Câu hỏi:

13/10/2025 60 Lưu

LỤC VÂN TIÊN

(Nguyễn Đình Chiểu)

(Trích)

Vân Tiên ghé lại bên đàng,

Bẻ cây làm gậy, nhằm làng xông vô.

Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ!

Chớ quen làm thói hồ đồ (1) hại dân.”

Phong Lai(2) mặt đỏ phừng phừng:

“Thằng nào dám tới lẫy lừng(3) vào đây.

Trước gây việc dữ tại mầy, (4)

Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng.”

Vân Tiên tả đột hữu xông(5),

Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang. (6)

Lâu la bốn phía vỡ tan,

Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.

Phong Lai trở chẳng kịp tay,

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong. (7)

Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,

Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này?”

Thưa rằng: “Tôi thiệt người ngay,

Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ.

Trong xe chật hẹp khôn phô, (8)

Cúi đầu trăm lạy, cứu cô tôi cùng.”

Vân Tiên nghe nói động lòng,

Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la.

Khoan khoan ngồi đó chớ ra,

Nàng là phận gái, ta là phận trai.

Tiểu thư con gái nhà ai,

Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ. (9)

Chẳng hay tên họ là chi?

Khuê môn(10) phận gái việc gì đến đây?

Trước sau chưa hãn dạ nầy, (11)

Hai nàng ai tớ, ai thầy nói ra?”

Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga,

Con này tì tất (12)tên là Kim Liên.

Quê nhà ở quận Tây Xuyên,

Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.

Sai quân đem bức thư về,

Rước tôi qua đó định bề nghi gia.

Làm con đâu dám cãi cha,

Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành!

Chẳng qua là sự bất bình, (13)

Hay vầy(14) cũng chẳng đăng trình (15) làm chi.

Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,

Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi. (16)

Trước xe quân tử (17) tạm ngồi,

Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa:

Chút tôi(18) liễu yếu đào thơ, (19)

Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần. (20)

Hà Khê qua đó cũng gần,

Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng.

Gặp đây đương lúc giữa đàng,

Của tiền không có, bạc vàng cũng không.

Gẫm câu báo đức thù công, (21)

Lấy chi cho phỉ(22) tấm lòng cùng ngươi.”

Vân Tiên nghe nói liền cười:

“Làm ơn há dễ trông người trả ơn.

Này đà rõ đặng nguồn cơn,

Nào ai tính thiệt so hơn làm gì?

Nhớ câu kiến ngãi bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng(23)”

(Nguyễn Đình Chiểu, Truyện Lục Vân Tiên, trong Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1, NXB Đại học và THCN, Hà Nội, 1980)

Chú thích:

(Tóm tắt tác phẩm: Lục Vân Tiên quê ở quận Đông Thành, khôi ngô tuấn tú, tài kiêm văn võ. Nghe tin triều đỉnh mở khoa thi, Văn Tiên từ giã thấy xuống núi đua tài. Trên đường về nhà thăm cha mẹ, gặp bọn cướp Phong Lai đang hoành hành, chàng đã một mình đánh tan bọn cướp, cứu được Kiểu Nguyệt Nga. Cảm ăn đức ấy, Nguyệt Nga đã tự nguyện gắn bó suốt đời với Vân Tiên và tự tay về một bức hình chàng giữ luôn bên mình. Còn Vân Tiên tiếp tục hành trình, gặp và kết bạn với Hơn Minh, một sĩ tử khác.

Sau khi về thăm cha mẹ, Vân Tiên cùng tiểu đồng lên đường đi thi, ghé thăm Võ Công, người đã hứa gả con gái là Võ Thể Loan cho chàng. Từ đây, Vân Tiên có thêm người bạn đồng hành là Vương Tử Trực, tới kinh đô lại gặp Trịnh Hàm, Bùi Kiệm. Thấy Vân Tiên tài cao, Hàm, Kiệm sinh lòng đố kị ghen ghét. Lúc sắp vào trường thi. Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liên bỏ thị trở về quê chịu tang. Dọc đường về,Vân Tiên đau mắt nặng, rồi bị mù cả hai mất, lại bị Trịnh Hâm lửa đẩy xuống sông. Nhờ giao long dìu đỡ đưa vào bài, Vân Tiên được gia đình ông Ngư cưu mang. Sau đó chàng lại bị cha con Võ Công hàm hại đem bỏ vào hang núi Thương Tông. Được Du thần và ông Tiểu cứu ra, Vân Tiênmay mắn gặp lại Hớn Minh (vì trừng trị cậu công tử con quan ỷ thế làm cần mà Hớn Minh phải bỏ thi sống lẩn lút trong rừng). Hớn Minh đón bạn về nương náu ở nơi am vắng. Khoa thi năm ấy Tử Trực đỗ thủ khoa, trở lại nhà họ Võ hỏi thăm tin tức Vân Tiên. Võ Công ngỏ ý muốn gả con gái, bị Tử Trực cự tuyệt và mắng thẳng vào mặt, Võ Công hổ thẹn ốm chết.

