Câu hỏi:

15/10/2025 57 Lưu

Nàng bua

(Nguyễn Huy Thiệp)

(1) Ở Hua Tát có một người đàn bà đặc biệt là Lò Thị Bua. Đi ra đường không ai chào hỏi nàng. “Quỷ dùi đấy! Đừng gần nó!” Các bà mẹ dặn con như thế. Các bà vợ dặn chồng như thế.

Bua là một thiếu phụ duyên dáng. Người nàng cao lớn, đôi hông to khỏe, thân hình lần chắc, bộ ngực nở nang mềm mại. Nàng lúc nào cũng tươi cười, tràn trề thứ ánh sáng cuốn hút lòng người.

Bua ở một mình với chín đứa con của nàng. Không ai biết bố chúng là ai. Ngay với Bua nàng cũng không biết đích xác bố của từng đứa một. Rất nhiều người đàn ông đến với nàng rồi sau đó họ bỏ rơi nàng. Những anh chàng thiếu niên miệng còn hơi sữa chưa đủ kinh nghiệm làm bố, những ông giả từng trải, những người thợ săn dũng cảm, những kẻ hà tiện... Mỗi người đến với Bua một cách và họ ra đi cũng chẳng có ai giống nhau. Chuyện tình ái, giống đực thường khôn ngoan và vô trách nhiệm, giống cái thì nhẹ dạ và tận tụy quá. Bua nồng nàn với tất cả những người đàn ông đến với nàng và cũng lãnh đạm với tất cả những người đàn ông bỏ rơi nàng. Những đứa con không bố sinh ra tự nàng lo liệu lấy chúng. Bua không quyến luyến, gắn bó với bất cứ người đàn ông nào trong bản. Nàng sống trờ trờ trước mắt mọi người. Nàng có chú ý đến mọi người không, nào ai biết được?

Cái hộ gia đình đông đúc của nàng Bua sống vui vẻ, hòa thuận và nghèo túng. Đàn bà trong bản nổi khủng, họ rút lên những lời khinh rẽ qua kẽ răng. Thực ra lòng họ  sợ hãi. Đàn ông trong bản cười cợt, thèm thuồng. Họ ngồi cạnh nhau quanh các bếp lửa, nước dãi nhỏ ra bên khóe mép, đôi mắt long lanh, trom tuột.

Ở Hua Tát, mọi người đều có gia đình nền nếp của mình. Ai cũng phải sống theo phong tục cổ truyền, vợ có chồng, con có bố. Thật chưa bao giờ có một gia đình quái gở thể này? Vợ không chồng! Con không bố! Chín đứa con! Chín đứa mà chẳng đứa nào giống một đứa nào? Những lời đàm tiếu như nạn dịch lan nhanh trong bản. Ở đàn bà, đấy là nạn dịch bọ gà. Ở đàn ông, đấy là nạn dịch sốt... Kẻ bị hành hạ nhiều nhất là đám phụ nữ. Họ buộc cánh đàn ông phải có cách gì giải quyết ổn thỏa việc này. Hoặc là phải đuổi Bua đi, hoặc là tìm ra bố của những đứa trẻ. Sao lại để một gia đình như thế ở trong cộng đồng Hua Tát? Những đứa trẻ lớn lên nỗi chúng sẽ trở thành trai bản, gái bản. Chúng sẽ phá vỡ tất cả nền nếp cổ truyền.

Cuộc họp của cánh đàn ông trong bản Hua Tát nhiều lần dự định không thành. Nhiều người đàn ông thấy mình có lỗi ở trong chuyện ấy. Lương tâm họ cắn rút. Đứng ra nhận con thì không ai dám. Họ sợ miệng lưỡi của các bà vợ nông nổi, thủy chung. Họ sợ dư luận. Đáng sợ hơn cả còn là cuộc sống nghèo túng.

(2) Năm ấy, không hiểu sao rừng Hoa Tất cả mài nhiều vô kể. Người ta đào được những củ mài to tướng dễ như bỡn. Những củ mài xốp, thơm hanh hanh và ngậy, ninh lên bở tơi, ăn hơi tê rát vòm miệng rất thú. Nàng Bua và lũ con cũng kéo nhau đi đào. Rừng hào phóng và bao dung với tất cả mọi người.

