Diệu. Trong tuyển tập "100 bài thơ tình", "Thơ duyên" mang vẻ đẹp một "hoa khôi" sáng giá.
Phân tích Thơ duyên – Mẫu 8
Mỗi khi nhắc đến Xuân Diệu người ta sẽ nhớ ngay tới một thi sĩ với khả năng quan sát tinh tế, tình cảm say mê nồng cháy. Trong các bài thơ của ông, người đọc luôn thấy tình yêu cuộc sống, sự trân quý mọi khoảnh khắc của cuộc đời, của vạn vật và "Thơ duyên" là một trong những bài thơ như vậy. Ở bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được sự tinh tế của thi sĩ trong việc tái hiện sự trôi chảy của thời gian và hồn thu, tình thu cũng được khắc họa rõ nét qua ngòi bút tài hoa này.
"Thơ duyên" là khúc hát say mê, nhạy cảm với cuộc đời. Chữ "duyên" có thể hiểu là sự giao cảm, hòa nhịp với thiên nhiên đất trời, con người. Vốn là một con người dễ rung động trước cái đẹp, lại là người đa sầu đa cảm nên nhà thơ lại càng trân trọng sự chuyển động của thời gian và cụ thể ở bài thơ này là sự chuyển giao giữa hạ sang thu. Không chỉ đến bài thơ này thi sĩ mới viết về mùa thu mà trong tập "Thơ thơ" độc giả cũng đã bắt gặp "nàng thơ" với sự "ngẩn ngơ", u sầu trong "Đây mùa thu tới". Còn "Thơ duyên" bắt đầu với những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng.
"Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền."
Nhìn tổng thể cảnh vật mùa thu qua khổ một có thể thấy đây là một bức tranh sinh động và nên thơ. Với không gian là buổi "chiều mộng" - lãng mạn, êm ái hòa vào đó "thơ trên nhánh duyên" gợi nên khung cảnh trữ tình. Vạn vật dường như cũng vui mừng, hò reo khi thu về khi có "cặp chim chuyền" đang ríu rít trên "cây me". Động từ "ríu rít" lột tả được phấn khởi, vui vẻ khi chúng liên tiếp "chuyện trò" với nhau. Hình ảnh cây me cũng gợi nhớ lại Hà Nội xưa cũ, một phần của quê hương xứ sở. Cùng lúc đó cả "bầu trời", "lá" đều chuyển sang màu ngọc. Sắc màu này đã từng được nhà thơ Hàn Mạc Tử nhắc đến qua "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" (Đây thôn Vĩ Dạ). Màu sắc gợi lên cảm giác trong xanh cùng với động từ "đổ" tạo cảm giác dứt khoát, lan tràn. Bây giờ không gian không chỉ nhuốm màu xanh mà còn tươi vui, rộn rã với "động tiếng huyền". Cụm từ "thu đến" như một tiếng reo vui mừng, phấn khích cho mơ ước bấy lâu giờ đã thành hiện thực.
Nếu như đối với khổ thơ đầu, tác giả vẽ nên bức tranh thiên nhiên thì khổ kế tiếp nhà thơ đã tinh ý khi lồng vào đó chút tình cảm riêng tư.
"Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu."
Từ tầm nhìn trên cao tác giả "kéo" không gian của mình xuống gần hơn. Thi sĩ liên tiếp sử dụng từ láy hoàn toàn như "nho nhỏ", "xiêu xiêu", "lả lả" gợi sự đáng yêu trên nền nắng chiều. Động từ "trở" đầy sức gợi, mang đến cảm giác chuyển mình. Nếu từ "chiều" ở khổ một còn mang nét huyền huyền ảo ảo thì với khổ thơ này nó mang nét mạnh mẽ, "đậm nắng" hơn. Trong cái sắc hương của trời đất khi sang thu, thi sĩ nhớ lại lần rung động đầu tiên của mình. Thêm một động từ nữa cũng kích thích trí tò mò của độc giả không kém là "nghe". "Nghe" ở nghĩa tường minh tức là sử dụng thính giác để lắng nghe âm thanh của cuộc sống, nhưng ở nhân vật "ta" hành động "nghe" lại chỉ ra được tâm ý, sự thầm thương, phải lòng "cố nhân". Đó là cách dùng từ vô cùng đặc sắc của tác giả.
"Em bước điềm nhiên chẳng vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần."
Hình ảnh của sự "rung động" ấy được tái hiện rõ hơn. Nhân vật "em" và "anh" cùng dạo bước trên con đường nhỏ. "Em" thì hồn nhiên, ngây thơ bước đi không hề bận tâm gì. Còn "anh" thì "lững đững" - trạng thái thoải mái, thong dong. Hai con người xa lạ bỗng gặp nhau trên con đường nhỏ, tưởng xa hóa lại gần. Quả là cái duyên tiền định!
"Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần."
"Vô tâm" phải chăng là sự lãnh cảm, rời xa hay chính là cái xa lạ nhưng có sự giao lưu, kết nối. Với thủ pháp so sánh nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra quan niệm của mình về chữ "duyên". Đối với ông thiên nhiên hòa hợp với thiên nhiên, con người say đắm trước cảnh vật vẫn là chưa đủ mà còn một "cặp bài trùng khác" là sự giao duyên giữa con người với nhau. Chẳng thế mà dù em vô tư bước đi không để ý gì về người đằng sau, còn anh thong dong ngắm nhìn trời đất cũng không đoái hoài gì người phía trước nhưng giữa họ lại có sự kết nối như "cặp vần" - gắn bó khăng khít, không thể tách rời. Một nhân sinh quan thật mới mẻ!
"Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần."
Khổ bốn mang đến cho độc giả cảnh thu trên không gian rộng lớn. Hoạt động của thiên nhiên cũng dần dồn dập, nhanh chóng hơn. Từ láy "gấp gấp" tạo cảm giác hối hả, thúc giục. Tuy nhiên cụm từ "về đâu" lại đặt ra câu hỏi cho nơi đến của mây. Cùng với mây, con cò dường như cũng "phân vân", đắn đo không biết nên bay lên cao hay xuống thấp, bay gần hay bay xa. Chiều thu tàn bắt đầu có chút gì đó bâng khuâng, bầu trời trải rộng ra và dường như cánh chim cũng đã thích nghi với điều này để rồi "giang thêm cánh". Thi sĩ gán cho chim với động từ "nghe" như để sinh vật này hiểu được bầu trời, cảm nhận được thiên nhiên rồi từ đó điều chỉnh để thích nghi. Cách nhà thơ sử dụng cái hữu hạn (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn (bầu trời) là một thủ pháp hay và ý vị. Người đọc dễ dàng hình dung được một cánh chim không mỏi, bay miệt mài trên nền xanh của bầu trời. Và càng chìm dần vào chiều thu, sương càng rơi xuống nhiều. "Hoa lạnh" vì có thể do "đẫm sương" hoặc do cơn gió nào đó. Chiều mùa thu bắt đầu lạnh làm cho người đọc cũng mang chút gì xao xuyến, bâng khuâng.
Đến khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình lại hồi tưởng về mối tình đầu của mình, về những rung động đầu đời lồng ghép vào trong hình ảnh thiên nhiên. Hình ảnh nhân hóa "bước thu êm" như sự chuyển động nhẹ nhàng, dịu dàng của nàng thu. Từ "êm" gợi cảm giác dễ chịu, thoải mái. Trên nền thu dịu dàng , e ấp "anh" lại nói về sự rung động của mình khi gặp em - "lòng anh thôi đã cưới lòng em". Động từ "cưới" như một sự chắc nịch rằng anh đã phải lòng em và tấm lòng của anh chỉ hướng tới em. Động từ này còn nói lên sự gắn bó, xem "em" như là "mảnh ghép" còn lại của đời mình.
Bài thơ "Thơ duyên" không chỉ xuất sắc về nội dung mà ở khía cạnh hình thức bài thơ cũng đã làm rất "tròn vai" của mình. Bên cạnh việc sử dụng các từ láy, phép nhân hóa, các từ ngữ đặc sắc một nét khá đặc biệt trong bài thơ là cách ngắt câu. Thường thường ở thơ bảy chữ mà có bốn câu thì chỉ chấm kết thúc ở dòng cuối cùng ở mỗi khổ nhưng với "Thơ duyên" thì khác, dòng một với dòng ba là có dấu chấm phẩy khi kết thúc dòng. Còn dòng hai với dòng bốn là dấu chấm. Tức là hai dòng sẽ tạo thành một câu. Đây là một nét lạ và sáng tạo của Xuân Diệu.
Bằng ngòi bút giàu nhiệt huyết, tình yêu sôi nổi của một con người luôn trân quý, nắm bắt thời gian nhà thơ Xuân Diệu đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên với nhiều hình ảnh, nhiều sắc thái đặc trưng của mùa thu. Cùng với đó tác giả đã viết nên sự rung động đầu đời của mình - sự giao cảm, kết nối giữa những con người tưởng chừng xa lạ nhưng lại là cái duyên đã được sắp đặt sẵn. Tình duyên nảy nở trong tình thu!
Phân tích Thơ duyên – Mẫu 9
Xuân Diệu là “ông hoàng thơ tình’ với những vần thơ say đắm, ngọt ngào và mãnh liệt về tình yêu đôi lứa. Mỗi bài thơ đều để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm và ấn tượng riêng. “Thơ duyên” là bài thơ tràn đầy cảm hứng mê say, tin tưởng và đầy phấn khởi cho những giây phút rung động trong tình yêu.
Ngay ở nhan đề tác phẩm, người đọc đã cảm nhận được nét “duyên” của con chữ và nét duyên ngầm trong lòng người. Cảm xúc bao trùm bài thơ chính là niềm hăng say, vui tươi, phơi phới khi có những giây phút rung động đầu đời của một chàng trai mới biết yêu. Người đọc chắc chắn sẽ mê mẩn với những dòng cảm xúc vừa nhẹ nhàng vừa sôi nổi:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Xuân Diệu đã mở đầu bài thơ bằng một không gian thật nên thơ và lãng mạn. Hình như không phải một buổi chiều như một ngày mà là “chiều mộng”. Một buổi chiều lãng mạn, tràn đầy chất thơ, chất nhạc, khiến lòng người say đắm. Một buổi chiều mùa thu nhẹ nhàng, tinh tế có cặp chim đang chuyền nhau trên cành cây mẹ. Một sự hòa quyện, giao thoa thật tuyệt vời giữa thiên nhiên và đất trời. Giọng thơ tuy nhẹ nhàng nhưng tràn đấy hứng khởi.
“Nhánh duyên” trong câu thơ đầu tiên khiến người đọc liên tưởng đến một mối nhân duyên ngầm nào đó nhưng vẫn còn e thẹn, ngượng ngùng.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền
Hai câu thơ như tan ra cùng đất trời, mùa thu hiện hữu rõ từng đường nét và lắng nhẹ vào lòng người. Màu xanh của bầu trời như đang “đổ” xuống vạn vật, tạo nên một màu “ngọc” thật trong lành và dịu mát. Từ “đổ” khiến cho câu thơ bừng sáng lên. Đó như báo hiệu một mùa thu ngọt ngào, tinh tế đã đến. Dường như trời đất của mùa thu luôn có sức hút mạnh mẽ như vậy.
Một buổi chiều thật nên thơ, đầy tình tứ sẽ thêm thi vị hơn khi có câu chuyện tình đôi lứa:
Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu
Hoa ra sự vui tươi của đất trời đều xuất phát từ nỗi rung động “lần đầu” ấy. Hình ảnh con đường “nho nhỏ’ trong câu thơ có điểm xuyết những cành lá đâm ngang như phác họa nên một bức tranh thu nhẹ nhàng, tinh tế đến lạ kỳ. Một không gian khiến cho người đọc ngỡ như mình đang lạc vào cảnh tiên thi vị. Dường như cảnh vật đang tạo cảm giác lâng lâng, nhẹ nhõm của người đang tràn ngập tình yêu. Câu thơ chợt bừng lên niềm reo vui thật khẽ nhưng thật sâu. Thơ Xuân Diệu cứ nhẹ nhàng nhưng đằm thắm như duyên con gái vậy.
Ở những vần thơ tiếp theo, nhân vật chính của tình yêu lần đầu ấy xuất hiện thật nhẹ:
Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững thững chẳng theo gần
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần
Anh chàng thi sĩ đi giữa một con đường mà như có cảm giác đang lạc vào một miền say mê, đắm đuối với tâm thế “lững thững” rất bình tâm, rất nhẹ nhàng và có chút gì đó lưỡng lự. Chàng trai ấy giữ một khoảng cách vừa đủ để cảm nhận được tình yêu đang tan chảy ra cùng mùa thu dịu ngọt, êm ái. Cả “anh” và “em” đều “vô tâm” nhưng dường như ai cũng muốn xích lại gần hơn, gần thêm chút nữa. Bởi ẩn sâu trong suy nghĩ thì câu chuyện tình nhẹ nhàng đó đã như một cặp vần. Những câu thơ nhẹ nhàng, nhịp điệu chậm rãi, khoan thai gieo vào lòng người niềm hân hoan, vui tươi.
Cảnh vật trong bài thơ duyên rất duyên, huyền diệu và tràn đầy vui tươi, làm nền cho tình cảm trở nên lâng lâng:
Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngác vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em
Mùa thu “êm” như khẽ khàng đi vào trái tim của những kẻ đang yêu, chẳng ai bày tỏ nỗi niềm nhưng lại khiến cho mọi thứ lâng lâng. Buổi chiều mưa thu “ngơ ngác” nhưng nhà thơ đã khẳng định chắc nịch “lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Một Xuân Diệu thật duyên, là duyên ngầm, nhưng cũng thật mãnh liệt. Không phải anh cưới em mà là “lòng anh cưới lòng em”.
“Thơ duyên” của Xuân Diệu là bài thơ tràn đầy niềm tin yêu và tràn nhựa sống. Một bài thơ tình nhẹ nhàng, nhưng cũng không kém phần mãnh liệt.
Phân tích Thơ duyên – Mẫu 10
Hồn thơ Xuân Diệu luôn mở rộng ra cả đất trời và cõi người. Nó luôn khao khát được giao cảm với con người, thiên nhiên, vũ trụ. Thơ duyên biểu hiện điều ấy.
Thơ duyên chưa hẳn là bài thơ tình vốn rất đắm say sôi nổi trong thơ Xuân Diệu. Bài thơ có anh và em họ đi xa nhau như không quen biết. Em thì “điềm nhiên” anh thì “lững thững” và cả hai đều “vô tâm”.
Có lẽ duyên ở đây là “tác hợp cơ trời” của thiên nhiên, vũ trụ và lòng người. Sự hòa thơ, hòa nhạc âm thầm, mãnh liệt và đầy quyến rũ. Nó khởi đầu từ cái “buổi ấy lòng ta nghe ý bạn” để rồi nhìn đâu cũng thấy chiều mộng, nghe đâu cũng động tiếng huyền nó vô thanh với tác nhưng náo nức con tim.
Tất cả đều cặp đôi trong yêu thương đắm đuối, mỗi lúc một mãnh liệt, lơi lả. Chiều mộng thì hòa thơ với nhánh duyên, trên cây me thì cặp chim ríu rít như không biết buổi chiều mà ngỡ là sáng bình minh. Chim chuyền cành này qua cành khác, bầu trời trong xanh thì như đổ tràn ánh sáng như ngọc lấp lánh qua muôn lá, mùa thu tới thì khắp nơi như tiếng nhạc đón mừng (“động tiếng huyền” – tiếng huyền là tiếng đàn), con đường “nho nhỏ” thì đi với gió “xiêu xiêu”, cành hoang thì lả tả như có tình với “nắng chiều”, con cò trên ruộng thì như cảm thông với “Mây biếc về đâu bay gấp gấp” nên cánh nó cũng “phân vân”, chim cũng thế, hoa cũng vậy, tất cả đều giao hòa cảm thông như vốn có duyên với nhau tự bao giờ. Và tất nhiên con người cũng thế, anh với em tuy chưa quen biết nhau và cũng chẳng có mối lái gì (băng nhân) mà tự nhiên cũng cứ đi sóng đôi với nhau nhịp nhàng như “một cặp vần” trong bài thơ, thậm chí “Lòng anh thôi, đã cưới lòng em”…
Cảnh trong thơ tươi tắn, trong sáng, tình trong thơ thì hòa hợp nhịp nhàng. Đây là một bài thơ vui tuy viết về một cảnh chiều thu. Trong thơ truyền thống, cảnh chiều mà lại là chiều thu thì nói chung là buồn. Thơ xưa nói đến cảnh chiều thì thường có chim mỏi về rừng, người lữ thứ tha hương thì nhớ nhà, chân bước vội. Còn mùa thu thì lá vàng rơi rụng, hoa sen tàn tạ trên các đầm ao… ở đây cảnh chiều thu lại vui. Xuân Diệu có bài thơ xuân không mùa, nghĩa là mùa nào cũng là xuân cả, vì xuân tự trong lòng nhà thơ tỏa ra trời đất bốn mùa:
“Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm,
Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu.
Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều.
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng…”
Nhưng cảnh thu thực ra cũng có cái vui của nó chứ, nhất là mùa thu ở một nước nhiệt đới như nước ta. Xuân Diệu là nhà “Thơ mới”, ông không nhìn cảnh vật theo công thức, ước lệ của thơ cổ, ông khám phá cái đẹp, cái vui của mùa thu có thật trên đất nước bằng con mắt chân thật của mình và thấy mùa thu rất thơ mộng: “Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên”, không khí mùa thu khô ráo và sáng, trời thu thì cao và trong xanh, khí hậu mùa thu không nóng và chưa rét, con người cảm thấy dễ chịu, tâm hồn thơ thới sảng khoái, gió rì rào trong lá cành, chim chóc ríu rít, nghe như đâu đây vang vọng lại tiếng nhạc của đất trời:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”.
Nhưng niềm vui của mùa thu không ồn ào mà êm ái dịu dàng. Phải có một tâm hồn lắng nghe, tinh tế và nhạy cảm mới thấy hết được. Nhà thơ đi giữa đất trời như đi giữa một “bài thơ dịu”, không dám ồn ào, chỉ “lững đững” trên đường, lắng nghe bước đi nhẹ nhàng êm ái và lặng lẽ của mùa thu:
“Ai hay tuy lặng bước thu êm”.
Và cũng lắng nghe nơi lòng mình niềm cảm thông với vạn vật và nỗi khao khát thương yêu, khao khát hòa hợp với mọi người, nhất là với cô gái nào kia ngẫu nhiên cùng bước lên đường.
– Trong thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh có một nhận xét rất tinh tế về Xuân Diệu: “… Sự sống muôn hình thức nhưng hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trong rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sống. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi!”.
Bài Thơ duyên là một trường hợp Xuân Diệu bày tỏ sức sống của mình trong những cảm nhận hết sức tinh vi về thiên nhiên và sự sống. Nhìn chung cảnh thơ yên tĩnh mà vẫn có một cái gì xôn xao từ trong lòng sự vật, chỉ cảm thấy được nhưng khó phân tích, diễn giải cho rõ ràng:
“… Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”
“… Con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả tả cành hoang, nắng trở chiều”.
Bình hai câu thơ trên, Hoài Thanh viết: “Cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Nó chỉ mất một tí rõ ràng để được thêm rất thơ mộng”.
Thiên nhiên đúng là có hồn, nó lặng lẽ vận động, nhưng chỉ là những biến thái tinh vi không thể gọi tên ra được. “Nắng trở chiều” là màu sắc thế nào? Thật khó nói rõ ra được.
Sự cảm nhận còn tỏ ra tinh vi hơn nữa trong mấy câu thơ này:
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng dang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”.
Hoài Thanh viết: “Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay tới ráng chiều (“Lạc hà dữ cô lộ tề phi – Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”, dịch là: “Ráng chiều và cánh cò đơn chiếc láng bay – Nước mùa thu cùng trời thu một sắc”) đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới”.
Sự cách biệt ấy thể hiện ở chỗ, một đằng thì tả sự vận động bên ngoài, mắt thường thấy được, một đằng thì cảm nhận được sự vô hình, chỉ mới có trong gân cốt của cánh cò.
Cũng như vậy: “Chim nghe trời rộng dang thêm cánh – Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”, nhà thơ dường như nhận thấy cái cảm giác trống trải rợn ngợp của con chim trước không gian cao rộng, và cái cảm giác se lạnh của bông hoa khi sương chiều buông xuống…
Bài thơ giúp ta hiểu được ở Xuân Diệu một hồn thơ yêu đời, yêu sống, khao khát giao cảm với thiên nhiên, với con người. Nó cũng giúp ta cảm nhận được một cảnh vật thu tươi tắn, trong trẻo thơ thới, êm ả, dịu dàng, như gợi mát tâm hồn ta. Nó còn giúp ta mài sắc cảm giác của mình để biết kĩ lưỡng hơn, tinh tế hơn với cuộc sống này trong mỗi giây phút của đời mình.
Hot: Học hè online Toán, Văn, Anh...lớp 1-12 tại Vietjack với hơn 1 triệu bài tập có đáp án. Học ngay
- Sách - Sổ tay kiến thức trọng tâm Vật lí 10 VietJack - Sách 2025 theo chương trình mới cho 2k9 ( 31.000₫ )
- Trọng tâm Toán, Văn, Anh 10 cho cả 3 bộ KNTT, CTST, CD VietJack - Sách 2025 ( 13.600₫ )
- Sách lớp 10 - Combo Trọng tâm Toán, Văn, Anh và Lí, Hóa, Sinh cho cả 3 bộ KNTT, CD, CTST VietJack ( 75.000₫ )
- Sách lớp 11 - Trọng tâm Toán, Lý, Hóa, Sử, Địa lớp 11 3 bộ sách KNTT, CTST, CD VietJack ( 52.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Dàn ý
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và nội dung chính của bài viết: Thiên nhiên và con người trong Cảnh khuya (Hồ Chí Minh).
2. Thân bài
Giới thiệu và trích dẫn lần lượt các câu thơ để phân tích, đánh giá.
- Hai câu thơ đầu tiên: miêu tả bức tranh thiên nhiên tươi đẹp.
+ Hình ảnh “tiếng suối”.
+ Biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa
=> Hình ảnh ánh trăng làm bừng sáng thiên nhiên nơi chiến khi Việt Bắc.
- Câu thơ thứ 3: Khắc họa hình ảnh nhân vật trữ tình.
+ Biện pháp tu từ so sánh à làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật trữ tình.
- Câu thơ thứ 4: Bài thơ kết thúc bằng một lời giải thích ngắn gọn, thẳng thắn nhưng lại rất đáng quý và trân trọng.
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của chủ đề.
Mẫu 1
Hồ Chí Minh sáng tác bài thơ “Mộ” năm 1942, trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt đó là khi nhà thơ bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Trong suốt thời gian bị đày ải bởi chính quyền Tưởng Giới Thạch người lính khổ sai Nguyễn Tất Thành thường xuyên bị áp giải từ nhà lao này đến nhà lao khác. Trong hoàn cảnh đặc biệt đó người bình thường chắc chỉ thấy tiếng kêu rên ai oán số phận, còn với Bác người lính cách mạng có tinh thần thép thì đó chỉ là cái cớ để tâm hồn thi sĩ vút cao lên thành những áng văn thơ trữ tình dạt dào cảm xúc. Chẳng thế mà toàn bài thơ chúng ta không thấy bất kỳ hình ảnh đau khổ của người tù mà chỉ thấy khung cảnh thiên nhiên, con người nơi miền sơn cước vô cùng bình dị, quen thuộc với cuộc sống lao động thường nhật.
Mở đầu bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên đặc trưng của buổi chiều tối:
"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không"
Ánh mặt trời dần tắt hẳn, màn đêm chuẩn bị bao trùm lấy cảnh vật, đây là thời khắc con người, vạn vật sinh linh trên trái đất đều mệt mỏi và muốn tìm về với chốn bình yên để nghỉ ngơi. Đầu tiên là hình ảnh của chú chim đang mỏi cánh trên bầu trời, cánh chim ấy đã vất vả sau một ngày dài kiếm ăn khắp chốn, giờ là lúc nó tìm về với bóng cây, chốn yên bình để ngủ. Câu thơ thứ hai vẫn là nét chấm phá cảnh vật của thiên nhiên với hình ảnh của “cô vân”. Cô vân là chòm mây cô đơn, kết hợp với từ láy “mạn mạn” tức là trôi nhẹ, lơ lửng, vô định trên bầu trời. Chòm mây cô đơn lạc trôi trên bầu trời khá tương đồng với hoàn cảnh của người tù khổ sai, cô đơn, lạc lõng nơi đất khách quê người. Trong lòng vẫn luôn đau đáu một ngày được trở về với đồng bào, quê hương.
Hai câu thơ sử dụng thủ pháp đối khá quen thuộc trong thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, đối giữa “cô vân” và “quyện điểu” để tạo nên một bức tranh thiên nhiên cân xứng, hài hòa. Một vài nét chấm phá đơn giản nhưng đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên thật hữu tình, nên thơ.
Hai câu thơ sau là hình ảnh của con người, con người của cuộc sống lao động hiện ra thông qua những nét vẽ thật khỏe khoắn, rắn rỏi:
"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng"
Hình ảnh cô gái xóm núi đang xay ngô chuẩn bị cho bữa cơm tối xuất hiện trong bài thơ là một nét vẽ bất ngờ nhưng rất hợp lý. Nó được cảm nhận thông qua cái nhìn của người tù khổ sai, nó mang một sức sống thật mạnh mẽ, tiềm tàng. Động tác xay ngô của cô gái nhịp nhàng, khỏe khoắn, từng vòng quay của chiếc cối đều, dứt khoát, “ma bao túc” rồi lại” bao túc ma hoàn”; phép lặp từ trong hai câu thơ nhấn mạnh sự cần mẫn, chăm chỉ của người lao động trong cuộc sống thường nhật, qua đó thể hiện cái nhìn trân trọng của thi sĩ dành cho con người nơi đây. Đặc biệt là hình ảnh “lô dĩ hồng” xuất hiện ở cuối bài thơ, đó là một nhãn tự có sức nặng cân cả bài thơ. Chữ hồng xuất hiện đã xua tan không khí lạnh giá nơi xóm núi hoang sơ, nó như tiếp thêm sức sống và sức mạnh cho người tù khổ sai trên con đường đi tìm lối thoát cho dân tộc. Chữ “hồng” cũng thể hiện chất thép vốn rất đặc trưng trong tập “Nhật ký trong tù”. Nó cũng khẳng định vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại trong thơ của Hồ Chủ Tịch.
Bài thơ khép lại một cách bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn. Thông qua bài thơ “Mộ” chúng ta cảm nhận vẻ đẹp của nghị lực phi thường, tinh thần mạnh mẽ không lên gân, không khoa trương mà giản dị, khiêm nhường trong thơ của Hồ Chí Minh.
Mẫu 2
Hồ Chí Minh một vị lãnh tụ tài hoa của dân tộc Việt Nam, bên cạnh đó với tài năng của mình người đã sáng tác nên những áng thơ văn vô cùng nổi bật. Trong đó bài thơ “Cảnh Khuya” là một tác phẩm thơ văn được viết trong thời kì kháng chiến tiêu biểu. Bài thơ là sự miêu tả bức tranh thiên nhiên vào đêm trăng đẹp, qua đó cho ta thấy tâm tư, tình cảm của một chiến sĩ cộng sản luôn hết mình vì nhân dân, vì đất nước.
Mở đầu bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên thật đẹp:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
Với giọng thơ bình dị, vẻ đẹp của cảnh vật hiện lên trong thơ Hồ Chí Minh vừa có ánh sáng vừa có âm thanh. Thiên nhiên, cảnh núi rừng Việt Bắc vắng vẻ nhưng vô cùng huyền ảo và thơ mộng. Với việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa, nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của “tiếng suối trong”. Vào ban đêm, chỉ với ánh trăng mà nhà thơ cũng có thể thấy được sự trong veo của nước suối. Ánh trăng đêm quả thật rất đẹp, rất sáng. Ánh trăng còn nổi bật hơn ở hình ảnh “trăng lồng cổ thụ” ánh trăng sáng bao quát cả một cây đại thụ lớn kết hợp với tiếng tiếng suối thanh trong như điệu nhạc êm, hát mãi không ngừng. Chỉ với hai câu thơ mở đầu mà bức tranh phong cảnh hiện lên vô cùng sinh động, với thật nhiều màu sắc.
Sau hai câu thơ tả cảnh, tiếp đến câu thơ thứ ba là sự khắc họa hình ảnh nhân vật trữ tình vô cùng tự nhiên: “Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,”. Cảnh đêm trăng tuyệt đẹp như bức họa thế kia thì làm sao mà ngủ được. Phải chăng Người đang thao thức về một đêm trăng sáng với âm thanh vang vọng trong trẻo của núi rừng:“Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.
Câu thơ cuối càng làm nổi rõ hơn nguyên nhân không ngủ được của Bác đó là “lo nỗi nước nhà”. Câu thơ cuối nêu lên cái thực tế của nhân vật trữ tình và mở sâu và hiện thực tâm trạng của nhà thơ. Sự độc đáo của thơ Hồ Chí Minh là bài thơ kết thúc với một lời giải thích, vô cùng thẳng thắn và ngắn gọn nhưng cũng rất đáng quý trọng. Nghệ thuật ấy vô cùng chân thực, giản dị, đi thẳng vào lòng người nên cũng là nghệ thuật cao quí, tinh vi nhất.
Bài thơ khép lại một cách bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn. Bài thơ Cảnh Khuya của Hồ Chí Minh miêu tả bức tranh đêm khuya thật đẹp, thật thơ mộng. Nhưng sâu hơn nữa là thể hiện tâm tư, tình cảm của một người chiến sĩ cách mạng luôn hết lòng vì nhân dân, lo cho dân, cho nước.
Mẫu 3
“Cảnh khuya” nằm trong số những bài thơ trữ tình đặc sắc, bài thơ viết vào thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, Bác Hồ đã viết bài thơ “Cảnh khuya” trong hoàn cảnh đó.
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.
(1947 – Hồ Chí Minh)
Bài thơ miêu tả cảnh khuya núi rừng một đêm trăng, nói lên những suy tư lo lắng của Bác Hồ đối với vận mệnh của dân tộc. Hai câu đầu làm hiện lên trước mắt người đọc một bức tranh sơn thủy về cảnh suối rừng, trăng ngàn Việt Bắc. Nhà thơ thao thức lắng nghe tiếng suối chảy rì rầm, êm nhẹ và trong trẻo từ rừng sâu vọng đến: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa”.
Suối là vẻ đẹp chốn lâm quyền, vẻ đẹp rừng già Việt Bắc. Bác lấy tiếng suối so sánh với tiếng hát, là khúc nhạc rừng ví với tiếng hát xa, êm ái, ngọt ngào của con người, làm cho cảnh khuya chiến khu trở nên gần gũi, mang hơi ấm cuộc đời. Câu thơ làm ta liên tưởng đến tiếng suối trong bài “Côn Sơn ca” của Ức Trai hơn 600 năm về trước:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai…”
Hai hồn thơ trở nên gần gũi, thân thiết. Nguyễn Trãi đã về Côn Sơn “quê cũ” để xa lánh bụi trần, danh lợi, lấy suối đá thông trúc làm bầu bạn. Bác Hồ cũng đến chốn lâm tuyền Việt Bắc, xây dựng chiến khu đánh Pháp. Suối trở thành bài ca câu hát nâng đỡ tâm hồn Bác trong những năm dài kháng chiến gian khổ.
Tả suối, nghệ thuật của Bác thật điêu luyện: Lấy cái động (tiếng suối chảy) để miêu tả cái tĩnh (Cảnh khuya) làm nổi bật sự thanh vắng, tĩnh lặng của chiến khu một đêm trăng. Càng về khuya, núi rừng như chìm trong vắng lặng mênh mông. Bác “chưa ngủ” nên mới nghe rõ âm thanh rì rầm suối chảy. Câu thứ hai tả trăng ngàn: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”.
Hai vế tiểu đối gợi lên cảnh đẹp hài hòa của cảnh vật thiên nhiên. Trăng được nhân hóa, rất thơ mộng “lồng” vào cổ thụ, bóng cổ thụ lại “lồng” vào hoa. Cảnh thiên nhiên trở nên hữu tình, huyền ảo. Chữ “lồng” được láy hai lần, chất thơ trữ tình mang hồn người, quyến rũ. Ánh trăng trải khắp núi rừng, dát vàng xuống rừng cây, “lồng” và trùm lên cổ thụ. Cảnh rừng có tầng cao, tầng thấp, có mảnh sáng, mảnh mờ. Nét vẽ tinh tế, gam màu nhẹ và tươi mát, sự phối sắc tài tình, mĩ cảm, hấp dẫn.
Nếu như ở hai câu thơ đầu Bác chỉ miêu tả về thiên nhiên thì đến hai câu thư cuối ta thấy được hình ảnh một vị lãnh tụ đang trằn trọc không ngủ. Hai câu thơ cho chúng ta hiểu rõ thêm được tâm hồn yêu thiên nhiên của Bác nhưng cũng chính thiên nhiên lại khiến cho tâm hồn ấy trằn trọc chẳng thể nào ngủ nổi vì thiên nhiên mà nỗi lo cho đất nước càng dâng cao khiến cho vị lãnh tụ không thể nào chợp mắt. Giữa vầng trăng sáng vằng vặc giữa cảnh khuya trong trẻo có một người đang thao thức không yên .Người hòa mình vào thiên nhiên để cất tiếng thơ ngợi ca thiên nhiên núi rừng song đó chỉ là giây phút phiêu du vào mây gió còn tâm hồn người thực sự đang gửi gắm ở một chân trời khác: Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Chưa ngủ, thao thức, bồi hồi vì “lo nỗi nước nhà”. Nhà nước đang bị giặc Pháp xâm lăng, con thuyền kháng chiến đang băng qua ghềnh thác thì vị “thuyền trưởng” chưa thể ngủ ngon giấc được! Nguyễn Trãi đã từng thao thức vì đại nghĩa:
“Còn một tấc lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung”
(Quốc âm thi tập)
Bác Hồ cũng thao thức: “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”. Cùng mang trong tâm hồn một tình yêu lớn đối với đất nước và nhân dân, thơ của bác chứa chan tình yêu nước. Có thể nói, câu thơ bình dị, sáng tỏ như một chân lý, để lại ấn tượng sâu sắc.
“Cảnh khuya” bài thơ tứ tuyệt làm đẹp nền thơ ca kháng chiến. Câu thơ giàu hình tượng và truyền cảm. Cảnh và tình hòa hợp, vừa cổ kính, vừa hiện đại. Tình yêu nước thiết tha, tình yêu thiên nhiên trong sáng là cốt cách vẻ đẹp của bài thơ.
Mẫu 4
Người lính nông dân đã đi vào thơ ca bằng những hình ảnh chân thật và đẹp trong “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Cá nước” của Tố Hữu… nhưng tiêu biểu hơn cả là bài “Đồng chí” của Chính Hữu. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948 là năm cuộc kháng chiến hết sức gay go, quyết liệt. Trong bài thơ này, tác giả đã tập trung thể hiện mối tình keo sơn gắn bó, ngợi ca tình đồng chí giữa những người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Cảm nhận đầu tiên của chúng ta khi đọc bài thơ là hình ảnh người lính hiện lên rất thực, thực như trong cuộc sống còn nhiều vất vả lo toan của họ. Ngỡ như từ cuộc đời thực họ bước thẳng vào trang thơ, trong cái môi trường quen thuộc bình dị thường thấy ở làng quê ta còn đói nghèo lam lũ:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Quê hương xa cách nhau, mỗi người mỗi nơi. Người quê ở miền biển “nước mặn đồng chua”, người ở vùng đồi núi “đất cày lên sỏi đá”. Song dù xa cách nhau, dù khác nhau, nhưng đều là quê hương của lam lũ, vất vả, đói nghèo. Chữ nghĩa bình thường mà như đang cựa quậy khi cuộc sống thực đã ùa vào câu thơ đem đến những cảm nhận sâu sắc về quê hương người lính.
Tuy ở những phương trời khác nhau, “chẳng hẹn quen nhau”, nhưng cùng sống và chiến đấu với nhau trong một đội ngũ, những người lính đã tự nguyện gắn bó với nhau:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Cái rét ở rừng Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống Pháp vì đó là một thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến ấy. Có điều lạ là câu thơ nói đến cái rét gợi cho người đọc một cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Câu thơ của Chính Hữu đã diễn tả tình đồng chí thật cụ thể và cô đọng, sự gắn bó giữa những người đồng chí cùng chung nhau chiến đấu “súng bên súng”, cùng chung một
lí tưởng “đầu sát bên đầu”. Sự gắn bó mỗi lúc lại càng thêm sâu sắc: Là súng bên súng đến đầu bên đầu, rồi thân thiết hơn nữa là đắp chung chăn, thành tri kỉ.
Đoạn thơ đầu của bài thơ kết thúc bằng hai chữ “Đồng chí” làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của cả đoạn thơ. Nó giải thích vì sao người lính từ bốn phương trời xa lạ, không hẹn gặp nhau mà bỗng trở thành thân thiết hơn máu thịt. Đó là sự gắn bó giữa những người anh cùng chung một lí tưởng chiến đấu, là sự gắn bó kì diệu, thiêng liêng và mới mẻ của tình đồng chí.
Những người lính, những đồng chí ấy ra đi chiến đấu với tinh thần tự nguyện:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
Họ vốn gắn bó sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng cũng sẵn sàng rời bỏ tất cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình anh quen thuộc và tiêu biểu của mọi làng quê Việt Nam như biểu tượng của quê hương những người lính nông dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ là cảnh vật mà còn là làng quê, là dân làng. Cảnh vật ở đây được nhân cách hoá, như có tâm hồn hướng theo người lính.
Tác giả tả rất thực về cuộc sống của người lính. Nhà thơ không che giấu mà như còn muốn nhấn mạnh để rồi khắc hoạ rõ nét hơn cuộc sống gian lao thiếu thốn của họ. Và phải là người trong cuộc thì mới vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với một sự đồng cảm sâu sắc như vậy:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”
Thơ ca kháng chiến khi nói tới gian khổ của người lính thường nói rất nhiều tới cái lạnh, cái rét. Đoạn thơ thứ hai này kết thúc bằng câu “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Một sự cảm thông, chia sẻ vừa chân thành, vừa tha thiết làm sao. Người ta bảo bàn tay biết nói là thế. Hình ảnh kết thúc đoạn thứ hai này cắt nghĩa vì sao người lính có thế vượt qua mọi thiếu thốn, gian khổ, xa quê hương, quần áo rách vá, chân không giày, mùa đông lạnh giá với những cơn sốt rét “run người”… Hơi ấm của tình đồng chí truyền cho nhau đã giúp người lính thắng được tất cả. Hình ảnh kết thúc bài thơ chỉ có ba dòng:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chở giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Sau những câu thơ tự do đang trải dài “Đêm nay rừng hoang sương muối”… câu kết thúc thu vào trong bốn chữ làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Hình ảnh kết thúc bài thơ đầy thơ mộng, cái thơ mộng của gian khố, hiểm nguy: một cánh rừng, một màn sương, một vầng trăng với hai ngọn súng, hai con người chờ giặc. “Đầu súng trăng treo” cùng là một câu thơ dồn nén và có sức tạo hình, nó đẹp như một biểu tượng chiến đấu của những người lính giàu phẩm chất tâm hồn. Đó cũng là vẻ đẹp trữ tình mới của thơ ca kháng chiến, kết hợp được súng và trăng mà không khiên cưỡng.
Toàn bài “Đồng chí” từ chi tiết cuộc sống đến cảm giác của tác giả đều rất thật, không một chút tô vẽ đắp điểm, không bình luận, thuyết minh. Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm người lính, vẻ đẹp của “Đồng chí” là vẻ đẹp của đời sống tâm hồn người lính mà nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội, đồng chí hoà quyện vào tình giai cấp. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” ở cuối bài nâng vẻ đẹp người lính lên đến đỉnh cao khái quát trong đó có sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.
Mẫu 5
Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc dù đã ra đi nhưng những điều ý nghĩa, tuyệt vời nhất về hình ảnh của Người vẫn còn mãi với con dân đát nước Việt Nam. Trong đó chính là kho tàng thơ ca mà bác đã sáng tác trong suốt cuộc đời chiến đấu, hy sinh cho dân, cho nước. Bài thơ Cảnh Khuya được sáng tác vào năm 1974 là một tình yêu nước, lo lắng cho dân tộc hòa cùng tình yêu thiên nhiên của Người. Từ đó ta cũng cảm nhận được những đựac sắc nghệ thuật của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
Mở đầu chính là cảnh bức tranh thiên nhiên ở núi rừng Việt Bắc .Chiến khu Việt Bắc – đó là đầu não của cuộc kháng chiến chống xâm lược, là nơi chỉ đạo đấu tranh của Cách mạng. Nhưng không phải vì vậy mà Việt Bắc chỉ trang nghiêm và bận rộn . Bức tranh Việt Bắc vào khuya đã được miêu tả hết sức đặc sắc
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa’’
Ở đây, Bác đã so sánh tiếng suối ‘’trong như’’ tiếng hát của người con gái. Cảnh khuya thanh vắng vang lên tiếng suối chảy như làm cảnh vật có thêm sức sống. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh như phá vỡ sự im lặng, làm nổi bật cảnh rừng khuya. Trong khung cảnh đó, ánh trăng trên cao chiếu xuống tạo nên những điểm nhấn chi mặt đất nơi núi rừng. Điệp từ “lồng” như nhấn mạnh sự xuyên tỏa của ánh sáng trăng khuya, sự giao hòa, quấn quýt giữa cảnh vật. Ánh trăng chiếu xuống vạn vật như những bông hoa điểm xuyết, tạo nên sự hòa quyện của thiên nhiên Việt Bắc với mặt trăng đêm nay. Cảnh khuya Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp cổ điển, mộc mạc nhưng đầy sức sống qua tình yêu thiên nhiên, tân hồn hòa mình nơi núi rừng của Hồ Chí Minh
‘’Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà’’
Câu thơ thứ ba như một câu chuyển với dấu phẩy ngắt giữa câu ba và câu bốn. Điều này như làm rõ tâm trạng lúc này của Bác lúc này ‘’chưa ngủ’’. Cụm từ ‘’ chưa ngủ’’ ở đây chính là nỗi thao thức, tâm trang đầy sự lo âu. Trái ngược với cảnh khuya êm ả, dịu nhẹ, Hồ Chí Minh lúc này trong lòng tràn đầy nỗi băn khoăn, lo âu về nhân dân, đất nước và độc lập của dân tộc. Qua đây, ta cũng thấy rõ được tấm lòng yêu nước, luôn lo nghĩ cho dân, cho nước của vị cha kính yêu của đất nước Việt Nam
Bài thơ có sự kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: so sánh, điệp từ (lồng, chưa ngủ) nối kết hai tâm trạng, bộc lộ chiều sâu tâm hồn cao đẹp của Bác. Ngôn ngữ thơ hiện đại, giản dị mà cũng hết sức tinh tế, hàm súc.
“Cảnh khuya” đã cho ta thấy một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, sâu nặng. Cùng với đó là tấm lòng luôn lo nghĩ cho vận mệnh đất nước, dân tộc. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và yếu tố hiện đại, tạo nên nét đặc sắc cho tác phẩm. Ở tác phẩm còn có sự kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: so sánh, điệp từ nối kết hai tâm trạng, bộc lộ chiều sâu tâm hồn cao đẹp của Bác. Ngôn ngữ thơ hiện đại, giản dị mà cũng hết sức tinh tế, hàm súc.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Đoạn thơ này nói lên cảm nhận về mùa thu của Hữu Thỉnh được bắt đầu với mùi hương ổi và làn gió heo may se lạnh của mùa thu. Đây là đặc trưng của mùa thu xứ Bắc: gió đổi sang hơi se lạnh, hanh hao và ổi bắt đầu chín, nhưng thu chưa sang hẳn, mới chỉ bắt đầu chớm thôi. Vì thế mà tác giả dùng rất đúng và rất khéo từ phả. Từ phả gợi một cảm giác mát mẻ, mơ hồ, chưa rõ rệt, lúc rõ lúc mất. Nó tả rất đúng làn gió đầu mùa thu, chỉ hơi chớm lạnh, hiu hiu mà không lồng lộng như gió mùa hè.
Mùa thu về, rất mơ hồ với làn gió heo may se lạnh và hương ổi chín lan toả khắp không gian. Làn sương đã giăng giăng ngoài ngõ, nhưng nhẹ nhàng, bảng lảng đến nỗi nhà thơ giật mình tự hỏi không biết thu về thật hay chưa:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Mẫu 6
Giới thiệu tác giả Viễn Phương, bài thơ Viếng lăng Bác và dẫn dắt vào khổ thơ cuối của bài.
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”: một lời giã biệt của người con khi phải xa cha lần nữa - lời giã biệt nghẹn ngào, sâu lắng. “Trào” diễn tả cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn rời xa nơi Bác nghỉ.
Điệp từ “muốn” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ. Đó là một ước muốn mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng được ở lại bên cạnh Người, Những ước nguyện ấy thật đáng quý! Nhà thơ muốn làm con chim hót để mang âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành đến với nơi Bác nghỉ. Tác giả muốn làm một đóa hoa tỏa hương thơm thanh cao. Muốn làm một cây tre trung hiếu giữa mãi giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh cây tre quả thật là một hình ảnh đẹp và được khép lại rất khéo ở cuối bài thơ.
Ở đầu bài thơ, nhà thơ cũng mở đầu bằng hình ảnh hàng tre, đó là hình ảnh khi tác giả nhìn thấy khi vào lăng. Đó cũng là hình ảnh biểu tượng cho con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Nhưng kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre trung hiếu canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Cây tre như người lính trung thành, hàng ngày, ngày đêm vẫn đứng ở đó. Hình ảnh cây tre đã tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng.
Điệp từ “Muốn làm” được nhắc lại ba lần biểu cảm trực tiếp và gián tiếp tâm trạng lưu luyến, ước muốn và sự tự nguyện chân thành của tác giả. Ước nguyện đó được bộc lộ ra từ tận sâu đáy lòng của nhà thơ Viễn Phương.
→ Cả khổ thơ đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là mong ước của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc.
Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Mẫu 7
Hàn Mặc Tử là một cây bút tiêu biểu cho "phong trào Thơ mới" Việt Nam, nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét về ông là "Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng". Một số tác phẩm nổi tiếng của ông có thể kể đến như: tập thơ "Gái quê", "Thơ Điên", "Chơi giữa mùa trăng",... Đặc biệt, tác phẩm "Mùa xuân chín" đã đem lại cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp. Qua đó, nhà thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên, con người và nỗi khát khao giao cảm với đời.
Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã khiến chúng ta hình dung ra khung cảnh mùa xuân rực rỡ, căng tràn sức sống. Cách kết hợp động từ chỉ trạng thái "chín" với danh từ "mùa xuân" cho ta cảm nhận không gian tràn đầy sức sống. Nhan đề bài thơ khơi gợi về sự mềm mại, đằm thắm của mùa xuân. Mạch cảm xúc của tác phẩm đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh. Trước khung cảnh mùa xuân rực rỡ, nhà thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên, nỗi nhớ quê hương da diết. Giọng điệu thơ có sự chuyển đổi theo tâm trạng của nhân vật trữ tình, khi thì tha thiết, vui tươi, khi thì ngưng đọng, suy tư.
Mở đầu văn bản là bức tranh làng quê thanh bình, yên tĩnh. Thiên nhiên được gợi lên dưới ngòi bút tài hoa của tác giả "làn nắng ửng", "khói mơ tan", "bóng xuân sang". Hình ảnh "làn nắng ửng" khiến ta tưởng tượng đến màu vàng nhạt của nắng buổi bình minh. Còn hình ảnh "khói mơ tan" lại đem đến hai cách hiểu: khói bếp phát ra từ những căn nhà trong buổi sớm hoặc có thể đó chính là làn sương khói tinh mơ của ngày mới. "Làn nắng ửng" kết hợp với "khói mơ tan" tạo cảm giác sương khói đang dần tan biến khi mặt trời lên. Mùa xuân len lỏi qua mái nhà và giàn thiên lí. Câu thơ "Sột soạt gió trêu tà áo biếc" với biện pháp đảo ngữ và từ láy "sột soạt" góp phần diễn tả âm thanh và sự tình tứ, trêu đùa của gió với tà áo biếc nhẹ bay. Biện pháp tu từ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được nhà thơ sử dụng trong câu "Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang" khiến mùa xuân được hữu hình hóa. Câu thơ được ngăn cách bởi dấu chấm khiến nhịp thơ thay đổi từ 2/2/3 sang 4/3 nhằm nhấn mạnh dấu ấn của mùa xuân. Tác giả gieo vần chân một cách tinh tế "vàng", "sang", "trời", "chơi" khiến người đọc tưởng tượng ra một không gian rộng lớn. Mùa xuân sang khiến cỏ cây, đất trời và lòng người như hòa vào nhau:
"Sóng cỏ xanh gợn tới trời"
Câu thơ không chỉ diễn tả mật độ của cỏ mà còn gợi ra sự chuyển động của gió. Trên nền bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy là sự xuất hiện của con người:
"Bao cô thôn nữ hát trên đồi
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi".
Và:
"Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc.
Nghe ra ý vị và thơ ngây"
Nổi bật trong khung cảnh thiên nhiên là con người đang trong độ "tuổi xuân". Hình ảnh "Bao cô thôn nữ hát trên đồi" thể hiện sự hòa quyện của con người trước thiên nhiên. Mùa xuân ấm áp, căng tràn sức sống khiến con người cảm thấy xuyến xao, hạnh phúc. Câu thơ "- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi" giống như một lời nói trực tiếp. Ý thơ bộc lộ chút gì đó tiếc nuối của người chứng kiến khung cảnh "đám xuân xanh", hoặc cũng có thể là nuối tiếc của vị "khách xa". Tiếng ca của các cô gái được khắc họa qua từ láy "hổn hển", "thầm thĩ" khiến người đọc cảm nhận được sự trầm bổng trong tiếng hát, lúc thì thiết tha, khi thì gấp gáp, dồn dập. Tiếng hát như nhịp chuyển động của thời gian đầy ý vị.
"Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?"
Khác với ba khổ thơ đầu, khổ thơ cuối có sự chùng xuống trong tâm trạng nhân vật trữ tình. "Khách xa" có thể hiểu là khách từ phương xa đến thăm làng lúc "mùa xuân chín", hoặc "khách xa" ở đây có thể là nhân vật trữ tình. Điều này đúng với hoàn cảnh của Hàn Mặc Tử, ông cho rằng bản thân giờ chỉ là một người "khách xa" với quê hương. Người khách gặp đúng lúc mùa xuân chín mà lòng nhớ về quê nhà. Câu thơ " - Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang" với sự thay đổi trong cách ngắt nhịp, nhịp thơ từ 2/2/3/ sang 4/3 và dấu gạch ngang ở đầu khiến câu thơ trở thành lời bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhân vật trữ tình. Người khách xa tự hỏi lòng mình rằng liệu năm nay chị ấy còn gánh thóc bên bờ sông không. Câu thơ vừa diễn tả hành động gánh thóc, vừa gợi ra không gian mùa hè "nắng chang chang".
Cách gieo vần chân "làng" - "chang" khiến dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình như được kéo dài ra. Khổ thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ, khát khao giao cảm mãnh liệt với đời của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Mẫu 8
Cùng viết về đề tài mùa xuân, nhưng tác phẩm của Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử lại có những nét độc đáo riêng. Nếu Nguyễn Bính khắc họa bức tranh mùa xuân tươi tắn, hồn hậu để bày tỏ tình cảm với người con gái thì Hàn Mặc Tử lại diễn tả mùa xuân tươi đẹp nhưng tràn đầy sự nuối tiếc. Cả hai nhà thơ đều sử dụng hình ảnh thơ gắn liền với những vùng quê. Điều nổi bật của "Mùa xuân chín" là cách sử dụng ngôn từ sinh động khiến người đọc hình dung mùa xuân ở trạng thái tròn đầy nhất.
Bài thơ "Mùa xuân chín" đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống. Bức tranh ấy được gợi lên với đầy đủ màu sắc, đường nét, âm thanh của thiên nhiên và con người. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, so sánh, ẩn dụ, nhân hóa cũng góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm. Bài thơ thể hiện nỗi khát khao giao cảm với đời của một con người xa quê và đang bị bệnh tật giày vò.
Mẫu 9
"Cánh đồng" là một trong số những bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Thị Ngân Hoa, tác phẩm trong chùm thơ đạt giải B (không có giải A) cuộc thi Thơ trên báo Văn nghệ năm 1995. Bài thơ đã đem đến cho người đọc những rung động sâu sắc về vẻ đẹp cánh đồng mùa xuân tràn đầy sức sống và tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả.
Nhan đề bài thơ gợi cho người đọc hình dung về một miền quê yên bình, dân dã, có cánh đồng rộng lớn và không gian bao la. Trong quá trình đọc tác phẩm, ta có thể cảm nhận được sự biến hóa của nhịp điệu, sự phóng khoáng trong cách xây dựng những hình ảnh thơ và sử dụng công trong cách tổ chức mạch thơ.
Bài thơ đã khắc họa nên khung cảnh cánh đồng mùa xuân ngập tràn hương sắc. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của mùa xuân qua hình ảnh "Những đóa cúc vừa hái về từ cánh đồng mùa xuân rộng lớn". Nhân vật trữ tình đã cảm nhận vẻ đẹp của khóm cúc bằng con mắt mộng mơ của tuổi trẻ. Chỉ một đóa cúc thôi mà nhân vật trong bài đã hình dung ra cả một cánh đồng mùa xuân tươi tắn ngay trước mắt. Vẻ đẹp của cánh đồng mùa xuân không chỉ được gợi ra từ màu sắc mà còn được tái hiện bởi âm thanh "Tỏa sáng trên chiếc bình gốm màu sẫm/ Chạm vào em một chiếc lá già nua, một nụ hoa bé bỏng, một hơi thở run run, một làn sương ẩm ướt/ Chạm vào em một lảnh lót trong veo, một vang rền trầm đục, một nức nở âm u, một lặng câm rực rỡ". Các câu thơ nối tiếp nhau như dòng chảy cảm xúc và suy tưởng của nhân vật trữ tình. Điều này được thể hiện qua độ dài, ngắn của các câu thơ và nhịp thơ biến đổi linh hoạt, lúc nhanh, lúc chậm tùy thuộc vào tâm trạng nhân vật. Biện pháp điệp cấu trúc "Chạm vào em...một...một,... một" kết hợp với các từ ngữ "già nua", "bé bỏng", "run run", "ẩm ướt", "lảnh lót", "trong veo", "vang rền", "trầm đục", "nức nở", "âm u", "lặng câm", "rực rỡ" đã nhấn mạnh vẻ đẹp của thiên nhiên. Khung cảnh mùa xuân được nhà thơ khắc họa tràn đầy sức sống, mọi sự vật, hiện tượng đều mang trong mình những điểm riêng biệt.
Từ bông cúc cắm trên bình gốm, nhân vật trữ tình thả hồn mình tìm tới cánh đồng mênh mông. Động từ "chạy về" thể hiện rõ khao khát của nhân vật "em" khi nghĩ về cánh đồng rộng lớn. Đây như là một nơi yên bình mà nhân vật "em" luôn hướng tới. Trở về với cánh đồng em có thể hòa mình với thiên nhiên tươi đẹp "Chân ngập trong đất mềm tơi xốp". Biện pháp điệp cấu trúc lại tiếp tục được sử dụng trong hai câu thơ "Em gọi tên những loài hoa chưa kịp mọc/ Em gọi tên những trái cây chưa kịp ra đời" nhấn mạnh sự chờ đợi của nhân vật trữ tình. "Em" mong chờ những sự sống đang ấp ủ trong lòng đất. Biện pháp nhân hóa "Những trái cây đang ngủ trong hạt mầm vừa nứt/ Đang ngủ trong đóa hoa nấp dưới đất cày" thể hiện sức sống tiềm tàng của sự vật trong mùa xuân. Trạng thái mầm cây đang ngủ thể hiện quy luật bốn mùa của tự nhiên. Mùa xuân đến vạn vật ấp ủ trong mình sự sống bất tận. Trong khổ thơ này, tác giả đã làm nổi bật sự trân quý thiên nhiên của nhân vật trữ tình.
Kết thúc tác phẩm, nhà thơ lại nhắc tới hình ảnh "chiếc bình gốm": "Dưới lớp đất cày có những chiếc bình gốm/ Chưa kịp thành hình chờ đợi các loài hoa". Nếu như ở khổ thơ đầu, chiếc bình gốm làm nền cho những đóa cúc "tỏa sáng" thì ở khổ thơ cuối, chiếc bình gốm lại "chưa kịp" thành hình mà ẩn sâu dưới lớp đất cày chờ đón những loài hoa sắp nở. Câu thơ "Dưới lớp đất cày có những chiếc bình gốm" gợi lên nhiều suy nghĩ trong lòng người đọc. Câu thơ này có thể hiểu theo hai cách: cách thứ nhất là những chiếc bình gốm được lấp dưới "đất cày"; cách hiểu thứ hai là "lớp đất" chính là nguyên liệu để con người tạo ra chiếc bình gốm. Nhưng dù hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn cho thấy tình cảm yêu mến thiên nhiên của "em".
Bài thơ đã gợi ra không gian cánh đồng mùa xuân tràn đầy sức sống với những hình ảnh quen thuộc: đóa cúc, đất cày, trái cây,... Cánh đồng được nổi bật lên không chỉ qua hình ảnh mà còn qua âm thanh "lảnh lót trong veo", "một vang rền trầm đục", "một nức nở âm u", "một lặng câm rực rỡ". Bằng khả năng quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, cánh đồng mùa xuân được tái hiện một cách chân thực, sống động qua ngòi bút của tác giả. Tác phẩm có cách triển khai độc đáo, các câu thơ, khổ thơ có độ dài ngắn khác nhau như dòng chảy tâm trạng của nhân vật trữ tình. Sự biến hóa nhịp điệu linh hoạt khiến bài thơ như một trang tự sự. Qua tác phẩm, nhà thơ gửi gắm tình cảm yêu mến thiên nhiên thiết tha.
Nếu bài thơ "Mùa xuân chín" của nhà thơ Hàn Mặc Tử đem đến cho người đọc những cảm nhận xuyến xao về bức tranh thiên nhiên mùa xuân yên bình, khung cảnh sinh hoạt gần gũi từ đó thể hiện khát khao giao cảm với đời thì bài thơ "Cánh đồng" của Nguyễn Thị Ngân Hoa lại mang đến cho chúng ta những cảm xúc khó quên về mùa xuân tươi đẹp trên cánh đồng. Điều khác biệt có thể nói tới chính là sự khác biệt trong việc xây dựng hình ảnh thơ và việc tổ chức mạch thơ (các câu thơ dài, ngắn khác nhau theo dòng cảm xúc của nhân vật).
Bài thơ "Cánh đồng" của Nguyễn Thị Ngân Hoa là một bài thơ đặc sắc cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Tác phẩm đem lại cho người đọc những ấn tượng khó quên về khung cảnh cánh đồng mùa xuân yên bình, nơi tràn đầy kỉ niệm và khát khao của nhân vật "em". Qua đó, nhà thơ cũng bộc lộ tình yêu thiên nhiên thiết tha.
Mẫu 10
Đỗ Phủ là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Trung Hoa và được người đời sau tôn làm "Thi Thánh". Ông xuất thân từ một gia đình truyền thống nho học và thơ ca lâu đời. Cuộc đời ông gắn với nhiều biến cố lịch sử dữ dội của thời đại với nhiều đau thương, mất mát. Ông phải chịu cảnh tha hương và sống cuộc sống khốn khó, bệnh tật tại Quý Châu. Nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông là chùm tám bài thơ thu trong đó có "Thu hứng" (bài 1). Bài thơ bộc lộ nỗi nhớ quê hương sâu sắc của thi nhân khi ông nhìn ngắm khung cảnh thiên nhiên mùa thu tiêu điều, hiu hắt và khung cảnh đời sống rộn ràng, tươi vui của con người tại Quý Châu.
Nhan đề tác phẩm đã gợi cho người đọc tâm trạng của thi nhân trước cảnh thu. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ tâm trạng trước bức tranh thiên nhiên đến cảm nhận về cảnh sinh hoạt của con người.
Trong bốn câu thơ đầu, nhà thơ đã đã khắc họa bức tranh mùa thu hiu hắt, man mác buồn. Chỉ với vài nét chấm phá, nhà thơ đã làm nổi bật lên không gian chiều thu ở Quý Châu:
"Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm"
Ta có thể nhận thấy vị trí quan sát của nhà thơ tương đối cao bởi tầm nhìn của ông khá xa và rộng. Sương trắng giăng đầy khắp núi gợi lên không gian tiêu điều, xác xơ của rừng phong. "Sương trắng" và "rừng phong" là những hình ảnh thường được sử dụng trong thơ ca cổ khi viết về mùa thu. Từ "trắng xóa" miêu tả độ dày đặc của màn sương mù, gợi lên sự hoang vu. Nhà thơ nhắc tới hai địa danh núi Vu và kẽm Vu thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Đây là những địa danh có địa hình hiểm trở với những vách núi dựng đứng. Vào mùa thu, nơi đây mịt mù với "hơi thu" lạnh lẽo phủ khắp không gian. Hai câu thơ đầu tuy khung cảnh khác nhau nhưng nhà thơ lại nhìn chúng với tâm trạng trĩu nặng nỗi buồn.
Tầm nhìn của nhà thơ đã chuyển hướng ở hai câu thơ tiếp theo. Sự vận hành của tứ thơ rất logic, từ xa đến gần, từ không gian bên ngoài đến những rung động trong nội tâm, mỗi câu thơ đều bộc lộ nỗi nhớ thương đau đáu. Nếu ở hai câu thơ đầu, nhà thơ phóng tầm mắt lên cao, nhìn đến rừng phong với sương mù mờ ảo thì ở hai câu thơ sau, nhà thơ đã hạ tầm nhìn xuống dòng sông "Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời". Động từ "trùm" khiến người đọc hình dung ra một khung cảnh hùng vĩ của dòng sông. Đồng thời, hình ảnh "Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u" càng khiến cho không gian trở nên tối tăm, lạnh lẽo. Sự kết hợp giữa cảnh rừng phong tiêu điều, sương trắng âm u với vẻ hùng vĩ của sông nước, núi rừng khiến khung cảnh thiên nhiên thêm phần rợn ngợp. Nhịp thơ 2/2/3 kết hợp và cách gieo vần chân "lâm" - "sâm" - "âm" càng khắc họa nỗi buồn của nhân vật trữ tình trước không gian mênh mang của mùa thu.
Bốn câu thơ cuối, thi nhân đã diễn tả những rung động mãnh liệt, sâu sắc trước cảnh vật thiên nhiên tươi đẹp và khung cảnh sinh hoạt của con người:
"Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm."
Nỗi lòng nhà thơ bộc lộ rõ qua hình ảnh "khóm cúc nở hoa đã hai lần", "con thuyền lẻ loi", "rộn ràng dao thước để may áo rét", "tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập". Hình ảnh "khóm cúc nở hoa đã hai lần" dùng để chỉ thời gian xa nhà của tác giả. Nhà thơ không kìm nén nổi cảm xúc mà "tuôn rơi nước mắt". Hình ảnh "Con thuyền lẻ loi" gợi ra sự cô đơn, nổi trôi vô định của Đỗ Phủ nơi đất khách.
Hai câu thơ cuối bài có sự xuất hiện của con người với âm thanh cuộc sống sinh động. Từ láy "rộn ràng", "dồn dập" gợi không khí tươi vui. Ta có thể nhận ra được sự chuyển biến tâm trạng nhân vật trữ tình khi đứng trước khung cảnh sinh hoạt của con người. Giờ đây, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương càng trào dâng trong lòng tác giả. Nằm trong chùm tám bài thơ cùng nhan đề, "Thu hứng" (bài 1) và "Thu hứng" (bài 2) lại có những nét hấp dẫn riêng. Nếu "Thu hứng" (bài 2) thể hiện tình yêu nước một cách thầm kín thì "Thu hứng" (bài 1) lại khiến cho người đọc cảm nhận được nỗi nhớ quê hương da diết của một con người lưu lạc nơi đất khách quê người.
Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Niêm, luật và cách gieo vần trong bài thơ được tuân thủ chặt chẽ. Tác giả đã khéo léo sử dụng ngôn từ và những hình ảnh đặc sắc nhằm khắc họa khung cảnh thiên nhiên và khung cảnh sinh hoạt của con người. Bút pháp tả cảnh ngụ tình cũng được thi nhân sử dụng nhằm bộc lộ tâm trạng buồn, xót xa của thi nhân khi nghĩ về quê hương.
"Thu hứng" (bài 1) thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết của một con người lưu lạc nơi đất khách. Bài thơ mang đậm dấu ấn của một hồn thơ tinh tế. Qua bài thơ, người đọc cũng cảm nhận được tài năng và nhân cách cao đẹp của nhà thơ Đỗ Phủ. Đúng như nhà thơ Nguyên Chẩn đã viết: "Đỗ Tử Mỹ trên làm nhạt Phong Tao, dưới làm mờ Thẩm - Tống; lời vượt cả Tô, Lý; khí thơ nuốt cả Tào, Lư; che khuất Nhan, Tạ đỉnh cao, nhuộm đục Từ, Dữu dòng thắm..., có tất cả thể thế của tổ tiên, lại có được cái độc chuyên của từng thi sĩ. Người làm thơ từ xưa đến nay chưa có ai được như Đỗ Tử Mỹ vậy".
Lời giải
+ Không gian trong và lạnh từ hình ảnh ''ao thu'', ''mặt nước'', ''thuyền câu''
+ Sự tĩnh lặng của không gian từ hình ảnh ''sóng biếc'', ''lá vàng''
+ Sự cao rộng của không gian từ hình ảnh ''tầng mây'', ''ngõ trúc'', các tính từ ''lơ lửng'', ''trong vắt'',..
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.