Nghe tin Lục Vân Tiên đã chết, Kiểu Nguyệt Nga thể sẽ thủ tiết suốt đời. Thái sư đương triều hỏi nàng cho con trai không được, đem lòng thù oán, tâu vua bắt Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua. Thuyền đi tới biên giới, nàng mang theo bức hình Vân Tiên nhảy xuống sông tự tử. Phật Bà Quan Âm đưa nàng dạt vào vườn hoa nhà họ Bùi. Bùi Công nhận nàng làm con nuôi, nhưng Bùi Kiệm lại một hai đòi lấy nàng làm vợ. Nguyệt Nga phải trốn khỏi nhà họ Bùi, vào rừng, nương nhờ một bà lão dệt vải.

Lục Vân Tiên ở với Hớn Minh, được tiên cho thuốc, mất lại sáng, liên trở về nhà thăm cha, viếng mộ mẹ, thăm cha của Kiều Nguyệt Nga. Đến khoa thi, chẳng đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Hôn Minh được tiến cử làm phó tưởng. Đánh tan giặc, Vân Tiên một mình lạc trong rừng, đến nhà lão bà hỏi thăm đường và gặp lại Nguyệt Nga. Chàng về triều tàu hết sự tình, kẻ gian ác bị trừng trị, người nhân nghĩa được đền đáp, Lục Vân Tiên và Kiểu Nguyệt Nga sum vầy hạnh phúc.

Đoạn trích: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở phần đầu của truyện)

(1) Hồ đồ: lơ mơ không rõ, thiếu căn cứ rõ ràng. Ở đây chỉ thói làm càn, không chính đáng.

(2) Phong Lai: tên của kẻ cầm đầu bọn cướp.

(3) Lẫy lừng: vang dội, lừng danh, khắp nơi đều biết. Ở đây dùng nghĩa cổ, có nghĩa là dữ dội, hung hăng gây sự.

(4) Mầy: mày (tiếng miền Nam).

(5) Tả đột hữu xông (hữu xung): đánh vào bên trái, xông thẳng bên phải, ý nói thế chủ động tung hoành khi lâm trận.

(6) Triệu Tử phá vòng Đương Dang (Đương Dương): Triệu Vân, tên chữ là Tử Long, một tướng trẻ có tài của Lưu Bị thời Tam quốc. Khi Lưu Bị bị quân Tào đánh đuổi, chạy đến Đương Dương (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc), phải bỏ cả vợ con chạy về phía nam. Triệu Vân một mình phá vòng vây của Tào Tháo, bảo vệ A Đẩu, con nhỏ của Lưu Bị.

(7) Thân vong: ý nói chết bỏ mạng (thân: thân xác, vong: mất).

(8) Khôn phô: khó nói, khó mà bày tỏ được hết.

(9) Mang tại bất kì: bất ngờ, thình lình gặp tai nạn.

(10) Khuê môn: cửa phòng của người con gái. Khuê môn phận gái : phận đàn bà con gái ở chốn buồng the, không đi ra ngoài – theo luân lí phong kiến ngày xưa.

(11) Chưa hãn dạ nầy (tiếng miền Nam): lòng này chưa tỏ, chưa biết chắc chắn (hãn: rõ).

(12) Tì tất: đầy tớ gái.

(13) Sự bất bình: việc không bình thường, không may xảy ra ngoài ý muốn của mình, ý nói không ngờ bị bọn cướp bắt.

(14) Hay vầy (tiếng miền Nam): biết như thế này.

(15) Đăng trình: lên đường đi xa.

(16) Ý cả câu: cái trinh tiết, phẩm giá mà người con gái gìn giữ cả một đời bỗng chốc có thể bị phá hỏng.

(17) Quân tử: tiếng người phụ nữ tôn gọi người con trai có tài, có đức thời xưa.

(18) Chút tôi: cái tôi nhỏ bé, một cách nói khiêm tốn để chỉ mình khi xưng hô với người khác.

(19) Liễu yếu đào thơ: nói thể chất của người con gái mềm mại, yếu ớt.

(20) Đã phần: đã là phần của tôi, ý nói giữa đường gặp phải bọn cướp, lâm vào hoàn cảnh xấu.

(21) Báo đức thù công: báo trả ơn đức, đền đáp công lao.

(22) Phỉ: thoả đáng, xứng đáng, thoả lòng.

(23) Kiến nghĩa bất vi: thấy việc nghĩa không làm. Cả hai câu thơ ý nói thấy việc nghĩa mà bỏ qua không làm thì không phải là người anh hùng.

Xác định ngôi kể trong truyện thơ Nôm trên.

Quảng cáo

Trả lời:

verified Giải bởi Vietjack

Ngôi thứ ba

Câu hỏi cùng đoạn

Câu 2:

Hai câu thơ “Vân Tiên tả đột hữu xông – Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang” sử dụng phép tu từ gì?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

So sánh

Câu 3:

Hình ảnh “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” được khắc họa giống với mô-tip nào trong truyện cổ?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Một chàng trai tài giỏi, cứu một cô gái thoát khỏi hiểm nguy, họ trả nghĩa nhau và thành vợ chồng

Câu 4:

Hai câu thơ “Gẫm câu báo đức thù công – Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi” thể hiện tâm trạng gì của Kiều Nguyệt Nga trước việc làm của Lục Vân Tiên?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Băn khoăn, áy náy vì chưa biết làm thế nào để trả ơn Lục Vân Tiên

Câu 5:

Qua lời lẽ của Kiều Nguyệt Nga, em thấy nàng là con người như thế nào?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Khuê các, thuỳ mị , nết na và có học thức, ân tình thuỷ chung

Câu 6:

Bản chất con người của Lục Vân Tiên trong lời nói và thái độ của chàng với Kiều Nguyệt Nga là gì?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Vì nghĩa lớn, không màng danh lợi

- Từ tâm, nhân hậu

- Chính trực, hào hiệp

Câu 7:

Ngôn ngữ của Truyện Lục Vân Tiên có đặc điểm nổi bật gì?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Đậm màu sắc Nam Bộ

Câu 8:

Hãy tìm những từ ngữ miêu tả hành động, lời nói của Lục Vân Tiên? Em có suy nghĩ gì về hành động, lời nói của Lục Vân Tiên lúc này?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Những động tác của Vân Tiên đều rất dứt khoát, nhanh nhẹn “tả đột hữu xung”, và những hành động anh hùng này được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu so sánh với hình ảnh người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang. Trước sức mạnh của Lục Vân Tiên thì băng cướp bị đánh tan “Lâu la bốn phía vỡ tan”, chúng hoảng loạn bỏ lại gươm giáo mà tìm đường thoát thân. Và cầm đầu của băng đản này là Phong Lai thì bị Tiên cho một gậy “thác rày thân vong”. Đây là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ lấy việc hại người làm niềm vui, làm mục đích kiếm sống.

Câu 9:

Qua hành động đánh cướp và cách cư xử với Kiều Nguyệt Nga, hình ảnh Vân Tiên nổi bật với những phẩm chất nào?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Qua hành động đánh cướp và cách cư xử với Kiều Nguyệt Nga, hình ảnh Vân Tiên là Hình ảnh một người anh hùng hảo hán, có khí phách, trượng nghĩa, thượng võ, bênh vực kẻ yếu, trừ gian diệt ác cho nhân dân. Lục Vân Tiên không chỉ là một người có học thức mà còn là một người hào hiệp, trượng nghĩa. Đối với Vân Tiên, chàng coi việc nhân nghĩa trên đời là điều tất yếu, nếu làm ơn mà vì được đền đáp, trông ngóng đến việc trả ơn thì đó không còn là người anh hùng.

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận

+ Suy nghĩ về quan niệm sống của Lục Vân Tiên.

- Hệ thống ý:

+ Lời từ chối của Lục Vân Tiên

++ Câu nói: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn” → Khẳng định cứu người là việc nghĩa, không vụ lợi, không mong báo đáp.