Một bữa, lần theo rễ củ, Bua và lũ con đào được một cái hũ sành sứt mẻ, nước da lươn đã xin vì năm tháng. Bua gạt lớp đất ở miệng hũ sành và nàng ngạc nhiên thấy hũ chứa đầy những thoi vàng, thoi bạc lấp lánh. Bua rụng rời, run rẩy cả người, đầu gối nàng quỵ xuống, những giọt nước mắt sung sướng giàn giụa. Lũ con xúm xít xung quanh, sợ hãi nhìn mẹ.

Thoắt một cái, người đàn bà nghèo khó và bị khinh rẻ trở thành giàu có nhất bản, nhất mường.

Bây giờ, cuộc họp của cánh đàn ông về Bua không còn cần nữa. Người ta lần lượt tìm đến nhà Bua để nhận con mình. Các bà vợ nông nổi và thủy chung giục giã chồng mình đi nhận con về. Hóa ra không phải là chín ông bố, cũng không phải là hai chục nữa. Bọn họ có đến cả năm chục người. Tuy nhiên, Bua không thừa nhận những người đàn ông ấy là bố của những đứa trẻ. Họ đến và ai cũng được một món quà tặng làm vui lòng các bà vợ nền nếp của mình.

(3) Cuối năm ấy, Bua lấy một người thợ săn hiền lành, góa vợ và không con cái. Có lẽ đây mới là tình yêu của nàng vì nàng đã rơi những giọt nước mắt hạnh phúc trong đêm hợp cẩn. Với những người đàn ông trước, ở nàng không có những giọt lệ ấy. Đáng lẽ ra Bua sẽ sinh với người chồng được thừa nhận của mình một đứa con nữa, đứa con thứ mười, nhưng người đàn bà ấy không quen sinh nở trong sự đầy đủ và nền nếp cổ truyền. Nàng đã chết khi trở dạ để giữa đống mền chăn ấm áp.

Đám ma nàng, cả cộng đồng Hua Tát đi đưa. Cả đàn ông, cả đàn bà, cả trẻ con nữa. Người ta tha thứ cho nàng, có lẽ nàng cũng tha thứ cho họ.

1971

(Theo Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp với minh họa của các hoạ sĩ, NXB Văn học, 2020)

Truyện gồm mấy phần? Tóm tắt nội dung của từng phần.

Quảng cáo

Trả lời:

verified Giải bởi Vietjack

Truyện gồm mấy phần:

- Phần thứ nhất (từ đầu đến đến cuộc sống nghèo túng): Giới thiệu nhân vật nàng Bua và cuộc sống của nàng cùng đàn con).

- Phần thứ hai (tiếp đến các bà vợ nền nếp của mình): Cuộc đời nàng Bua với nhiều thay đổi từ khi nàng đào được hũ vàng.

- Phần thứ ba (còn lại): Nàng Bua và hạnh phúc không trọn vẹn.

Câu hỏi cùng đoạn

Câu 2:

Chỉ ra và nêu tác dụng của ngôi kể, điểm nhìn trong câu chuyện.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Ngôi kể: thứ ba (người kể chuyện giấu mặt nhưng “biết tuốt"); điểm nhìn: toàn tri.

- Tác dụng: Với ngôi kể và điểm nhìn này, người kể chuyện dù không trực tiếp tham gia nhưng có thể kể lại toàn bộ câu chuyện đang diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi.

Câu 3:

Tìm các chi tiết khắc hoạ nhân vật nàng Bua; từ đó, nhận xét khái quát đặc điểm của nhân vật này.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Các chi tiết khắc hoạ nhân vật nàng Bua:

+ Tên tuổi: Lò Thị Bua.

+ Gia cảnh:

· Nàng sống cùng chín đứa con nhưng chính nàng cũng không rõ cha của chúng là những ai. Bua cũng không có ý định tìm cha cho các con.

· Cuộc sống của mẹ con Bua tuy nghèo nhưng rất êm đềm, vui vẻ, hòa thuận và nghèo túng.

+ Vẻ đẹp bề ngoài: Người nàng cao lớn, đôi hông to khỏe, thân hình ln chắc, bộ ngực nở nang mềm mại. Nàng lúc nào cũng tươi cười, tràn trề thứ ánh sáng cuốn hút lòng người.

+ Mẹ con Bua đào được hũ vàng: hũ sành sứt mẻ, nước da lươn đã xỉn, chứa đầy những thoi vàng, thoi bạc lấp lánh. -> ở hiền gặp lành.

+ Bua từ một người nghèo nhất bản bỗng chốc trở thành người giàu có nhất bản, nhất mường.

+ Nàng hào phóng san sẻ của cải, vận may cho tất cả mọi người (ai cũng được một món quà tặng làm vui lòng) và vẫn kiên định không nhận bố cho các con. -> Sống trong sự giàu có tột bậc nhưng Bua không hề thay đổi tính cách, thậm chí, nàng còn hào phóng hơn; Bua không muốn dùng vật chất để mua chuộc tình cảm của mọi người.

+ Bua kết hôn với một bác thợ săn hiền lành, góa vợ và không con cái -> Chi tiết khắc hoạ sự sắc sảo/ sâu sắc trong tính cách nhân vật: hiền lành là phẩm cách tốt đẹp cần có; goá vợ để Bua không trở thành kẻ thứ ba phá hoại hạnh phúc gia đình người khác; không con cái để dễ dàng đồng cảm, thương yêu với đàn con lâu nay thiếu sự chăm sóc của cha.

+ Bua có thai đứa con thứ mười (con của bác thợ săn). Bua và đứa con đã không qua khỏi giờ phút sinh tử. Bua đã chết giữa đống mền chăn ấm áp, sự giàu có, sung túc không thể giữ Bua và đứa con ở lại với cuộc đời -> Vật chất đủ đầy không phải là tấm thẻ bảo hiểm trọn đời cho con người. Nó không thể mang lại hạnh phúc trọn vẹn.

- Nhận xét khái quát đặc điểm của nhân vật nàng Bua:

+ Xinh đẹp, quyến rũ/ hấp dẫn

+ Hào phóng, bao dung, tự trọng, sắc sảo/ sâu sắc

Câu 4:

Chỉ ra và phân tích thái độ của cộng đồng bản Hua Tát đối với Bua trước và sau khi nàng đào được hũ vàng.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Trước: khinh rẻ, dè bỉu, sợ hãi, coi nàng là mối đe dọa phá vỡ nền nếp cổ truyền.

- Sau: thay đổi hoàn toàn, kéo đến nhận con, thậm chí ngưỡng mộ, thèm thuồng.

→ Qua đó, Nguyễn Huy Thiệp phơi bày sự giả dối, ích kỉ, vụ lợi trong bản chất con người.

Câu 5:

Phân tích ý nghĩa biểu tượng của chi tiết “hũ vàng, hũ bạc” mà Bua và các con tìm thấy.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Biểu tượng của sự đổi thay thân phận, từ nghèo khổ thành giàu có.

- Là phép thử để bộc lộ rõ bản chất thực dụng, giả dối của cộng đồng.

- Đồng thời gợi ra yếu tố hoang đường, huyền thoại trong truyện, khiến tác phẩm vừa mang tính hiện thực vừa giàu tính biểu tượng.

Câu 6:

Nhận xét đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện của tác giả qua các trường hợp sau:

- Chuyện tình ái, giống đực thường khôn ngoan và vô trách nhiệm, giống cải thì nhẹ dạ và tận tụy quá.

- Bua nồng nàn với tất cả những người đàn ông đến với nàng và cũng lãnh đạm với tất cả những người đàn ông bỏ rơi Hàng

- Đàn ông trong bản cười cợt, thèm thuồng.

- Các bà vợ nâng nổi và thủy chung giục giã chồng mình đi nhận con về.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Nhận xét đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện của tác giả qua các trường hợp:

- Chuyện tình ái, giống đực thường khôn ngoan và vô trách nhiệm, giống cái thì nhẹ dạ và tận tụy quá.

- Ngôn ngữ trong câu văn trên mang đậm màu sắc suy tư, chiêm nghiệm, triết lí pha chút hóm hỉnh, hài hước. (Đây là đặc điểm nổi bật trong ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Huy Thiệp.)

- Bua nồng nàn với tất cả những người đàn ông đến với nàng và cũng lãnh đạm với tất cả những người đàn ông bỏ rơi nàng.

- Đàn ông trong bản cười cợt, thèm thuồng.

- Các bà vợ nông nổi và thủy chung giục giã chồng mình đi nhận con về.

=> Các câu văn trên đều chứa đựng các từ ngữ mang nghĩa tương phản, đối lập nhau; sự tương phản ấy cùng gắn liền với một đối tượng (giống đực: khôn ngoan >< vô trách nhiệm; giống cái: nhẹ dạ >< tận tuy; Bua: nồng nàn >< lãnh đạm; đàn ông: cười cợt >< thèm thuồng; các bà vợ: nông nổi >< thuỷ chung). Ngôn ngữ trong các câu văn thể hiện ý niệm của Nguyễn Huy Thiệp về con người và cuộc đời: Cuộc đời, con người không hề đơn sắc, một màu, một chiều, thuần nhất mà rất đa diện, đa sắc, phức tạp.

Câu 7:

Qua cái chết của Bua, anh/chị nhận xét gì về tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Huy Thiệp?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Cái chết đau xót, bi kịch → nhà văn thương cảm sâu sắc số phận người phụ nữ.

- Ông trân trọng vẻ đẹp bản năng, sức sống, tình yêu tự do của họ.

- Đặt ra câu hỏi về sự khắc nghiệt của định kiến xã hội và những quy tắc cổ hủ.

Câu 8:

Nêu thông điệp của truyện.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Thí sinh có thể chỉ ra một/ một vài thông điệp của truyện:

- Cuộc đời không phải lúc nào cũng toàn những điều tốt đẹp, cuộc đời luôn nghiệt ngã hơn cổ tích rất nhiều.

- Không nên chỉ nhìn một chiều đối với bất kì đối tượng nào.

- Vật chất không thể mang lại hạnh phúc trọn vẹn cho con người.

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích văn bản ngữ liệu “Nàng Bua” của Nguyễn Huy Thiệp.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Huy Thiệp: cây bút tài năng, được xem là “hiện tượng văn học” cuối thế kỉ XX, với nhiều truyện ngắn giàu tính triết lí, nhân văn.

- Giới thiệu tác phẩm “Nàng Bua”: một truyện ngắn độc đáo, kết hợp hiện thực và màu sắc cổ tích, gợi nhiều suy ngẫm về thân phận con người và những giá trị nhân văn.

- Nêu vấn đề nghị luận: phân tích văn bản để thấy rõ vẻ đẹp nhân vật Bua, màu sắc cổ tích, và tư tưởng nhân văn nhà văn gửi gắm.

* Thân bài:

1. Khái quát về văn bản

- Hoàn cảnh ra đời: sáng tác năm 1971, sau in lại trong tập truyện của Nguyễn Huy Thiệp.

- Tóm tắt nội dung:

+ Bua – người đàn bà bị khinh rẻ vì sống một mình cùng chín đứa con không rõ cha.

+ Dù bị cả bản kì thị, nàng vẫn sống tự tin, yêu đời, nuôi con khôn lớn.

+ Nàng và con tình cờ đào được hũ vàng, từ đó trở thành người giàu có.

+ Sau cùng, Bua kết hôn với một người thợ săn hiền lành, nhưng lại mất khi sinh nở.

+ Đám tang nàng có cả cộng đồng Hua Tát đưa tiễn – như một sự tha thứ và đồng cảm muộn màng.

2. Phân tích văn bản

a) Hình tượng nhân vật Nàng Bua

- Bi kịch và sự cô độc: bị cả bản xa lánh, miệt thị (“quỷ dùi”), gia đình “quái gở” không chồng mà có đến chín con.

- Phẩm chất đáng quý:

+ Yêu đời, tươi cười, lạc quan.

+ Bao dung, không oán trách những người đàn ông bỏ rơi mình.

+ Tự trọng, không đòi hỏi trách nhiệm từ bất kì ai, không phá vỡ hạnh phúc gia đình khác.

+ Giàu lòng nhân ái, phóng khoáng (chia sẻ của cải khi trở nên giàu có).

- Khao khát tình yêu, hạnh phúc: chỉ khi đến với người thợ săn hiền lành nàng mới thực sự rơi lệ hạnh phúc.

→ Hình tượng Bua gợi vẻ đẹp nữ tính, nhân bản, đồng thời là sự phản kháng âm thầm với định kiến xã hội.

b) Màu sắc cổ tích trong truyện

- Không gian, thời gian phiếm chỉ: “Năm ấy…”, “Cuối năm ấy…”, “rừng Hua Tát”…

- Cốt truyện theo mô-típ cổ tích: “ở hiền gặp lành” – Bua chịu nhiều khổ cực nhưng sau đó được bù đắp (đào được hũ vàng, có được tình yêu đích thực).

- Nhân vật thuộc tuyến thiện: Bua thiện lương, bao dung, giàu tình yêu thương.

- Yếu tố kì ảo: hũ vàng xuất hiện bất ngờ – chi tiết quen thuộc trong truyện cổ tích.

→ Màu sắc cổ tích khiến truyện vừa lung linh huyền ảo, vừa thấm đẫm ý nghĩa nhân văn.

c) Giá trị và tư tưởng nhân văn

- Cảm thông sâu sắc với người phụ nữ bất hạnh, bị định kiến xã hội vùi dập.

- Đề cao phẩm chất cao đẹp của con người: nhân hậu, lạc quan, khao khát yêu thương.

- Gửi gắm niềm tin: cái thiện, cái đẹp cuối cùng sẽ được đền đáp.

- Lời nhắc nhở: cần bao dung, trân trọng và giải phóng con người khỏi định kiến cổ hủ.

* Kết bài:

- Khẳng định lại: “Nàng Bua” là một truyện ngắn giàu giá trị nghệ thuật và nhân văn, kết hợp hiện thực với màu sắc cổ tích.

- Tác phẩm không chỉ dựng lên hình tượng người phụ nữ đẹp đẽ, giàu lòng nhân ái, mà còn gợi ra những suy ngẫm về xã hội, về khát vọng hạnh phúc muôn đời.

- Liên hệ: Câu chuyện nhắc nhở mỗi người cần sống nhân ái, bao dung, vượt qua định kiến để hướng đến những giá trị tốt đẹp.

Bài văn tham khảo

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Huy Thiệp được xem là một trong những cây bút tài năng, để lại dấu ấn đặc biệt với những truyện ngắn giàu tính hiện thực và nhân văn. Một trong những tác phẩm giàu sức gợi ấy là truyện Nàng Bua. Tác phẩm mang màu sắc cổ tích nhưng lại thấm đẫm nỗi đau nhân tình, qua đó nhà văn khắc họa số phận và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ, đồng thời gửi gắm tư tưởng nhân văn sâu sắc.

Truyện kể về Lò Thị Bua – người đàn bà bị cả bản Hua Tát xa lánh, miệt thị, gọi là “quỷ dùi”. Nàng sống một mình cùng chín đứa con không rõ cha là ai. Trong con mắt cộng đồng, gia đình ấy là một hiện tượng “quái gở”, đi ngược lại phong tục cổ truyền. Đàn bà thì khinh rẻ, đàn ông thì thèm thuồng, dè bỉu. Những lời đàm tiếu, những định kiến nặng nề đã biến cuộc sống của Bua và các con thành nỗi cô độc triền miên. Ấy vậy mà người đàn bà ấy vẫn tồn tại một cách hiên ngang, sống “trờ trờ trước mắt mọi người”, vừa kiêu hãnh, vừa bất cần, vừa âm thầm chịu đựng.

Đằng sau những lời miệt thị, ta thấy Bua hiện lên với nhiều phẩm chất đáng quý. Nàng có sức sống mãnh liệt, lúc nào cũng tươi cười, tràn trề sức hút. Nàng không oán trách những kẻ bỏ rơi mình, không đòi hỏi bất cứ trách nhiệm nào, cũng không phá vỡ hạnh phúc gia đình người khác. Với các con, nàng vừa là mẹ, vừa là cha, tận tụy nuôi nấng bằng đôi bàn tay của chính mình. Khi trở nên giàu có nhờ đào được hũ vàng, Bua không hẹp hòi, ích kỉ mà sẵn sàng chia quà cho những kẻ từng ruồng bỏ mình, để “làm vui lòng các bà vợ nền nếp”. Đặc biệt, khao khát hạnh phúc của nàng được thể hiện rõ khi nàng kết hôn với người thợ săn hiền lành. Chỉ khi ấy, Bua mới rơi những giọt nước mắt hạnh phúc, điều chưa từng có trong những cuộc tình trước. Đó là minh chứng cho một tâm hồn trong sáng, khát khao yêu thương chân chính của người phụ nữ.

Không chỉ xây dựng một hình tượng giàu tính nhân văn, Nguyễn Huy Thiệp còn khoác lên tác phẩm màu sắc cổ tích. Không gian, thời gian trong truyện mang tính phiếm chỉ: “Năm ấy…”, “Cuối năm ấy…”, “rừng Hua Tát…”. Cốt truyện cũng mang mô-típ quen thuộc “ở hiền gặp lành”: Bua chịu nhiều khổ cực, nhưng cuối cùng được bù đắp bằng của cải và tình yêu. Chi tiết hũ vàng xuất hiện bất ngờ là yếu tố kì ảo, quen thuộc trong truyện cổ tích. Chính màu sắc cổ tích ấy khiến câu chuyện vừa lung linh, vừa thấm đẫm ý nghĩa nhân văn: hạnh phúc sẽ mỉm cười với những người có tấm lòng thiện lương.

Vượt lên trên một câu chuyện đời thường, Nàng Bua gửi gắm những tư tưởng nhân văn sâu sắc. Nhà văn cảm thông với thân phận người phụ nữ bất hạnh, bị định kiến xã hội vùi dập. Ông đề cao phẩm chất cao đẹp: lạc quan, bao dung, giàu lòng nhân ái, khao khát tình yêu. Đồng thời, tác phẩm nhắc nhở con người cần sống vị tha, trân trọng nhau, giải phóng con người khỏi những định kiến khắt khe của cộng đồng.

Có thể nói, Nàng Bua là một truyện ngắn độc đáo, kết hợp nhuần nhuyễn hiện thực với màu sắc cổ tích. Hình tượng nhân vật Bua vừa đẹp đẽ, vừa bi kịch, gợi nhiều suy ngẫm về thân phận con người và giá trị nhân văn muôn đời. Đọc tác phẩm, ta càng trân trọng hơn khát vọng hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ và thấy mình cần sống bao dung, nhân ái hơn trong cuộc đời.

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận

+ Phân tích màu sắc cổ tích trong truyện Nàng Bua.

- Hệ thống ý: Biểu hiện của màu sắc cổ tích trong truyện Nàng Bua:

+ Bối cảnh thường thấy trong truyện cổ:

· Thời gian: phiếm chỉ (Năm ấy ... , Một bữa ... , Cuối năm ấy ... )

· Không gian: phiếm chỉ (rừng Hua Tát, bản Hua Tát)

+ Cốt truyện sử dụng mô-típ ở hiền gặp lành thường thấy trong truyện cổ tích kì ảo:

· Ở hiền: Bua không làm điều ác, không xúi bẩy những người đàn ông đến với mình về ruồng rẫy vợ con hay phải cung phụng mình, không trách móc, oán hờn.

· Gặp lành: mẹ con Bua đào được hũ vàng; sau cùng Bua gặp được người đàn ông phù hợp với mình - bác thợ săn goá bụa, không con.

+ Nhân vật nàng Bua thuộc tuyến thiện: khao khát tình yêu, hạnh phúc (Bua đón nhận bất cứ người đàn ông nào đến với mình); tự trọng (không đòi hỏi trách nhiệm từ bất kì người đàn ông nào; không phá vỡ gia đình họ), phóng khoáng (sẵn sàng chia sẻ vật chất với mọi người); nhân vật gặp may mắn: đào được hũ vàng; gặp được người đàn ông phù hợp với mình.

=> Màu sắc cổ tích mang lại sức hấp dẫn cho câu chuyện; giúp nhà văn thể hiện tư tưởng nhân văn và nhiều thông điệp ý nghĩa trong câu chuyện.

- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục

+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.

+ Phân tích rõ màu sắc cổ tích trong văn bản ngữ liệu “Nàng Bua” của Nguyễn Huy Thiệp.

- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:

+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.

- Sáng tạo

+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Đoạn văn tham khảo

Trong truyện Nàng Bua của Nguyễn Huy Thiệp, màu sắc cổ tích được thể hiện khá rõ, góp phần làm cho câu chuyện vừa gần gũi, vừa có chiều sâu nhân văn. Trước hết, bối cảnh của truyện mang đậm tính phiếm chỉ thường thấy trong cổ tích: thời gian mơ hồ “Năm ấy…”, “Một bữa…”, “Cuối năm ấy…”; không gian quen thuộc mà lại hư ảo như bản Hua Tát, rừng Hua Tát. Cốt truyện sử dụng mô-típ ở hiền gặp lành quen thuộc: Bua là người đàn bà phóng khoáng, giàu tình cảm, không làm điều ác, không đòi hỏi hay oán trách bất cứ người đàn ông nào, cũng không phá vỡ gia đình họ. Nàng sống hiền lành, tự trọng và tận tụy nuôi con. Cuối cùng, nàng gặp được may mắn: cùng các con đào được hũ vàng, rồi lấy được người thợ săn hiền lành, phù hợp với mình. Nhân vật nàng Bua thuộc tuyến thiện, khao khát tình yêu và hạnh phúc, lại sẵn sàng chia sẻ, cho đi, nên nhận được phần thưởng xứng đáng. Tất cả những yếu tố ấy đã nhuốm lên truyện màu sắc cổ tích, khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn, đồng thời giúp nhà văn gửi gắm tư tưởng nhân văn sâu sắc: hạnh phúc luôn xứng đáng dành cho những tâm hồn lương thiện, khát khao yêu thương.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP