Câu hỏi:
06/03/2025 479
TRUYỆN ĐỔNG THIÊN VƯƠNG *
Hùng Vương cậy nước mình giàu mạnh, mà chểnh mảng việc triều cận Bắc phương. Vua nhà Ân mượn cớ tuần thú sang xâm lược. Hùng Vương nghe tin, triệu tập quân thần hỏi kế công thủ. Có người phương sĩ tâu rằng: “Sao không cầu Long Vương đưa quân âm lên giúp!" Vua nghe lời, bèn lập đàn, bày vàng bạc lụa là lên trên, ăn chay, thắp hương, cầu đảo ba ngày.
Trời nổi mưa to gió lớn, bỗng thấy một cụ già cao hơn chín thước, mặt vàng bụng lớn, mày râu bạc trắng, ngồi ở ngã ba đường mà cười nói ca múa. Những người trông thấy biết là kẻ phi thường, mới vào tâu vua. Vua thân hành ra vái chào, rước vào trong đàn. Cụ già không ăn uống cũng không nói năng. Vua nhân hỏi: “Nghe tin quân Bắc sang xâm lược, ta thua được thế nào, ngài có kiến văn xin bảo giúp”. Cụ già ngồi im một lúc rồi bảo vua rằng: “Ba năm nữa giặc Bắc sẽ sang, phải nghiêm chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ binh mà giữ nước, lại phải đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phân phong tước ấp, truyền hưởng lâu dài. Nếu được người giỏi, có thể dẹp được giặc vậy".
Dứt lời, bay lên không mà đi, mới biết đó là Long Quân. Ba năm sau, người biên giới cấp báo có giặc Ân tới. Vua làm theo lời cụ già dặn, sai sứ đi khắp các nơi cầu hiền tài. Tới làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, Bắc Ninh, có một phú ông tuổi hơn sáu mươi, sinh được một người con trai vào giữa ngày mồng 7 tháng giêng, ba tuổi còn không biết nói, nằm ngửa không ngồi dậy được. Người mẹ nghe tin sứ giả tới mới nói giỡn rằng: “Sinh được thằng con trai này chỉ biết ăn, không biết đánh giặc để lấy thưởng của triều đình, báo đáp công bú mớm. Người con nghe thấy mẹ nói, đột nhiên bảo: “Mẹ gọi sứ giả tới đây”. Người mẹ rất lấy làm kinh kể lại với hàng xóm. Hàng xóm cả mừng, tức tốc gọi sứ giả tới. Sứ giả hỏi: “Mày là đứa trẻ mới biết nói, mời ta đến làm gì?".
Đứa trẻ nhỏm dậy bảo sứ giả rằng: “Mau về tâu với vua rèn một ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước, một roi sắt và một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh bại, vua phải lo gì nữa?”. Sứ giả mừng rỡ vội về tâu vua. Vua vừa kinh vừa mừng nói rằng: “Ta không lo nữa".
Quân thần tâu: “Một người thì làm sao mà đánh bại được giặc?”. Vua nổi giận nói: “Lời nói của Long Quân ngày trước không phải là ngoa, các quan chớ nghi ngờ gì nữa! Mau đi tìm năm mươi cân sắt luyện thành ngựa, kiếm, roi và nón". Sứ giả tới gặp, người mẹ sợ hãi cho rằng tai họa đã đến, bèn bảo người con. Con cả cười bảo rằng: “Mẹ hãy đưa nhiều cơm rượu cho tôi ăn, việc đánh giặc mẹ chớ có lo".
Người con lớn lên rất nhanh, ăn uống tốn rất nhiều, người mẹ cung đốn không đủ. Hàng xóm sửa soạn trâu rượu bánh quả rất nhiều mà người con ăn vẫn không no bụng. Vải lụa gấm vóc rất nhiều mà mặc vẫn không kín thân, phải đi lấy hoa lau buộc thêm vào cho kín người. Kíp đến lúc quân nhà Ân tới chân núi Trâu Sơn ở Vũ Ninh, người con duỗi chân đứng dậy cao hơn mười thước (có chỗ nói là trượng) ngửa mũi hắt hơi hơn mười tiếng, rút kiếm thét lớn: “Ta là thiên tướng đây!” rồi đội nón cưỡi ngựa. Ngựa chồm lên, hí dài một tiếng mà phi như bay, nháy mắt đã tới trước nhà vua, võ kiếm đi trước, quan quân đều theo sau, tiến sát đồn giặc. Tướng Nhà Ân bị giết ở núi Trâu, quân lính còn lại đều bái lạy, xưng gọi “Tướng nhà trời” rồi cùng hàng phục. Đi đến đất Sóc Sơn huyện Kim Hoa, thiên tướng cởi áo cưỡi ngựa mà lên trời, hôm đó là ngày mồng 9 tháng 4, còn để vết tích ở hòn đá trên núi. Hùng Vương nhớ công ơn đó mới tôn là Phù Đổng Thiên Vương, lập miếu thờ ở nhà cũ trong làng, lại ban cho một ngàn mẫu ruộng, sớm hôm hương lửa. Nhà Ân đời đời, 644 năm không dám ra quân. [...]
(Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam chích quái, NXB Trẻ 2011)
* Truyện còn có tên là “Truyện Phù Đổng Thiên Vương” do Nguyễn Hữu Vinh dịch.
Xác định thể loại của đoạn trích và ngôi kể của người kể chuyện.
TRUYỆN ĐỔNG THIÊN VƯƠNG *
Hùng Vương cậy nước mình giàu mạnh, mà chểnh mảng việc triều cận Bắc phương. Vua nhà Ân mượn cớ tuần thú sang xâm lược. Hùng Vương nghe tin, triệu tập quân thần hỏi kế công thủ. Có người phương sĩ tâu rằng: “Sao không cầu Long Vương đưa quân âm lên giúp!" Vua nghe lời, bèn lập đàn, bày vàng bạc lụa là lên trên, ăn chay, thắp hương, cầu đảo ba ngày.
Trời nổi mưa to gió lớn, bỗng thấy một cụ già cao hơn chín thước, mặt vàng bụng lớn, mày râu bạc trắng, ngồi ở ngã ba đường mà cười nói ca múa. Những người trông thấy biết là kẻ phi thường, mới vào tâu vua. Vua thân hành ra vái chào, rước vào trong đàn. Cụ già không ăn uống cũng không nói năng. Vua nhân hỏi: “Nghe tin quân Bắc sang xâm lược, ta thua được thế nào, ngài có kiến văn xin bảo giúp”. Cụ già ngồi im một lúc rồi bảo vua rằng: “Ba năm nữa giặc Bắc sẽ sang, phải nghiêm chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ binh mà giữ nước, lại phải đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phân phong tước ấp, truyền hưởng lâu dài. Nếu được người giỏi, có thể dẹp được giặc vậy".
Dứt lời, bay lên không mà đi, mới biết đó là Long Quân. Ba năm sau, người biên giới cấp báo có giặc Ân tới. Vua làm theo lời cụ già dặn, sai sứ đi khắp các nơi cầu hiền tài. Tới làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, Bắc Ninh, có một phú ông tuổi hơn sáu mươi, sinh được một người con trai vào giữa ngày mồng 7 tháng giêng, ba tuổi còn không biết nói, nằm ngửa không ngồi dậy được. Người mẹ nghe tin sứ giả tới mới nói giỡn rằng: “Sinh được thằng con trai này chỉ biết ăn, không biết đánh giặc để lấy thưởng của triều đình, báo đáp công bú mớm. Người con nghe thấy mẹ nói, đột nhiên bảo: “Mẹ gọi sứ giả tới đây”. Người mẹ rất lấy làm kinh kể lại với hàng xóm. Hàng xóm cả mừng, tức tốc gọi sứ giả tới. Sứ giả hỏi: “Mày là đứa trẻ mới biết nói, mời ta đến làm gì?".
Đứa trẻ nhỏm dậy bảo sứ giả rằng: “Mau về tâu với vua rèn một ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước, một roi sắt và một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh bại, vua phải lo gì nữa?”. Sứ giả mừng rỡ vội về tâu vua. Vua vừa kinh vừa mừng nói rằng: “Ta không lo nữa".
Quân thần tâu: “Một người thì làm sao mà đánh bại được giặc?”. Vua nổi giận nói: “Lời nói của Long Quân ngày trước không phải là ngoa, các quan chớ nghi ngờ gì nữa! Mau đi tìm năm mươi cân sắt luyện thành ngựa, kiếm, roi và nón". Sứ giả tới gặp, người mẹ sợ hãi cho rằng tai họa đã đến, bèn bảo người con. Con cả cười bảo rằng: “Mẹ hãy đưa nhiều cơm rượu cho tôi ăn, việc đánh giặc mẹ chớ có lo".
Người con lớn lên rất nhanh, ăn uống tốn rất nhiều, người mẹ cung đốn không đủ. Hàng xóm sửa soạn trâu rượu bánh quả rất nhiều mà người con ăn vẫn không no bụng. Vải lụa gấm vóc rất nhiều mà mặc vẫn không kín thân, phải đi lấy hoa lau buộc thêm vào cho kín người. Kíp đến lúc quân nhà Ân tới chân núi Trâu Sơn ở Vũ Ninh, người con duỗi chân đứng dậy cao hơn mười thước (có chỗ nói là trượng) ngửa mũi hắt hơi hơn mười tiếng, rút kiếm thét lớn: “Ta là thiên tướng đây!” rồi đội nón cưỡi ngựa. Ngựa chồm lên, hí dài một tiếng mà phi như bay, nháy mắt đã tới trước nhà vua, võ kiếm đi trước, quan quân đều theo sau, tiến sát đồn giặc. Tướng Nhà Ân bị giết ở núi Trâu, quân lính còn lại đều bái lạy, xưng gọi “Tướng nhà trời” rồi cùng hàng phục. Đi đến đất Sóc Sơn huyện Kim Hoa, thiên tướng cởi áo cưỡi ngựa mà lên trời, hôm đó là ngày mồng 9 tháng 4, còn để vết tích ở hòn đá trên núi. Hùng Vương nhớ công ơn đó mới tôn là Phù Đổng Thiên Vương, lập miếu thờ ở nhà cũ trong làng, lại ban cho một ngàn mẫu ruộng, sớm hôm hương lửa. Nhà Ân đời đời, 644 năm không dám ra quân. [...]
(Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam chích quái, NXB Trẻ 2011)
* Truyện còn có tên là “Truyện Phù Đổng Thiên Vương” do Nguyễn Hữu Vinh dịch.
Quảng cáo
Trả lời:
- Đoạn trích trên được viết theo thể loại: truyện truyền kì
Ngôi kể: ngôi thứ 3
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Giải nghĩa của yếu tố “thiên” trong từ “thiên vương” và “thiên đô”. Cho biết việc sử dụng yếu tố “thiên” là hiện tượng gì của từ Hán Việt?
Giải nghĩa của yếu tố “thiên” trong từ “thiên vương” và “thiên đô”. Cho biết việc sử dụng yếu tố “thiên” là hiện tượng gì của từ Hán Việt?
Lời giải của GV VietJack
- “Thiên” trong “thiên vương”: trời
- “Thiên” trong “thiên đô”: dời
Hiện tượng đồng âmCâu 3:
Trong đoạn trích, nhân vật cụ già được hiện lên qua những từ ngữ, chi tiết nào? Nhân vật này thuộc nhóm nhân vật nào trong thể loại mà em đã học?
Lời giải của GV VietJack
- Nhân vật cụ già hiện lên qua từ ngữ, chi tiết:
+ Cao hơn chín thước, mặt vàng bụng lớn, mày râu bạc trắng, ngồi ở ngã ba đường mà cười nói ca múa. (Thiếu ý được 0,25)
+ Không ăn uống, không nói năng
+ Bay lên không mà đi
- Nhóm nhân vật: thần tiênCâu 4:
Chỉ ra 3 yếu tố kì ảo có trong truyện và nêu tác dụng.
Chỉ ra 3 yếu tố kì ảo có trong truyện và nêu tác dụng.
Lời giải của GV VietJack
- HS chỉ ra 3 yếu tố kì ảo:
+ Long Quân hiện xuống nói rồi bay đi
+ Đứa con trai 3 tuổi không biết nói, nằm ngửa không dậy được bỗng cất tiếng nói
+ Thiên tướng và ngựa bay lên trời
…
Thiếu 1 yếu tố được 0,25đ
- Tác dụng:
+ Giúp câu chuyện hấp dẫn, li kì
+ Thể hiện mong ước về người anh hùng có sức mạnh đánh giặcCÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
a. Xác định được yêu cầu hình thức, dung lượng của đoạn văn. HS có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: nhân vật Phù Đổng Thiên Vương trong văn bản.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận:
- Mở đoạn: Giới thiệu nhân vật
- Thân đoạn: Làm rõ đặc điểm nhân vật
+ Xuất thân
+ Sự ra đời và lớn lên
+ Tài năng
+ Việc trở về trời
àĐó là người anh hùng của dân tộc
- Kết đoạn: Khái quát, khẳng định vấn đề
a. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau:
- Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận
- Sắp xếp hệ thống ý hợp lí theo đặc điểm bố cục của kiểu đoạn văn
- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục, bằng chứng tiêu biểu; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
b. Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, liên kết câu trong đoạn văn
· Lưu ý:
- Điểm phần (d) và e nằm trong phần (c)
- Nếu HS viết đoạn văn nêu chung chung về nhân vật, chưa rõ kiểu bài nghị luận thì tối đa cho 0,5đ
Lời giải
I. Yêu cầu chung
- Kiểu bài: Bài văn nghị luận về một vấn đề cần giải quyết: những giải pháp phù hợp với học sinh để bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Bố cục: Bài viết đảm bảo bố cục 3 phần: Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề.
- Hình thức trình bày: Bài viết trình bày rõ ràng, sạch sẽ, đúng hình thức bài văn, đúng chính tả và ngữ pháp Tiếng Việt.
II. Yêu cầu cụ thể
- Mở bài: giới thiệu vấn đề cần giải quyết: những giải pháp phù hợp với học sinh để bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; sự cần thiết phải bàn luận về vấn đề.
- Thân bài:
* Triển khai các luận điểm thể hiện quan điểm của người viết xét trên từng khía cạnh của vấn đề.
a. Luận điểm 1: Giải thích bản chất của vấn đề nghị luận.
- Biến đổi khí hậu: Là sự thay đổi của khí hậu do tác động của con người, chủ yếu là do việc thải ra quá nhiều khí nhà kính như CO2. Biến đổi khí hậu gây ra nhiều hệ lụy như nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng, thiên tai ngày càng khốc liệt.
- Ô nhiễm môi trường: Là tình trạng môi trường bị ô nhiễm bởi các chất thải từ hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người. Ô nhiễm môi trường gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người và các loài sinh vật khác.
b. Luận điểm 2: Phân tích (lí lẽ, bằng chứng)
* Thực trạng:
- Ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu là một vấn đề nóng, xảy ra ở khắp nơi.
- Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Mực nước biển dâng cao đe dọa các khu vực ven biển, hạn hán và lũ lụt diễn ra thường xuyên hơn.
- Ô nhiễm môi trường ở Việt Nam cũng đang ở mức báo động. Các thành phố lớn thường xuyên bị ô nhiễm không khí, nguồn nước bị ô nhiễm nặng nề.
* Nguyên nhân:
- Dân số tăng, sử dụng quá mức nhiên liệu hóa thạch.
- Phá rừng và khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức.
- Các khu công nghiệp tăng và ý thức bảo vệ môi trường của người dân còn hạn chế.
* Hậu quả:
- Thiên tai, dịch bệnh gia tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người.
- Mất đa dạng sinh học.
- Kinh tế bị thiệt hại nặng nề.
c. Luận điểm 3: Nêu ra ý kiến trái chiều và phản bác
- HS nêu ra ý kiến trái chiều với vấn đề bàn luận và phản bác có cơ sở.
HS có thể diễn đạt bằng các từ ngữ khác hợp lý vẫn cho điểm tối đa.
d. Đề xuất giải pháp: HS đưa được các giải pháp phù hợp và triển khai lí lẽ, bằng chứng phù hợp. Sau đây là 1 số gợi ý:
* Nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường
* Tiết kiệm năng lượng
* Giảm thiểu, tái chế và tái sử dụng rác thải
* Trồng cây xanh
…
Yêu cầu: HS đề xuất giải pháp và triển khai rõ ràng. Ví dụ:
* Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường
- Tìm hiểu về biến đổi khí hậu và các giải pháp bảo vệ môi trường qua sách báo, internet, các chương trình giáo dục.
- Chia sẻ kiến thức với bạn bè, gia đình và cộng đồng.
- Tham gia các hoạt động tuyên truyền, vận động bảo vệ môi trường
- Nâng cao nhận thức giúp mọi người hiểu rõ hơn về tác hại của biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường, từ đó có ý thức và hành động bảo vệ môi trường.HS đưa ra được các giải pháp phù hợp, hiệu quả đạt điểm tối đa
- Kết bài: Khẳng định tầm quan trọng của việc nhận thức đúng vai trò và trách nhiệm trong bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu. Liên hệ bài học nhận thức và hành động của bản thân.Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.