++ Lí do từ chối:

. Xuất phát từ quan niệm sống trọng nghĩa khinh tài, coi trọng đạo lí hơn vật chất.

. Tôn trọng lễ giáo phong kiến: “Nam nữ thụ thụ bất thân”, không muốn vì chuyện báo ơn mà ảnh hưởng danh dự, tiết hạnh Kiều Nguyệt Nga.

+ Phẩm chất và nhân cách Lục Vân Tiên

++ Người anh hùng nghĩa hiệp: Thấy việc bất bình chẳng tha, cứu người trong cơn hoạn nạn.

++ Sống nghĩa tình, trong sáng, không toan tính thiệt hơn.

++ Tôn trọng người khác, biết giữ gìn danh dự cho người phụ nữ.

++ Sống chuẩn mực đạo lí, là hình mẫu lí tưởng trong xã hội phong kiến.

+ Quan niệm sống

++ “Kiến nghĩa bất vi, phi anh hùng” → Thấy việc nghĩa không làm là kẻ hèn nhát.

++ Sống vì nghĩa, vì đạo lí, không màng danh lợi, vật chất.

++ Đề cao nhân nghĩa, tình người, sự chính trực, trong sạch.

- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục

+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.

+ Thể hiện rõ suy nghĩ về quan niệm sống của Lục Vân Tiên.

- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:

+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.

- Sáng tạo

+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Đoạn văn tham khảo

Trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, sau khi được chàng cứu thoát khỏi bọn cướp, Kiều Nguyệt Nga muốn báo đáp công ơn, nhưng Lục Vân Tiên đã khẳng khái từ chối: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Câu nói ấy cho thấy Lục Vân Tiên coi việc cứu người là bổn phận của kẻ làm trai, là lẽ sống của bậc anh hùng, chứ không phải vì danh lợi hay vật chất. Hơn nữa, chàng còn lo giữ gìn thanh danh, tiết hạnh cho Kiều Nguyệt Nga, bởi trong quan niệm phong kiến xưa, “nam nữ thụ thụ bất thân”, việc nam nữ tiếp xúc quá mức dễ làm tổn hại đến danh dự người con gái. Từ đó, ta thấy Lục Vân Tiên là người sống nghĩa hiệp, nhân ái, luôn đặt đạo lí và nhân phẩm lên hàng đầu. Quan niệm sống của chàng là “kiến nghĩa bất vi, phi anh hùng” – thấy việc nghĩa mà không làm thì chẳng phải anh hùng. Bài học mà Lục Vân Tiên để lại thật sâu sắc: sống ở đời phải nghĩa tình, sẵn sàng giúp đỡ người khác một cách vô tư, không màng tư lợi cá nhân.

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 400 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: bàn về quan niệm người anh hùng được đặt ra trong đoạn trích ngữ liệu “Lục Vân Tiên”

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu tác giả: Nguyễn Đình Chiểu (1822–1888) là nhà thơ yêu nước, nhà nho tiết tháo, cuộc đời gắn liền với những biến cố lớn của dân tộc.

- Giới thiệu tác phẩm Lục Vân Tiên: là truyện thơ Nôm nổi tiếng, mang giá trị đạo đức, nhân văn sâu sắc.

- Dẫn vấn đề nghị luận: Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện qua hai câu thơ:

“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”

* Thân bài:

1. Giải thích vấn đề

- Kiến nghĩa bất vi: Thấy việc nghĩa mà không làm.

- Anh hùng: Người có tài, có đức, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của mọi người.

→ Ý nghĩa hai câu thơ: Thấy việc nghĩa mà không làm thì không xứng đáng gọi là anh hùng.

2. Biểu hiện trong tác phẩm

- Hành động của Lục Vân Tiên:

+ Gặp chuyện bất bình, không màng hiểm nguy, dũng cảm ra tay trừ bọn cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga.

+ Sau khi cứu xong, khẳng khái từ chối mọi sự đền đáp: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”.

→ Lục Vân Tiên xả thân vì nghĩa, hành động vô tư, không vụ lợi.

3. Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu

- Người anh hùng phải:

+ Dũng cảm, tài trí: Dám chống lại cái ác, trừ gian diệt bạo.

+ Hành động vì nghĩa, vì lẽ phải: Không màng danh lợi, tiền tài.

+ Giữ gìn nhân cách, phẩm hạnh: Tôn trọng người khác, đặc biệt là với phụ nữ, giữ lễ nghĩa, khuôn phép.

→ Quan niệm giàu tính nhân văn, đề cao nghĩa khí và đạo đức làm người.

4. Bàn luận – mở rộng

- Quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện khát vọng xã hội công bằng, cái thiện chiến thắng cái ác.

- Gợi suy ngẫm về lối sống hôm nay:

+ Sống có trách nhiệm, nghĩa tình.

+ Dám đấu tranh với cái xấu, bảo vệ lẽ phải.

+ Hành động thiện nguyện, giúp đỡ người khó khăn với tấm lòng vô tư, trong sáng.

* Kết bài:

- Khẳng định quan niệm về người anh hùng trong tác phẩm Lục Vân Tiên là tiến bộ, giàu nhân nghĩa.

- Nêu cảm nghĩ, rút ra bài học: Mỗi người cần sống dũng cảm, nghĩa tình, hành động vì điều đúng đắn để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bài viết tham khảo

Nguyễn Đình Chiểu (1822–1888) là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam ở thế kỉ XIX. Cuộc đời và sáng tác của ông gắn liền với những biến cố đau thương của đất nước và con người Nam Bộ dưới ách xâm lược của thực dân Pháp. Dù bị mù cả hai mắt sau khi đỗ tú tài, ông vẫn sống một cuộc đời thanh bạch, dạy học, bốc thuốc, làm thơ văn yêu nước, ngợi ca đạo lí làm người. Lục Vân Tiên là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Đình Chiểu, mang đậm chất nhân nghĩa và lý tưởng đạo đức của ông. Trong đó, quan niệm về người anh hùng được thể hiện rõ qua hai câu thơ:

“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”

Trước hết, cần hiểu rằng kiến nghĩa bất vi nghĩa là thấy việc nghĩa mà không làm. Người anh hùng, theo Nguyễn Đình Chiểu, không chỉ cần tài trí mà còn phải sẵn sàng xả thân vì chính nghĩa, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của mọi người. Nếu thấy điều bất bình mà thờ ơ, im lặng, thì dù có tài giỏi đến đâu cũng không xứng gọi là anh hùng.

Quan niệm ấy được thể hiện rõ qua hình tượng Lục Vân Tiên trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga. Gặp chuyện bất bình giữa đường, chàng không hề sợ hãi, nhanh chóng “bẻ cây làm gậy” xông thẳng vào bọn cướp, đánh tan lũ giặc dữ, giải cứu Kiều Nguyệt Nga. Hành động ấy không chỉ thể hiện sự dũng cảm, tài trí mà còn sáng ngời nghĩa khí của bậc anh hùng. Đặc biệt, sau khi cứu được người, chàng khẳng khái từ chối mọi sự đền đáp: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn.” Chỉ một câu nói giản dị nhưng đã làm sáng tỏ nhân cách cao đẹp: ra tay vì nghĩa, không vụ lợi, không mong cầu danh tiếng hay vật chất.

Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu vì vậy mang ý nghĩa sâu sắc: người anh hùng phải có dũng khí, có tài năng, nhưng quan trọng nhất là tấm lòng nhân nghĩa, hành động vì lẽ phải, công bằng và điều tốt đẹp cho mọi người. Họ không chỉ diệt trừ cái ác mà còn giữ trọn nhân cách, đạo lí làm người, sống vô tư, trong sáng.

Trong cuộc sống hôm nay, quan niệm ấy vẫn còn nguyên giá trị. Người anh hùng thời hiện đại có thể không cầm gươm giáo ra trận nhưng vẫn là những con người sống có trách nhiệm, dám đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, sẵn sàng giúp đỡ cộng đồng với tấm lòng nhân ái. Mỗi người chúng ta cần noi theo tinh thần “kiến nghĩa bất vi” ấy để làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.

Có thể nói, quan niệm về người anh hùng trong Lục Vân Tiên không chỉ phản ánh khát vọng về công lí và chính nghĩa của nhân dân mà còn để lại bài học đạo đức sâu sắc cho muôn đời: sống dũng cảm, nghĩa tình và nhân ái để góp phần xây dựng một cuộc sống công bằng, nhân văn hơn.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP