Bài tập Viết bài văn thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động có đáp án
85 người thi tuần này 4.6 1 K lượt thi 8 câu hỏi
🔥 Đề thi HOT:
Đề kiểm tra Học kì 1 Văn 7 Cánh diều có đáp án (đề 4)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Cánh diều có đáp án (Đề 5)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 2)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 5)
Đề thi cuối học kì 1 Văn 7 CTST có đáp án (đề 6)
Đề kiểm tra Học kì 1 Văn 7 Cánh diều có đáp án (đề 2)
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 7 Cánh diều có đáp án (Đề 8)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 4)
Nội dung liên quan:
Danh sách câu hỏi:
Lời giải
Thuyết minh về trò chơi dân gian bịt mắt bắt dê - Mẫu 1
Nét văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam được thể hiện qua rất nhiều hình thức, một trong những hình thức đó là các trò chơi dân gian. Từ xưa đến nay, chúng ta được biết đến với rất nhiều những trò chơi dân gian mang đậm nét truyền thống của dân tộc. Bịt mắt bắt dê được xem là một trong các trò chơi có từ lâu đời và vô cùng độc đáo.
Bịt mắt bắt dê là trò chơi đã xuất hiện từ rất lâu. Ngay từ trong những bức tranh cổ, chúng ta còn lưu lại những hình ảnh về một miền kí ức xưa kia với những cô bé, cậu bé chơi trò chơi hay những người lớn cùng nhau đứng trong một vòng tròn, bịt mắt để bắt dê. Như chính cái tên của trò chơi này, đây là trò chơi nhiều người cùng tham gia, bịt mắt để bắt được dê. Chúng ta đặt ra câu hỏi tại sao là "bắt dê" chứ không phải bắt một con vật nào khác. Điều này được lí giải bởi loài dê là loài có tính hiền lành, nhút nhát, linh hoạt và rất thích vận động. Chính vì thế, người bắt được nó đòi hỏi phải có sự tinh ý, nhanh nhẹn, thậm chí là cả chiến thuật nhất định. Mở mắt để bắt dê đã khó, bịt mắt để bắt được dê lại càng khó khăn hơn. Chính vì thế, đây được coi là trò chơi khá khó khăn nhưng lại vô cùng thú vị, hấp dẫn.
Thông thường, theo cách chơi trước kia, đúng nguyên bản của trò chơi, đây là trò chơi thường được tổ chức trong các lễ hội. Với sự tham gia của những người lớn là chủ yếu, đặc biệt là những bạn nam thanh nữ tú tham gia lễ hội. Có hai người chơi chính, họ được bịt mắt để tìm bắt dê. Con dê sẽ được đeo một vật để phát ra được tiếng động giúp cho người tìm dễ nhận biết được. Những người xung quanh không tham gia chơi sẽ đóng vai trò làm khán giả, hò reo cổ vũ người chơi. Tất cả tạo nên một không khí sôi nổi, sinh động và thú vị của lễ hội. Sau một quãng thời gian nhất định, người chơi phải tìm ra được con dê. Nếu cả hai không tìm được, trò chơi kết thúc và nhường lượt chơi cho những người tiếp theo.
Ngày nay, khi xã hội hiện đại phát triển, khi nhu cầu giải trí, đời sống tinh thần của con người ngày một cao, có rất nhiều những trò chơi hiện đại, tiên tiến ra đời. Vậy nhưng, những trò chơi dân gian, trong đó có trò chơi bịt mắt bắt dê luôn là một phần kí ức của tuổi thơ, luôn là một mảnh kí ức đẹp trong tâm hồn người Việt. Cũng chính vì nét đẹp văn hóa này, chúng ta bắt gặp rất nhiều hình ảnh của trò chơi này trong các tác phẩm nghệ thuật như tranh ảnh hay thơ ca.
Thuyết minh về trò chơi dân gian bịt mắt bắt dê - Mẫu 2
Trong những vật nuôi quen thuộc với con người (Lục súc: Dê, gà, chó, lợn, ngựa, trâu), có lẽ dê là loài ít gần gũi nhất. Vậy tại sao người xưa lại không chọn một con vật nuôi nào khác gần gũi hơn tham gia vào trò chơi mà lại chọn con dê? Lý do có lẽ là do dân gian dựa vào tập tính và đặc điểm sinh học của loài dê.
Nhiều người vẫn nghĩ rằng “Bịt mắt bắt dê” là trò chơi trẻ em, tuy nhiên, từ thời xa xưa nó là trò vui chủ yếu dành cho người lớn, hay chính xác hơn là trò chơi của trai thanh gái lịch trong các dịp vui như Hội đầu xuân, Tết Trung thu… Bức tranh dân gian Đông Hồ miêu tả trò chơi “Bịt mắt bắt dê” gồm có hai người tham gia, một thanh niên và một thiếu nữ, cùng với một con dê, ở trong một vòng rào gỗ không khép kín.
Hai người chơi bị bịt mắt và con dê đều mang áo tơi lá để khi chuyển động vang lên tiếng sột soạt dễ tìm bắt, hai người chơi còn đeo thêm lục lạc ở chân, dê đeo lục lạc ở cổ để khi di chuyển vang lên tiếng lanh canh cho dễ phán đoán, định hướng đuổi bắt hơn. Dường như bức tranh thể hiện cảnh hai người chơi không cố tình tìm bắt con dê, mà chỉ mượn trò chơi làm cơ hội để “bịt mắt bắt …nhau”! Con dê đứng ở khoảng cách an toàn, ngoảnh đầu lại… (ngơ ngác, ngạc nhiên) quan sát hai người chơi (ê, ê, tớ ở đây này; ơ kìa, sao họ không chịu bắt mình nhỉ?)!
Người xem gồm cả người lớn và trẻ em đứng ngoài vòng rào. Bên cạnh vòng rào có một đôi nam nữ đang chuẩn bị chờ đến lượt vào chơi. Cô gái thì bẽn lẽn, thẹn thùng, ngần ngừ… không biết có nên tham gia không; còn chàng trai thì thao thao bất tuyệt, sôi nổi vung tay bình phẩm, hăng hái giới thiệu và cố thuyết phục cô gái tham gia trò chơi với mình… Phía hậu cảnh của bức tranh là các phần thưởng dành cho người thắng cuộc như xâu tiền, khăn và yếm (áo lót phụ nữ).
Cũng như trò chơi dân gian “Đánh đu”, trò chơi “Bịt mắt bắt dê” ngày xưa không dành cho trẻ em (chỉ được đứng xem thôi) mà chủ yếu dành cho thanh niên, thiếu nữ (người lớn) để họ có cơ hội gặp gỡ, tiếp cận, đụng chạm về thể xác, vui đùa và tìm hiểu nhau vượt qua ranh giới “nam nữ thọ thọ bất tương thân” của lễ giáo phong kiến.
Tuy nhiên, trò chơi “Bịt mắt bắt dê” ngày xưa cũng tổ chức cho trẻ em là thú vui hồn nhiên với thể thức chơi khác xa, tương tự ngày nay, như được miêu tả trong một bức tranh dân gian Hàng Trống:
Ngày nay, hai trò chơi kể trên rặt chỉ có trẻ em tham gia mà thôi, chứ trai thanh gái lịch thì chẳng khi nào tơ màng đến, vì trong đời sống hiện đại, các anh chị có lắm “trò vui” gấp chán vạn lần, tha hồ mà “mở mắt bắt dê” mọi lúc mọi nơi, chứ chẳng hơi đâu mà ngó ngàng đến cái trò “trẻ con” ấy, lại còn phải hoài hơi mong ngóng chờ đến những dịp hội vui ở tận sân đình, chỉ tổ thêm rách việc!
Ngày nay, trẻ em từ 6 đến 15 tuổi rất ưa thích trò chơi này, nó rèn luyện cho các em kỹ năng phán đoán, phát triển thính giác và sự nhanh nhạy trong hoạt động.
Trò chơi “Bịt mắt bắt dê” hiện có khá nhiều phiên bản biến thể khác nhau: Số người chơi có thể là hai hoặc nhiều người, trong đó chỉ duy nhất một người bị “bịt mắt” còn những người khác làm “dê”. Những người còn lại nắm tay nhau tạo thành vòng tròn vây quanh, không cho những người chơi vượt ra khỏi vòng. Thay vì mang áo tơi lá và đeo lục lạc tạo âm thanh như trước, thì “dê” có thể vỗ tay, kêu lên “be h…e…e…” mô phỏng tiếng dê kêu, hoặc vỗ vai, sờ lưng người bị “bịt mắt” rồi nhanh chóng di chuyển cách xa người “bịt mắt” để khỏi bị bắt. “Dê” nào bị người “bịt mắt” chạm được vào người thì phải hoán đổi vị trí, thay cho người “bịt mắt” đổi thành “dê” tiếp tục trò chơi…
Điều khác biệt nhất của trò chơi “Bịt mắt bắt dê” xưa và nay là tuy trò chơi ấy hiện vẫn giữ tên “Bịt mắt bắt dê” như xưa, nhưng thường là không có con dê thật nào cả, chỉ có một hoặc nhiều người đóng vai dê mà thôi, có lẽ để cho trò chơi được cơ động, thuận tiện, dễ tổ chức mọi lúc mọi nơi. Trò chơi cũng không phải chỉ diễn ra ở các lễ hội trang trọng mà có thể tổ chức bất cứ khi nào, ở đâu cũng được, như các buổi sinh hoạt đoàn đội, sinh hoạt lớp…
Thuyết minh về trò chơi dân gian bịt mắt bắt dê - Mẫu 3
Bịt mắt bắt dê là một trò chơi dân gian khá phổ biến. Trò chơi này chủ yếu dành cho trẻ em từ 6 đến 15 tuổi, nên cái tên và cách chơi cũng giản đơn. Tùy từng địa phương mà biến thể của trò chơi này cũng có chút thay đổi khác nhau. Đây không phải là trò chơi chỉ dành cho hai người chơi mà là trò chơi dành cho cả 1 tập thể cùng tham gia. Ngoài việc vui đùa, rèn luyện thân thể, thì trò chơi bịt mắt bắt dê còn thể hiện nỗi khát khao chiến thắng tiềm ẩn trong mỗi đứa trẻ.
Trò chơi bịt mắt bắt dê được diễn ra trên một sân cỏ, người chơi vây xung quanh để tạo ra một vòng tròn. Một người xung phong để mọi người bịt mắt lại bằng một chiếc khăn để không nhìn thấy, những người còn lại đứng thành vòng tròn quanh người bị bịt mắt. Mọi người chạy xung quanh người bị bịt mắt đến khi nào người đó hô “bắt đầu” hoặc “đứng lại” thì tất cả mọi người phải đứng lại, không được di chuyển nữa. Lúc này người bị bịt mắt bắt đầu lần đi xung quanh để bắt được ai đó, mọi người thì cố tránh để không bị bắt và tạo ra nhiều tiếng động để đánh lạc hướng. Đến khi ai đó bị bắt và người bị bịt mắt đoán đúng tên thì người đó sẽ phải ra “bắt dê”, nếu đoán sai lại bị bịt mắt lại và làm tiếp. Có ai đó muốn ra chơi cùng thì phải vào làm luôn, người đang bị bịt mắt lúc này được ra ngoài hoặc là phải oẳn tù tì xem ai thắng. Kết thúc mỗi cuộc chơi là bầu không khí sôi động, rạo rực tinh thần đua tranh đem đến cho người tham dự sự phấn khích, đầy ắp tiếng cười vui vẻ.
Bịt mắt bắt dê thể hiện tính an toàn, gần gũi với con người Việt Nam và ích lợi cho việc phát triển thể chất cũng như trí tuệ của trẻ. Để chơi được trò chơi này thì người chơi không những phải rèn luyện thể chất mà còn phải tăng thêm kỹ năng phán đoán, định hướng của mình để đảm bảo sự chính xác, phản ứng linh hoạt nhanh nhẹn, hoạt bát trong mỗi lần chơi. Không chỉ là trò chơi dành riêng cho trẻ con mà bịt mắt bắt dê còn thu hút được nhiều người lớn tham gia và có mặt ở các dịp Tết và Lễ hội quan trọng của người Việt Nam trong nhiều năm. Thành công của trò chơi này mang lại chính là bầu không khí sôi động, rạo rực tinh thần đua tranh đã mang lại cho người tham dự sự phấn khích, tiếng cười sau khi kết thúc trò chơi.
Bên cạnh việc thể hiện sâu sắc nét đặc trưng trong văn hóa tín ngưỡng ở mỗi nơi, bịt mắt bắt dê còn giúp người chơi rèn luyện sức khỏe, sự dẻo dai trong đời sống sinh hoạt. Tất cả hiện lên như một bức tranh tươi đẹp và sinh động của cuộc sống. Những điệu nhảy mềm mại, bước chạy dẻo dai, những nụ cười sảng khoái như những cánh diều bay nhè nhẹ trên cao như đưa văn hóa Việt Nam đi đến khắp các vùng miền đất nước.
Bịt mắt bắt dê không đơn thuần là một trò chơi của trẻ con mà nó chứa đựng cả một nền văn hóa dân tộc Việt Nam độc đáo và giàu bản sắc. Bịt mắt bắt dê không chỉ nâng cánh ước mơ cho tâm hồn trẻ, giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, sáng tạo, sự khéo léo, nhanh nhẹn mà còn giúp các em hiểu thêm về tình bạn, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước.
Thuyết minh về trò chơi dân gian bịt mắt bắt dê - Mẫu 4
Trò chơi Bịt mắt bắt dê, có tên tiếng Anh là Blind-man's-buff, là một trò chơi dân gian có từ lâu đời ở Việt Nam.
Trò chơi “Bịt mắt bắt dê” hiện có khá nhiều phiên bản biến thể khác nhau và ngày càng được trẻ em, học sinh đón nhận nhiều hơn. Bởi vì trò chơi này giúp trẻ Rèn luyện thể chất và tính phán đoán, định hướng.
Trò chơi này không giới hạn số lượng người tham gia, càng đông càng vui. Tuy nhiên để đảm bảo tính trật tự cho trò chơi, số lượng đề xuất là từ 3 - 15 người chơi. Do số lượng người lớn và người chơi phải chạy nhảy di chuyển vì vậy nên chọn sân chơi bằng phẳng, rộng rãi. Tuy nhiên không gian chơi không nên quá rộng khiến trò chơi khó kết thúc.
Cần chuẩn bị một khăn buộc hoặc vải che đủ kín để che mắt. Những người tham gia chơi tiến hành chơi Oẳn tù tì để loại ra 2 người chơi. Hai người chơi tiếp tục oẳn tù tìm, người thắng làm dê và người thua bị bịt mắt để đi tìm dê.
Những người chơi còn lại tay nắm tay thành một hình tròn. Hai người chơi làm dê và đi tìm sẽ đứng trong vòng tròn này và chỉ được di chuyển trong đó. Người làm dê miệng liên tục kêu “ be be” đồng thời né tránh để không bị người tìm dê bắt được.
Những người ở vòng tròn reo hò mách nước cho người bắt nhưng có quyền mách sai để gây cười. Nếu người tìm dê bắt được dê, thì dê được thay chỗ người đi tìm và một người khác ở hàng rào vào làm dê, người tìm thắng cuộc trở lại làm hàng rào. Một vòng chơi mới lại bắt đầu.
Thuyết minh về trò chơi dân gian bịt mắt bắt dê - Mẫu 5
Nét văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam được thể hiện qua rất nhiều hình thức, một trong những hình thức đó là các trò chơi dân gian. Từ xưa đến nay, chúng ta được biết đến với rất nhiều những trò chơi dân gian mang đậm nét truyền thống của dân tộc. Bịt mắt bắt dê được xem là một trong các trò chơi có từ lâu đời và vô cùng độc đáo.
Bịt mắt bắt dê là trò chơi đã xuất hiện từ rất lâu. Ngay từ trong những bức tranh cổ, chúng ta còn lưu lại những hình ảnh về một miền kí ức xưa kia với những cô bé, cậu bé chơi trò chơi hay những người lớn cùng nhau đứng trong một vòng tròn, bịt mắt để bắt dê. Như chính cái tên của trò chơi này, đây là trò chơi nhiều người cùng tham gia, bịt mắt để bắt được dê. Chúng ta đặt ra câu hỏi tại sao là "bắt dê" chứ không phải bắt một con vật nào khác. Điều này được lí giải bởi loài dê là loài có tính hiền lành, nhút nhát, linh hoạt và rất thích vận động. Chính vì thế, người bắt được nó đòi hỏi phải có sự tinh ý, nhanh nhẹn, thậm chí là cả chiến thuật nhất định. Mở mắt để bắt dê đã khó, bịt mắt để bắt được dê lại càng khó khăn hơn. Chính vì thế, đây được coi là trò chơi khá khó khăn nhưng lại vô cùng thú vị, hấp dẫn.
Thông thường, theo cách chơi trước kia, đúng nguyên bản của trò chơi, đây là trò chơi thường được tổ chức trong các lễ hội. Với sự tham gia của những người lớn là chủ yếu, đặc biệt là những bạn nam thanh nữ tú tham gia lễ hội. Có hai người chơi chính, họ được bịt mắt để tìm bắt dê. Con dê sẽ được đeo một vật để phát ra được tiếng động giúp cho người tìm dễ nhận biết được. Những người xung quanh không tham gia chơi sẽ đóng vai trò làm khán giả, hò reo cổ vũ người chơi. Tất cả tạo nên một không khí sôi nổi, sinh động và thú vị của lễ hội. Sau một quãng thời gian nhất định, người chơi phải tìm ra được con dê. Nếu cả hai không tìm được, trò chơi kết thúc và nhường lượt chơi cho những người tiếp theo.
Cũng chính vì tính phổ biến của trò chơi, bịt mắt bắt dê được tổ chức ở rất nhiều địa điểm, những dịp khác nhau. Trong nhà trường, các hội thi, các lễ hội đều có thể tổ chức trò chơi này.
Thuyết minh về trò chơi dân gian bịt mắt bắt dê - Mẫu 6
Ngày nay, khi xã hội hiện đại phát triển, khi nhu cầu giải trí, đời sống tinh thần của con người ngày một cao, có rất nhiều những trò chơi hiện đại, tiên tiến ra đời. Vậy nhưng, những trò chơi dân gian, trong đó có trò chơi bịt mắt bắt dê luôn là một phần kí ức của tuổi thơ, luôn là một mảnh kí ức đẹp trong tâm hồn người Việt. Cũng chính vì nét đẹp văn hóa này, chúng ta bắt gặp rất nhiều hình ảnh của trò chơi này trong các tác phẩm nghệ thuật như tranh ảnh hay thơ ca.Bài văn thuyết minh trò chơi dân
Trong những vật nuôi quen thuộc với con.
Nhiều người vẫn nghĩ rằng “Bịt mắt bắt dê” là trò chơi trẻ em, tuy nhiên, từ thời xa xưa nó là trò vui chủ yếu dành cho người lớn, hay chính xác hơn là trò chơi của trai thanh gái lịch trong các dịp vui như Hội đầu xuân, Tết Trung thu… Bức tranh dân gian Đông Hồ miêu tả trò chơi “Bịt mắt bắt dê” gồm có hai người tham gia, một thanh niên và một thiếu nữ, cùng với một con dê, ở trong một vòng rào gỗ không khép kín.
Hai người chơi bị bịt mắt và con dê đều mang áo tơi lá để khi chuyển động vang lên tiếng sột soạt dễ tìm bắt, hai người chơi còn đeo thêm lục lạc ở chân, dê đeo lục lạc ở cổ để khi di chuyển vang lên tiếng lanh canh cho dễ phán đoán, định hướng đuổi bắt hơn. Dường như bức tranh thể hiện cảnh hai người chơi không cố tình tìm bắt con dê, mà chỉ mượn trò chơi làm cơ hội để “bịt mắt bắt …nhau”! Con dê đứng ở khoảng cách an toàn, ngoảnh đầu lại… (ngơ ngác, ngạc nhiên) quan sát hai người chơi (ê, ê, tớ ở đây này; ơ kìa, sao họ không chịu bắt mình nhỉ?)!
Cũng như trò chơi dân gian “Đánh đu”, trò chơi “Bịt mắt bắt dê” ngày xưa không dành cho trẻ em (chỉ được đứng xem thôi) mà chủ yếu dành cho thanh niên, thiếu nữ (người lớn) để họ có cơ hội gặp gỡ, tiếp cận, đụng chạm về thể xác, vui đùa và tìm hiểu nhau vượt qua ranh giới “nam nữ thọ thọ bất tương thân” của lễ giáo phong kiến. Tuy nhiên, trò chơi “Bịt mắt bắt dê” ngày xưa cũng tổ chức cho trẻ em là thú vui hồn nhiên với thể thức chơi khác xa, tương tự ngày nay, như được miêu tả trong một bức tranh dân gian Hàng Trống.
Thuyết minh về trò chơi dân gian bịt mắt bắt dê - Mẫu 7
Ngày nay, hai trò chơi kể trên rặt chỉ có trẻ em tham gia mà thôi, chứ trai thanh gái lịch thì chẳng khi nào tơ màng đến, vì trong đời sống hiện đại, các anh chị có lắm “trò vui” gấp chán vạn lần, tha hồ mà “mở mắt bắt dê” mọi lúc mọi nơi, chứ chẳng hơi đâu mà ngó ngàng đến cái trò “trẻ con” ấy, lại còn phải hoài hơi mong ngóng chờ đến những dịp hội vui ở tận sân đình, chỉ tổ thêm rách việc!
Ngày nay, trẻ em từ 6 đến 15 tuổi rất ưa thích trò chơi này, nó rèn luyện cho các em kỹ năng phán đoán, phát triển thính giác và sự nhanh nhạy trong hoạt động. Trò chơi “Bịt mắt bắt dê” hiện có khá nhiều phiên bản biến thể khác nhau: Số người chơi có thể là hai hoặc nhiều người, trong đó chỉ duy nhất một người bị “bịt mắt” còn những người khác làm “dê”. Những người còn lại nắm tay nhau tạo thành vòng tròn vây quanh, không cho những người chơi vượt ra khỏi vòng. Thay vì mang áo tơi lá và đeo lục lạc tạo âm thanh như trước, thì “dê” có thể vỗ tay, kêu lên “be h…e…e…” mô phỏng tiếng dê kêu, hoặc vỗ vai, sờ lưng người bị “bịt mắt” rồi nhanh chóng di chuyển cách xa người “bịt mắt” để khỏi bị bắt. “Dê” nào bị người “bịt mắt” chạm được vào người thì phải hoán đổi vị trí, thay cho người “bịt mắt” đổi thành “dê” tiếp tục trò chơi…
Điều khác biệt nhất của trò chơi “Bịt mắt bắt dê” xưa và nay là tuy trò chơi ấy hiện vẫn giữ tên “Bịt mắt bắt dê” như xưa, nhưng thường là không có con dê thật nào cả, chỉ có một hoặc nhiều người đóng vai dê mà thôi, có lẽ để cho trò chơi được cơ động, thuận tiện, dễ tổ chức mọi lúc mọi nơi. Trò chơi cũng không phải chỉ diễn ra ở các lễ hội trang trọng mà có thể tổ chức bất cứ khi nào, ở đâu cũng được, như các buổi sinh hoạt đoàn đội, sinh hoạt lớp…
Thuyết minh về trò chơi dân gian bịt mắt bắt dê - Mẫu 8
Một trong những trò chơi mà em rất thích là trò trốn tìm. Trò chơi bịt mắt bắt dê thường được chơi ở những nơi rộng rãi như sân cỏ, công viên. Những người chơi sẽ nắm tay nhau để tạo ra một vòng tròn. Tất cả những người chơi sẽ oẳn tù xì để quyết định xem ai là người làm. Người thua sẽ phải bịt mắt lại bằng một chiếc khăn để không nhìn thấy. Những người còn lại đứng thành vòng tròn quanh người bị bịt mắt. Mọi người chạy xung quanh người bị bịt mắt đến khi nào người đó hô bắt đầu hoặc đứng lại thì tất cả mọi người phải đứng lại, không được di chuyển nữa. Nếu người làm bắt được dê và đoán đúng tên thì người đó sẽ phải ra bắt dê. Còn nếu đoán sai lại bị bịt mắt lại và làm tiếp. Đây là một trò chơi vô cùng thú vị.
Thuyết minh về trò chơi dân gian bịt mắt bắt dê - Mẫu 9
Ngày nay, khi xã hội càng phát triển với sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại cũng là lúc các trò chơi dân gian ngày càng bị mai một và quên lãng. Trẻ em của một xã hội công nghiệp, chỉ quen với máy móc, điện tử và không có thời gian để chơi cũng là một thiệt thòi. Trẻ em ngày nay đã không còn cơ hội được làm quen và chơi những trò chơi dân gian của thiếu nhi thuở trước. Vì thế mà bịt mắt bắt dê đã không còn được nhiều người biết đến nữa.
Bịt mắt bắt dê không đơn thuần là một trò chơi của trẻ con mà nó chứa đựng cả một nền văn hóa dân tộc Việt Nam độc đáo và giàu bản sắc. Bịt mắt bắt dê không chỉ nâng cánh ước mơ cho tâm hồn trẻ, giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, sáng tạo, sự khéo léo, nhanh nhẹn mà còn giúp các em hiểu thêm về tình bạn, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước.
Thuyết minh về trò chơi dân gian bịt mắt bắt dê - Mẫu 10
Ở các tỉnh Ninh Bình, Ninh Thuận – nơi chăn nuôi nhiều dê nhất ở nước ta hiện nay – người tổ chức trò chơi có thể thu xếp “mượn” một “em dê cỏn” Bách Thảo thật xinh xắn, đáng yêu, cho nó nhảy nhót trong vòng tròn, tiếng “be h…e…e…” vang lên rộn rã, thì trò chơi càng thêm hào hứng, sôi động …
Và biết đâu đấy, trong Hội xuân Ất Mùi này, trò chơi “bịt mắt bắt dê” xưa như trái đất ấy, chẳng những hào hứng đối với trẻ em, lại còn thu hút, hấp dẫn trai thanh gái lịch sôi nổi tranh tài, không phải để đoạt xâu tiền, khăn, yếm như xưa mà để giành các giải thưởng hiện đại như Iphone, Ipad…
Cũng như trò chơi dân gian “Đánh đu”, trò chơi “Bịt mắt bắt dê” ngày xưa không dành cho trẻ em (chỉ được đứng xem thôi nhá) mà chủ yếu dành cho thanh niên, thiếu nữ (người nhớn) để họ có cơ hội gặp gỡ, tiếp cận, đụng chạm về thể xác, vui đùa và tìm hiểu nhau vượt qua ranh giới “nam nữ thọ thọ bất tương thân” của lễ giáo phong kiến.
Giả vờ bịt mắt bắt dê,
Để cho cô cậu dễ bề… với nhau!
Tuy nhiên, trò chơi “Bịt mắt bắt dê” ngày xưa cũng tổ chức cho trẻ em là thú vui hồn nhiên với thể thức chơi khác xa, tương tự ngày nay, như được miêu tả trong một bức tranh dân gian Hàng Trống:
Ngày nay, hai trò chơi kể trên rặt chỉ có trẻ em tham gia mà thôi, chứ trai thanh gái lịch thì chẳng khi nào tơ màng đến, vì trong đời sống hiện đại, các anh chị có lắm “trò vui” gấp chán vạn lần, tha hồ mà “mở mắt bắt dê” mọi lúc mọi nơi, chứ chẳng hơi đâu mà ngó ngàng đến cái trò “trẻ con” ấy, lại còn phải hoài hơi mong ngóng chờ đến những dịp hội vui ở tận sân đình, chỉ tổ thêm rách việc!
Ngày nay, trẻ em từ 6 đến 15 tuổi rất ưa thích trò chơi này, nó rèn luyện cho các em kỹ năng phán đoán, phát triển thính giác và sự nhanh nhạy trong hoạt động.
Trò chơi “Bịt mắt bắt dê” hiện có khá nhiều phiên bản biến thể khác nhau: Số người chơi có thể là hai hoặc nhiều người, trong đó chỉ duy nhất một người bị “bịt mắt” còn những người khác làm “dê”. Những người còn lại nắm tay nhau tạo thành vòng tròn vây quanh, không cho những người chơi vượt ra khỏi vòng. Thay vì mang áo tơi lá và đeo lục lạc tạo âm thanh như trước, thì “dê” có thể vỗ tay, kêu lên “be h…e…e…” mô phỏng tiếng dê kêu, hoặc vỗ vai, sờ lưng người bị “bịt mắt” rồi nhanh chóng di chuyển cách xa người “bịt mắt” để khỏi bị bắt. “Dê” nào bị người “bịt mắt” chạm được vào người thì phải hoán đổi vị trí, thay cho người “bịt mắt” đổi thành “dê” tiếp tục trò chơi…
Lời giải
Viết bài văn thuyết minh về trò chơi ô ăn quan- Mẫu 1
Ô ăn quan đã có ở Việt Nam từ rất lâu đời, có thể nó được lấy cảm hứng từ những cánh đồng lúa nước ở nơi đây. Ô ăn quan đã từng phổ biến ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam của Việt nam nhưng những năm gần đây chỉ còn được rất ít trẻ em chơi. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có trưng bày, giới thiệu và hướng dẫn trò chơi này.
Bàn chơi: Bàn chơi được kẻ thành một hình chữ nhật rồi chia hình chữ nhật đó thành mười ô vuông, mỗi bên có năm ô đối xứng nhau. Ở hai cạnh ngắn hơn của hình chữ nhật, kẻ hai ô hình bán nguyệt hoặc hình vòng cung hướng ra phía ngoài.
Các ô hình vuông gọi là ô dân còn hai ô hình bán nguyệt hoặc vòng cung gọi là ô quan. Quân chơi: gồm hai loại quan và dân, được làm hoặc thu thập từ nhiều chất liệu có hình thể ổn định, kích thước vừa phải để người chơi có thể cầm, nắm nhiều quân bằng một bàn tay khi chơi và trọng lượng hợp lý để khỏi bị ảnh hưởng của gió. Quân chơi có thể là những viên sỏi, gạch, đá, hạt của một số loại quả… hoặc được sản xuất công nghiệp từ vật liệu cứng mà phổ biến là nhựa. Số lượng quan luôn là 2 còn dân có số lượng tùy theo luật chơi nhưng phổ biến nhất là 50.
Bố trí quân chơi: quan được đặt trong hai ô hình bán nguyệt hoặc cánh cung, mỗi ô một quân, dân được bố trí vào các ô vuông với số quân đều nhau, mỗi ô 5 dân. Người chơi: thường gồm hai người chơi, mỗi người ngồi ở phía ngoài cạnh dài hơn của hình chữ nhật và những ô vuông bên nào thuộc quyền kiểm soát của người chơi ngồi bên đó. Mục tiêu cần đạt được để giành chiến thắng: người thắng cuộc trong trò chơi này là người mà khi cuộc chơi kết thúc có tổng số dân quy đổi nhiều hơn
Di chuyển quân: từng người chơi khi đến lượt của mình sẽ di chuyển dân theo phương án để có thể ăn được càng nhiều dân và quan hơn đối phương càng tốt. Người thực hiện lượt đi đầu tiên thường được xác định bằng cách oẳn tù tì hay thỏa thuận. Khi đến lượt, người chơi sẽ dùng tất cả số quân trong một ô có quân bất kỳ do người đó chọn trong số 5 ô vuông thuộc quyền kiểm soát của mình để lần lượt rải vào các ô, mỗi ô 1 quân, bắt đầu từ ô gần nhất và có thể rải ngược hay xuôi chiều kim đồng hồ tùy ý. Khi rải hết quân cuối cùng, tùy tình huống mà người chơi sẽ phải xử lý tiếp như sau:
Do đó trong cuộc chơi có thể có phương án rải quân làm cho người chơi ăn hết toàn bộ số quân trên bàn chơi chỉ trong một lượt đi của mình. Trường hợp liền sau ô đã bị ăn lại là một ô vuông chứa quân thì người chơi lại tiếp tục được dùng số quân đó để rải. Một ô có nhiều dân thường được trẻ em gọi là ô nhà giàu, rất nhiều dân thì gọi là giàu sụ. Người chơi có thể bằng kinh nghiệm hoặc tính toán phương án nhằm nuôi ô nhà giàu rồi mới ăn để được nhiều điểm và có cảm giác thích thú. Nếu liền sau đó là ô quan có chứa quân hoặc 2 ô trống trở lên thì người chơi bị mất lượt và quyền đi tiếp thuộc về đối phương.
Ô ăn quan thú vị, dễ chơi đã từng là trò chơi hàng ngày của trẻ em Việt Nam. Chỉ với một khoảng sân nho nhỏ và những viên sỏi, gạch, đá là các em nhỏ đã có thể vui chơi. Có thể thấy dấu ấn của Ô ăn quan trong đời sống và văn học, nghệ thuật: Thành ngữ: Một đập ăn quan – hàm ý chỉ những hành động đơn giản nhưng tức thì đạt kết quả to lớn.
Viết bài văn thuyết minh về trò chơi ô ăn quan- Mẫu 2
Từ ngàn năm nay, nền văn học dân gian đã thấm nhuần trong đời sống của nhân dân ta, ngay đến những trò chơi dân gian cũng được phổ biến rộng rãi và quen thuộc, nhất là ở những vùng nông thôn. Một trong những trò chơi như vậy là trò chơi dân gian ô ăn quan.
Để chơi trò chơi này, cần chuẩn bị một số điều như sau:“Quan” và “dân” tên gọi của hai loại quân chơi, cần dùng một vật liệu có hình thể ổn định, kích thước vừa phải để người chơi có thể cầm, nắm nhiều quân bằng một bàn tay khi chơi và trọng lượng hợp lý để khỏi bị ảnh hưởng của gió, đó có thể là những viên sỏi, gạch nhỏ, hạt quả, mẩu gỗ…
Sau khi đã có quân chơi, cần bố trí chúng: quan được đặt trong hai ô hình bán nguyệt hoặc cánh cung, mỗi ô là một quân, dân được bố trí vào các ô vuông với số quân đều nhau, mỗi ô là năm dân. Khi chơi trò này, thường gồm hai người chơi, mỗi người ngồi ở phía ngoài cạnh dài hơn của hình chữ nhật và những ô vuông bên nào thuộc quyền kiểm soát của người chơi ngồi bên đó. Mục tiêu cần đạt được để giành chiến thắng đó là người thắng cuộc trong trò chơi này là người mà khi cuộc chơi kết thúc có tổng số dân quy đổi nhiều hơn.
Cách chơi cũng rất đơn giản chỉ là di chuyển quân, từng người chơi khi đến lượt của mình sẽ di chuyển dân theo những cách để có thể ăn được càng nhiều dân và quan hơn đối phương thì càng tốt. Khi đến lượt, người chơi sẽ dùng tất cả số quân trong một ô có quân bất kỳ do người đó chọn trong số năm ô vuông thuộc quyền kiểm soát của mình để lần lượt rải vào các ô, mỗi ô 1 quân, bắt đầu từ ô gần nhất và có thể rải ngược hay xuôi chiều kim đồng hồ tùy ý. Khi rải hết quân cuối cùng, tùy tình huống mà người chơi sẽ phải xử lý tiếp như sau:
Nếu liền sau đó là một ô vuông có chứa quân thì tiếp tục dùng tất cả số quân đó để rải tiếp theo chiều đã chọn.Nếu liền sau đó là một ô trống rồi đến một ô có chứa quân thì người chơi sẽ được ăn tất cả số quân trong ô đó. Số quân bị ăn sẽ được loại ra khỏi bàn chơi để người chơi tính điểm khi kết thúc. Nếu liền sau ô có quân đã bị ăn lại là một ô trống rồi đến một ô có quân nữa thì người chơi có quyền ăn tiếp cả quân ở ô này. Nếu liền sau đó là ô quan có chứa quân hoặc hai ô trống trở lên hoặc sau khi vừa ăn thì người chơi bị mất lượt và quyền đi tiếp thuộc về đối phương.
Trường hợp đến lượt đi nhưng cả năm ô vuông thuộc quyền kiểm soát của người chơi đều không có dân thì người đó sẽ phải dùng năm dân đã ăn được của mình để đặt vào mỗi ô một dân để có thể thực hiện việc di chuyển quân. Nếu người chơi không đủ năm dân thì có thể vay của đối phương và trả lại khi tính điểm. Cuộc chơi sẽ kết thúc khi toàn bộ dân và quan ở hai ô quan đã bị ăn hết.
Trò chơi này rất hau và có những chiến thuật đòi hỏi như một bàn cờ thực sự và chỉ cần một khoảng sân nhỏ các bé gái có thể chơi trò chơi này một cách thoải mái.
Viết bài văn thuyết minh về trò chơi ô ăn quan- Mẫu 3
Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển và hiện đại, nhiều công cụ giải trí khác ra đười, những trò chơi dân gian như ô ăn quan cũng không còn được nhiều người chơi nhưng nó vẫn sẽ không bao giờ biến mất trong bản sắc văn hóa Việt.
Để chơi trò ô ăn quan, bọn trẻ phải đào trên mặt đất hai hàng lồ song song, mỗi bên 5 lồ là 5 ô ruộng. Còn hai đầu là hai lồ to là hai ô quan. Số hạt sỏi ô quan là 10, ô ruộng là 5. Để giành quyền đi trước phải oẳn tù tì xem ai thắng. Khi đến lượt, người ta bốc sỏi ở ô nhỏ rải theo vòng thuận chiều kim đồng hồ. Rải hết thì bốc sỏi ở ô tiếp theo. Cho đến khi nào tạo ra được một lồ không có viên nào thì được ăn toàn bộ số quân của ô cách đó.
Trong trò chơi này, khi ăn được ô quan kết thúc ván chơi lũ trẻ nào cũng đều thuộc câu: hết quan – tàn dân – thu quân – bán ruộng và bày lại cuộc chơi. Ngẫm lại thấy trò chơi khá giống câu chuyện xã hội. Một xã hội khi quan tan tác thì dân tàn lụi, đó là lúc ngừng cuộc chơi để bày ván khác. Rõ ràng trò chơi ô ăn quan không đơn thuần chỉ là giải trí hoặc rèn luyện cách tính toán mà còn là câu chuyện xã hội, là một lời cảnh báo chứa trong trò chơi mang tính quy luật của mỗi cuộc hành trình.
Viết bài văn thuyết minh về trò chơi ô ăn quan- Mẫu 4
Không khó để bắt gặp những đám trẻ đang tụm năm tụm bảy chăm chú hồi hộp “đi quân” bằng cách thả những viên đá, sỏi vào ô quan vẽ trên đất ở các miền quê, hay tiến bộ hơn là các ô quan màu sắc in sẵn trên giấy và hạt nhựa đối với thành thị. Ô quan đã đi xuyên qua quá khứ bụi bặm của mình, để chuyển mình từ một trò chơi dân gian cho trẻ em chân đất áo bùn thôn quê, thành một thú vui vừa mang tính giải trí lẫn giáo dục cho trẻ em thời hiện đại.
Đầu tiên, vẽ một hình chữ nhật được chia đôi theo chiều dài và ngăn thành 5 hàng dọc cách khoảng đều nhau, ta có được 10 ô vuông nhỏ. Hai đầu hình chữ nhật được vẽ thành 2 hình vòng cung, đó là 2 ô quan lớn đặc trưng cho mỗi bên, đặt vào đó một viên sỏi lớn có hình thể và màu sắc khác nhau để dễ phân biệt hai bên, mỗi ô vuông được đặt 5 viên sỏi nhỏ, mỗi bên có 5 ô.
Hai người hai bên, người thứ nhất đi quan với nắm sỏi trong ô vuông nhỏ tùy vào người chơi chọn ô, sỏi được rãi đều chung quanh từng viên một trong những ô vuông cả phần của ô quan lớn, khi đến hòn sỏi cuối cùng ta vẫn bắt lấy ô bên cạnh và cứ thế tiếp tục đi quan (bỏ những viên sỏi nhỏ vào từng ô liên tục). Cho đến lúc nào viên sỏi cuối cùng được dừng cách khoảng là một ô trống, như thế là ta chặp ô trống bắt lấy phần sỏi trong ô bên cạnh để nhặt ra ngoài. Vậy là những viên sỏi đó đã thuộc về người chơi, và người đối diện mới được bắt đầu.
Đến lượt đối phương đi quan cũng như người đầu tiên, cả hai thay phiên nhau đi quan cho đến khi nào nhặt được phần ô quan lớn và lấy được hết phần của đối phương. Như thế người đối diện đã thua hết quan. Hết quan tàn dân, thu quân kéo về. Hết ván, bày lại như cũ, ai thiếu phải vay của bên kia. Tính thắng thua theo nợ các viên sỏi. Quan ăn 10 viên sỏi. Cách chơi ô ăn quan được nói lên rất đơn giản nhưng người chơi ô ăn quan đã giỏi thì việc tính toán rất tài tình mà người đối diện phải thua cuộc vì không còn quan (sỏi) bên phần mình để tiếp tục cuộc chơi...
Ô ăn quan là bóng hình kỉ niệm của một thời mang cả hương vị quê nhà và niềm vui của tuổi thơ. Chỉ cần một khoảng sân nhỏ, đất trống trong vườn, vài ba viên sỏi hay phấn màu là có thể cùng nhau chơi ô ăn quan. Ô ăn quan là một trò chơi dân gian để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng những ai đã từng là trẻ thơ.
Viết bài văn thuyết minh về trò chơi ô ăn quan- Mẫu 5
Ngày nay, khi hỏi mỗi đứa trẻ về những trò chơi dân gian như ô ăn quan hay rồng rắn lên mây, có thể chúng ta chỉ nhận được ít ỏi những câu trả lời “Em có biết”, nhưng ngược dòng lịch sử quay trở về với trẻ em thời trước thì ô ăn quan là một trong số các trò chơi dân gian lành mạnh và được ưa thích nhiều nhất.
Đây là một trò chơi thiên về tính toán nên đòi hỏi ở người chơi khả năng trí tuệ cao hơn, thay vì sức lực như những trò chơi khác. Trò chơi gồm một bàn kẻ trên một mặt phẳng tương đối. Bàn chơi thông thường có hình chữ nhật với 10 ô vuông đối xứng nhau (được gọi là ô dân), hai đầu hình chữ nhật sẽ có hai vòng cung lớn được gọi là ô quan. Quân chơi thường sẽ là những viên sỏi hay đã có kích thước nhỏ đối với ô dân và có kích thước lớn đối với ô quan. Ở mỗi ô dân sẽ đặt 5 quân, tổng cộng cho cả trò chơi là 50 quân. Còn đối với những ô hình bán nguyệt thì có có hai quân lớn.
Trò chơi này sẽ gồm hai người chơi, hai người này sẽ lần lượt cầm quân tại một ô quân bên mình và đi rải lần lượt vào các ô quân khác theo chiều tự chọn, qua mỗi một ô vuông sẽ để lại một quân. Nếu như hết quá trình rải mà quân cuối cùng rơi vào ô quân mà ô ngay đằng sau ô đó trống thì người chơi sẽ ăn được toàn bộ quân tại ô đằng sau nữa. Người chơi sẽ cố gắng di chuyển quân sao cho ăn được càng nhiều dân và nhiều quan càng tốt. Và nếu như ăn được quan thì số điểm mà mỗi người chơi có là 10 điểm ( mối dân chỉ có 1 điểm). Sau khi cho kết thúc, nếu điểm của người nào cao hơn thì người đó sẽ là người chiến thắng
Mặc dù nói đây là một trò chơi dân gian thường dành cho trẻ em nhưng tất cả những người có mong muốn và yêu thích trò chơi này đều có thể chơi. Số lượng thông thường của trò chơi này là hai. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp số lượng người chơi sẽ lên đến ba hoặc bốn.
Ô ăn quan cùng với những giá trị văn hóa tốt đẹp của nó sẽ mãi còn trong lòng những người dân Việt chân chính và cũng sẽ còn như là một biểu tượng cho cho đời sống trẻ em làng quê một thời Việt Nam.
Viết bài văn thuyết minh về trò chơi ô ăn quan- Mẫu 6
Ngày nay khi cuộc sống ngày càng phát triển thì đã có biết bao nhiêu trò chơi mới ra đời để phục vụ nhu cầu giải trí của con người , đặc biệt là trẻ em.Nhưng khi rời thành phố ồn ào , náo nhiệt để đến với những làng quê yên bình sau những lũy tre xanh , thỉnh thoảng ra lại được nhìn ngắm những đứa trẻ say sưa trong những trò chơi dân gian thú vị, một trong những trò chơi ấy là “ ô ăn quan”.
Ô ăn quan đã có ở Việt Nam từ rất lâu đời, có thể nó được lấy cảm hứng từ những cánh đồng lúa nước ở nơi đây.
Đầu tiên đến với khâu chuẩn bị. Trước hết phải chọn nơi để đặt bàn chơi, diên tích không cần quá lớn, chỉ cần đủ cho hai đến ba người chơi. Có thể là một góc nhỏ trong ngõ, hay ở đầu làng, hay trên một bàn đá. Tiếp đó là chuẩn bị một mảnh gạch nhỏ hay một viên phấn để ve khung chơi. Khung chơi ở đây hình chữ nhật, dài tầm một mét hoặc hơn tùy thuộc vào người chơi. Sau đó chia hình chư nhật thành 10 ô bằng nhau. Hai bên cạnh ngắn của hình chữ nhật tạo thành hình bán nguyệt hay hình vòng cung. Sau bước chuẩn bị, ta đi tìm 50 viên sỏi hoặc viên đá hoặc là những miếng nhựa có kích thước đều nhau, chia đều vào 10 ô trong hình chư nhật gọi là ô dân. Còn hai ô vòng cung kia gọi là ô quan. Đặt vào mỗi bên một viên sỏi to hoặc một viên đá to có kích thước lớn, màu sắc khác nhau để phân biệt.
Sau khi đã chuẩn bị xong xuôi, hai người chơi được chia làm 2 đội: đội A và đội B. Để cho công bằng thì hai bên oẳn tù tì xem bên nào thắng tức là bên đấy được quyền xuất quân trước. Người chơi bên đội A(hoặc đội B)người viên thắng dùng 5 quân trong 10 ô bất kì rải lần lượt vào các ô còn lại xuôi ngược tùy ý bao gồm cả ô quan lớn. Tuy nhiên việc chia vào cả ô quan còn phụ thuộc vào cách chơi ở từng vùng miền. Đến khi 5 viên đá hay sỏi ta đa rải hết ở các ô thì tra có quyền lấy sỏi ở ô tiếp theo để tiếp tục rải. Cho đến khi nào viên sỏi cuối cùng được dùng cách khoảng là một ô trống thì số sỏi ở ô bên cạnh được bỏ ra ngoài và thuộc về người vừa rải chỗ đá hoặc sỏi ấy.
Và đến khi nào viên sỏi cuối cùng dừng lại ở 2 ô trống liên tiếp thìu người đó coi như là mất lượt và phải nhường lại để bên B đi quân của mình. Người chơi tiếp theo cung chơi tương tự như bên A chơi. Và cứ thế hai người đi quân cho đến khi số quân ở từng ô hết. Người nào có số viên đá hay sỏi nhiều hơn thì người đó thắng. Và còn một điều chú ý nữa ở đây đó là 1 quan được quy đổi thành 5 hay 10 dân còn phụ thuộc vào thỏa thuận của người chơi ban đầu.
Viết bài văn thuyết minh về trò chơi ô ăn quan- Mẫu 7
Bây giờ nhiều trò chơi của con trẻ ngày xưa không còn nữa. Những trò chơi luyện sức khỏe như đánh khăng, luyện khéo tay như đánh bi, đánh đáo, luyện cho đôi mắt tinh nhanh như rải ranh, chuyền chắt, tất cả không còn thấy chơi. Còn cách chơi thì chắc cũng không còn đứa trẻ nào biết. May ra chỉ còn ở một số vùng nông thôn hẻo lánh. Trong các trò chơi đó, có một trò luyện trí bây giờ cũng không còn, đó là trò chơi ô ăn quan đã rất phổ biến ở các vùng nông thôn.
Để chơi trò ô ăn quan, bọn trẻ phải đào trên mặt đất hai hàng lồ song song, mỗi bên 5 lỗ là 5 ô ruộng. Còn hai đầu là hai lồ to là hai ô quan. Số hạt sỏi ô quan là 10, ô ruộng là 5. Để giành quyền đi trước phải oẳn tù tì xem ai thắng. Khi đến lượt, người ta bốc sỏi ở ô nhỏ rải theo vòng thuận chiều kim đồng hồ. Rải hết thì bốc sỏi ở ô tiếp theo. Cho đến khi nào tạo ra được một lồ không có viên nào thì được ăn toàn bộ số quân của ô cách đó.
Trong trò chơi này, khi ăn được ô quan kết thúc ván chơi lũ trẻ nào cũng đều thuộc câu: hết quan – tàn dân – thu quân – bán ruộng và bày lại cuộc chơi. Ngẫm lại thấy trò chơi khá giống câu chuyện xã hội. Một xã hội khi quan tan tác thì dân tàn lụi, đó là lúc ngừng cuộc chơi để bày ván khác. Rõ ràng trò chơi ô ăn quan không đơn thuần chỉ là giải trí hoặc rèn luyện cách tính toán mà còn là câu chuyện xã hội, là một lời cảnh báo chứa trong trò chơi mang tính quy luật của mỗi cuộc hành trình.
Mặc dù nghe có vẻ chơi đơn giản nhưng để chiến thắng thì người chơi phải tính toán thật nhanh, đòi hỏi sự nhanh trí, bởi để tính toán cho bước đi tiếp theo sao cho có thể ăn được nhiều quân thì người chơi chỉ có thể suy nghi nhiều nhất trong 30 giây.
Như vậy việc chơi trò ô ăn quan không chỉ đem lại niềm vui cho các bạn thiếu nhi, cho những cô cậu học trò sau một giờ học căng thẳng ở trường. Hơn nữa khi chơi trò chơi này, nó sẽ thu hẹp khoảng cách giữa hai người chơi, tạo nên sự gần gũi, gắn kết tình bạn trở nên khăng khít. Rèn luyện cho người chơi kĩ năng tính toán tốt, xử lí tình huống một cách nhanh chóng.
Mong rằng trò chơi này sẽ được phổ biến rộng hơn để nhiều bạn trẻ ở mọi lứa tuổi có thể tiếp cận được, góp phần nuôi dưỡng tâm hồn cũng như phát triển trí óc cho các bạn.
Viết bài văn thuyết minh về trò chơi ô ăn quan- Mẫu 8
Bàn chơi được kẻ thành một hình chữ nhật rồi chia hình chữ nhật đó thành mười ô vuông, mỗi bên có năm ô đối xứng nhau. Ở hai cạnh ngắn hơn của hình chữ nhật, kẻ hai ô hình bán nguyệt hoặc hình vòng cung hướng ra phía ngoài. Các ô hình vuông gọi là ô dân còn hai ô hình bán nguyệt hoặc vòng cung gọi là ô quan.Quân chơi: gồm hai loại quan và dân, được làm hoặc thu thập từ nhiều chất liệu có hình thể ổn định, kích thước vừa phải để người chơi có thể cầm, nắm nhiều quân bằng một bàn tay khi chơi và trọng lượng hợp lý để khỏi bị ảnh hưởng của gió. Quan có kích thước lớn hơn dân đáng kể cho dễ phân biệt với nhau.
Quân chơi có thể là những viên sỏi, gạch, đá, hạt của một số loại quả... hoặc được sản xuất công nghiệp từ vật liệu cứng mà phổ biến là nhựa. Số lượng quan luôn là 2 còn dân có số lượng tùy theo luật chơi nhưng phổ biến nhất là 50. Bố trí quân chơi: quan được đặt trong hai ô hình bán nguyệt hoặc cánh cung, mỗi ô một quân, dân được bố trí vào các ô vuông với số quân đều nhau, mỗi ô 5 dân. Trường hợp không muốn hoặc không thể tìm kiếm được quan phù hợp thì có thể thay quan bằng cách đặt số lượng dân quy đổi vào ô quan.
Người chơi: thường gồm hai người chơi, mỗi người ngồi ở phía ngoài cạnh dài hơn của hình chữ nhật và những ô vuông bên nào thuộc quyền kiểm soát của người chơi ngồi bên đó. Mục tiêu cần đạt được để giành chiến thắng: người thắng cuộc trong trò chơi này là người mà khi cuộc chơi kết thúc có tổng số dân quy đổi nhiều hơn. Tùy theo luật chơi từng địa phương hoặc thỏa thuận giữa hai người chơi nhưng phổ biến là 1 quan được quy đổi bằng 10 dân hoặc 5 dân.
Di chuyển quân: từng người chơi khi đến lượt của mình sẽ di chuyển dân theo phương án để có thể ăn được càng nhiều dân và quan hơn đối phương càng tốt. Người thực hiện lượt đi đầu tiên thường được xác định bằng cách oẳn tù tì hay thỏa thuận.Khi đến lượt, người chơi sẽ dùng tất cả số quân trong một ô có quân bất kỳ do người đó chọn trong số 5 ô vuông thuộc quyền kiểm soát của mình để lần lượt rải vào các ô, mỗi ô 1 quân, bắt đầu từ ô gần nhất và có thể rải ngược hay xuôi chiều kim đồng hồ tùy ý.
Khi rải hết quân cuối cùng, tùy tình huống mà người chơi sẽ phải xử lý tiếp như sau: Nếu liền sau đó là một ô vuông có chứa quân thì tiếp tục dùng tất cả số quân đó để rải tiếp theo.
Viết bài văn thuyết minh về trò chơi ô ăn quan- Mẫu 9
Ô ăn quan là trò chơi mang đậm chất thuần hậu phong thủy Việt Nam, nó gắn liền với những mảnh đất chữ điền nằm cạnh nhau.
+Bàn chơi: Bàn chơi ô ăn quan chỉ cần một mặt phẳng tương đối rộng, kích thước mỗi ô dao động sao cho thích hợp chứa quân chơi và di chuyển quân dễ dàng. Vì thế bàn chơi ô ăn quan thường là vỉa hè, sân nhà, nền gạch…Dùng phấn, sỏi, que cây để kẻ ô thành hình chữ nhật, chia hình chữ làm 10 ô nhỏ mỗi hàng 5 ô đối xứng nhau. Hai đầu chữ nhật vẽ thêm hình bán nguyệt. Các ô vuông được gọi là ô dân, còn hai hình bán nguyệt là ô quan.
+ Quân chơi: có hai loại quân là quân dân và quân quan. Với bàn chơi thông thường ta có 2 quân quan và 50 quân dân. Chất liệu quân rất đa dạng, có thể làm từ sỏi,đá, đất, nhựa hoặc hạt cây…miễn sao kích thước phù hợp để cầm nắm, quân quan phải lớn hơn quân dân. Quân quan được đặt trong hai hình bán nguyệt, quân dân được đặt đều trong các ô vuông.
+ Người chơi: thường có hai người chơi, hai người ngồi hai bên ô vuông dài và kiểm soát quyền chơi phía bên mình.
Luật chơi:
+Người thắng cuộc là người kết thúc cuộc chơi có tổng số quan dân quy đổi nhiều hơn. Thông thường 1 quân quan đồi được 10 hoặc 5 quân dân.
+ Từng người chơi lần lượt di chuyển số quân dân trong ô bất kì, mỗi ô một quân, bắt đầu từ ô gần nhất. Nếu liền sau là ô vuông chứa quân thì tiếp tục dùng tất cả số quân rải tiếp. Nếu liền sau là ô vuông trống và sau là ô chứa quân thì người chơi sẽ ăn tất cả số quân trong ô. Nếu liền sau là ô quan chứa quân hoặc hai ô trống trở trên thì người chơi bị mất lược. Trong trường hợp 5 ô trống của chơi đều không có quân thì người chơi sẽ lấy quân ăn được của mình rải lên hoặc mượn quân đối phương. Cuộc chơi kết thúc khi toàn bộ dân và quan bị ăn hết.
Ngoài ra ô ăn quan cũng có thể chơi 3 hoặc 4 người, luật chơi giống như cách chơi 2 người nhưng hình vẽ điều chỉnh cho phù hợp. Chơi 3 người các ô nằm trong tam giác đều, 4 người các ô nằm trong hình vuông và có 4 ô quan. Ô ăn quan là bóng hình kỉ niệm của một thời mang cả hương vị quê nhà và niềm vui của tuổi thơ.
Viết bài văn thuyết minh về trò chơi ô ăn quan- Mẫu 10
Từ ngàn năm nay, nền văn học dân gian đã thấm nhuần trong đời sống của nhân dân ta, ngay đến những trò chơi dân gian cũng được phổ biến rộng rãi và quen thuộc, nhất là ở những vùng nông thôn. Một trong những trò chơi như vậy là trò chơi dân gian ô ăn quan.
Để chơi trò chơi này, cần chuẩn bị một số điều như sau:“Quan” và “dân” tên gọi của hai loại quân chơi, cần dùng một vật liệu có hình thể ổn định, kích thước vừa phải để người chơi có thể cầm, nắm nhiều quân bằng một bàn tay khi chơi và trọng lượng hợp lý để khỏi bị ảnh hưởng của gió, đó có thể là những viên sỏi, gạch nhỏ, hạt quả, mẩu gỗ,…. Quân “quan” cần có kích thước lớn hơn hoặc hình dạng khác quân “dân” để dễ phân biệt với nhau. Số lượng quan luôn là hai còn dân có số lượng tùy theo luật chơi nhưng phổ biến nhất là năm mươi. Sau khi đã có quân chơi, cần bố trí chúng: quan được đặt trong hai ô hình bán nguyệt hoặc cánh cung, mỗi ô là một quân, dân được bố trí vào các ô vuông với số quân đều nhau, mỗi ô là năm dân. Khi chơi trò này, thường gồm hai người chơi, mỗi người ngồi ở phía ngoài cạnh dài hơn của hình chữ nhật và những ô vuông bên nào thuộc quyền kiểm soát của người chơi ngồi bên đó. Mục tiêu cần đạt được để giành chiến thắng đó là người thắng cuộc trong trò chơi này là người mà khi cuộc chơi kết thúc có tổng số dân quy đổi nhiều hơn.
Cách chơi cũng rất đơn giản chỉ là di chuyển quân, từng người chơi khi đến lượt của mình sẽ di chuyển dân theo những cách để có thể ăn được càng nhiều dân và quan hơn đối phương thì càng tốt. Khi đến lượt, người chơi sẽ dùng tất cả số quân trong một ô có quân bất kỳ do người đó chọn trong số năm ô vuông thuộc quyền kiểm soát của mình để lần lượt rải vào các ô, mỗi ô 1 quân, bắt đầu từ ô gần nhất và có thể rải ngược hay xuôi chiều kim đồng hồ tùy ý. Khi rải hết quân cuối cùng, tùy tình huống mà người chơi sẽ phải xử lý tiếp như sau:
Nếu liền sau đó là một ô vuông có chứa quân thì tiếp tục dùng tất cả số quân đó để rải tiếp theo chiều đã chọn.
Nếu liền sau đó là một ô trống rồi đến một ô có chứa quân thì người chơi sẽ được ăn tất cả số quân trong ô đó. Số quân bị ăn sẽ được loại ra khỏi bàn chơi để người chơi tính điểm khi kết thúc. Nếu liền sau ô có quân đã bị ăn lại là một ô trống rồi đến một ô có quân nữa thì người chơi có quyền ăn tiếp cả quân ở ô này. Nếu liền sau đó là ô quan có chứa quân hoặc hai ô trống trở lên hoặc sau khi vừa ăn thì người chơi bị mất lượt và quyền đi tiếp thuộc về đối phương.
Cuộc chơi sẽ kết thúc khi toàn bộ dân và quan ở hai ô quan đã bị ăn hết. Trường hợp hai ô quan đã bị ăn hết nhưng vẫn còn dân thì quân trong những hình vuông phía bên nào coi như thuộc về người chơi bên ấy. Ô quan có ít dân (nhỏ hơn năm dân) gọi là quan non và để cuộc chơi không bị kết thúc sớm cho tăng phần thú vị, luật chơi có thể quy định không được ăn quan non, nếu rơi vào tình huống đó sẽ bị mất lượt.
Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển và hiện đại, nhiều công cụ giải trí khác ra đười, những trò chơi dân gian như ô ăn quan cũng không còn được nhiều người chơi nhưng nó vẫn sẽ không bao giờ biến mất trong bản sắc văn hóa Việt.
Lời giải
Bài văn mẫu 1
Trò chơi thả diều đã có từ ngàn xưa, được hình thành trong quá trình sinh hoạt và lao động của người Việt Nam Ở Việt Nam. Với tuổi thơ của rất nhiều người, hình ảnh những cánh diều trên cánh đồng quê đã trở nên vô cùng quen thuộc. Hay hình ảnh những chú bé chăn trâu ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thả diều đã trở thành một biểu tượng của làng quê Việt Nam.
Cánh diều thường có hình trăng lưỡi liềm. Khung diều làm bằng cật tre mềm, khi nâng lên phải nhẹ nhưng vẫn giữ được độ chắc chắn. Cánh diều có hình dáng cong cong, nhìn từ xa giống như là hình lưỡi liềm. Nguyên liệu chính dùng để làm diều là giấy bản. Cách làm diều trông có vẻ đơn giản nhưng vẫn đòi hỏi sự khéo léo mới có thể làm được. Diều sáo là một loại hình diều được ưa chuộng bởi khi lên cao, tiếng gió thổi vào cây sáo sẽ tạo thành âm thanh du dương, tha thiết.
Thả diều là một trò chơi dân gian thú vị, hấp dẫn của mọi lứa tuổi. Người chơi sẽ dựa vào sức gió của thiên nhiên để đưa diều lên cao qua một sợi dây dài. Gió không mạnh quá và không được nhẹ quá. Thời điểm thích hợp nhất là buổi chiều gió lộng. Hình ảnh những đứa trẻ tụ tập trên những khu đất trống cùng nhau hò hét, chạy theo cánh diều đã là hình ảnh quen thuộc ở làng quê Việt Na,
Ngày nay, diều vẫn nhận được sự yêu thích của mọi tầng lớp thế hệ qua những hình dáng, màu sắc đầy sáng tạo. Các cuộc thi thả diều lớn được tổ chức thường niên và nhận được nhiều sự quan tâm của mọi người
Bài văn mẫu 2
Tuổi thơ chúng ta ai mà không biết trò chơi thả diều, thú vui nhàn hạ của mỗi đứa trẻ ở vùng quê vào ngày hè, những cánh diều tuổi thơ sẽ mãi là kỉ niệm mà chúng ta mãi không quên.
Diều được làm từ các chất liệu khác nhau giấy, vải, ni lon, chất liệu bằng ni lon được sử dụng nhiều nhất bởi có nhiều màu sắc, kiểu dáng và sử dụng lâu dài. Người chơi diều có thể chọn nhiều loại khác nhau dựa theo màu sắc, kiểu dáng. Với trẻ em vùng quê diều làm bằng giấy là lựa chọn thích hợp, đây là loại diều đơn giản dễ làm nhất, chỉ cần sử dụng giấy vở không dùng đến để làm diều.
Cánh diều thông thường thường có hình trăng lưỡi liềm. Khung diều làm bằng tre mềm, có độ căng cần thiết. Cánh diều có hình cong, cách làm diều nhìn thì có vẻ dễ nhưng khi bắt tay vào thực hiện đòi hỏi sự khéo léo mới cho ra con diều đẹp và đúng cách. Khi chơi người thả diều sẽ dựa vào sức gió để đưa diều lên cao bằng sợi dây dài. Điều kiện gió khi thả phải không quá mạnh mà phải gió nhẹ. Những cánh đồng hoặc khoảng không rộng không vướng vật cản là những nơi thả diều tốt nhất. Vào mỗi buổi chiều những cánh diều bay lên không trung rất đẹp và thơ mộng.
Theo thời gian trò chơi thả diều đã không còn xuất hiện nhiều nữa nhưng đối với các thế hệ trước kia hình ảnh cánh diều tung bay phấp phới trong gió và những đứa trẻ chạy theo nô đùa sẽ mãi là kỉ niệm không thể phai nhòa.
Bài văn mẫu 3
Thả diều tự bao giờ đã trở thành một trò chơi dân gian quen thuộc không chỉ đối với trẻ con mà còn đối với nhiều người ở lứa tuổi khác nhau.
Thú thả diều có nguồn gốc từ nghệ thuật làm mo vào thời cổ đại của người Trung Quốc cách đây 2800. Thú thả diều đã du nhập vào nước ta, và được nhiều người đón nhận. Hình ảnh những chú bé ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thả diều đã trở thành hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam. Diều được làm từ nhiều chất liệu khác nhau như giấy, vải, nilon. Nhưng được ưa chuộng nhất là nilon bởi nhờ vào chất liệu này, không những làm được những cánh diều nhiều hình dạng và màu sắc mà còn bền lâu theo thời gian. Tuy nhiên vẫn có những cô bé, cậu bé thích làm diều bằng giấy vì chúng có thể tận dụng giấy đã qua sử dụng, vừa tiết kiệm lại có thể thỏa sức sáng tạo.
Diều được làm theo nhiều hình dạng khác nhau tùy theo sở thích của mỗi người. Có cánh diều hình lưỡi liềm, có cánh diều hình hộp, hình tròn, hình vuông, cũng có những cánh diều được tỉ mỉ thiết kế theo hình những chú bướm, chú chim, hình rồng, hình người.
Tự tay làm một cánh diều giấy không khó nhưng đòi hỏi người làm cần tỉ mỉ, chau chuốt và kiên nhẫn. Đầu tiên cần dùng dao vuốt hai nan tre tròn, kích thước nhỏ nhưng phải dẻo để tránh bị gẫy. Đặt hai nan tre vào một tờ giấy tạo thành hai đường chéo, cố định bằng hồ hoặc băng dính và cắt phần còn thừa của nan tre. Cắt năm tờ giấy có chiều dài 30cm và chiều rộng 5cm. Sau đó dán chúng lại với nhau thành ba dây dài với hai dây dài 50cm và một dây dài 80cm. Đặt phần thân diều vừa làm thành hình thoi rồi dán đuôi diều vào. Đuôi dài nhất dán vào góc giữa, hai đuôi còn lại dán vào hai bên. Lấy một đoạn dây dài 10cm buộc vào thanh nan thẳng đứng. Buộc hai đầu dây sao cho nốt buộc đầu trên dài hơn về phía đầu diều. Vậy là đã hoàn thành xong chiếc diều hình thoi.
Diều bay được là nhờ sức gió cho nên cần lựa chọn địa điểm thả diều cho phù hợp. Đó có thể là bãi đất trống, bãi cỏ nơi có nơi có đất bằng rộng rãi; không vướng cây cối; không vướng đường dây điện; xa lối đi lại và đặc biệt, nơi đó phải có gió. Lũ trẻ quê thích nhất là được thả diều giữa cánh đồng lúa bát ngát mênh mông hay chiều chiều được thả hồn mình trên những triền đê lộng gió. Tiếng sáo diều vi vu, vi vu cùng với tiếng nô đùa giòn tan họa nên một bức tranh đồng quê yên ả, thanh bình và đầm ấm.
Thả diều mãi mãi là thú vui của nhiều người. Ngày nay, xã hội đã phát triển, nhiều trò chơi vì thế cũng ra đời dần thay thế cho những trò chơi dân gian. Vì thế mọi người cần chung tay gìn giữ những giá trị truyền thống của dân tộc nói chung và những trò chơi dân gian nói riêng, đặc biệt là trò chơi thả diều.
Bài văn mẫu 4
Thả diều không chỉ là thú vui của trẻ con mà của nhiều người thuộc các lứa tuổi khác nhau. Một mảnh trời mùa hạ sẽ là không gian rộng lớn cho những cánh diều mặc sức vút lên cao.
Muốn có một chiếc diều tốt do chính tay mình làm, ta cần có: Tre, phải là tre tươi, dẻo, cứng; Giấy: tùy thuộc vào kích cỡ diều ta định làm, nhưng cứ chuẩn bị càng nhiều càng tiện. Dây: nếu là diều to phải có dây to, nếu không sẽ bị đứt dây nửa chừng lúc đang thả diều, dây cũng phải hai ba cuộn mới đủ cho một chiếc diều cỡ thường; Hồ dán; Sáo (chỉ cần khi làm sáo diều to).
Diều có rất nhiều loại: hình hộp, hình vuông, hình rồng, hình chim, hình người… Nhưng để bay cao và vững chắc là diều quạ. Vì thế ta hãy tự làm cho mình một chiếc diều hình quạ là tốt nhất.
Đầu tiên ta phải làm khung cánh bằng tre nứa. Có lẽ ta nên chuẩn bị hai thanh tre dài 90cm thì vừa. Ta phải buộc vào thanh tre ở trên, đầu kia là thanh ở dưới sao cho thật thăng bằng hai bên cánh. Thanh tre này ta nên để dài khoảng 22, 23cm thì đẹp. Nhưng như thế là chưa đủ, ta phải làm cho hai bên cánh cong lên bằng cách buộc hai đầu vào thanh trục ở giữa (buộc vào trung điểm của thanh trục). Nhưng đứng có uốn cong quá kẻo gãy. Thường thì hai cánh sẽ không cong đều như đường tròn và cong tụ lại ở một chỗ, như thế cũng không sao. Thế là ta đã có được đôi cánh của con quạ giấy rồi.
Tiếp theo là phần đầu và đuôi rất đơn giản:
Đầu: Ta chuẩn bị hai thanh tre nhỏ, ngắn khoảng 9-10cm, buộc vào sát cái trục rồi buộc tiếp vào đầu kia thành mũi nhọn.
Đuôi: cũng là hai thanh tre nhưng dài hơn, khoảng từ 20-30cm, buộc thành hình tam giác. Nhưng một đầu nhọn của tam giác là gắn chặt với thanh trục (ở khoảng 1/3 trục), góc nhọn khoảng 70 độ thì vừa.
Khi đã có khung cả rồi thì ta mới dán giấy. Nếu giấy nhỏ thì ta phải dán từng đoạn của cánh và phải kín. Giấy được phủ lên cánh diều, vuốt một nếp theo đường dây, kéo cho phẳng rồi dán mép giấy vào xung quanh thanh tre. Đầu và đuôi cũng tương tự.
Cuối cùng là phần buộc dây (lèo). Ta phải đục hai lỗ nhỏ trên giấy sát thanh tre ở trên của cánh (hai lỗ nhỏ cân giữa trục, từ trục đến một lỗ khoảng 10-15cm), buộc hai đầu của sợi dây khoảng 3cm vào hai lỗ ta được một phần của lèo. Tiếp theo lấy một đoạn dây khoảng 30cm buộc vào trung điểm của đoạn dây trước, đầu kia buộc vào đuôi của trục. Và đoạn dây nối với cuộn dây của ta sẽ buộc vào đoạn thứ hai ấy, buộc thật chắc nhưng vẫn di chuyển được trên dây thứ hai để chỉnh. Phần chính này khoảng từ 3-5cm (trên đoạn dây thứ hai tính từ phần buộc với dây thứ nhất). Như thế là ta đã có một con quạ giấy rồi.
Trò chơi thả diều sẽ mãi mãi là thú vui của nhiều người trong những ngày hè oi ả. Những ngày gió to, ta đem diều ra ngoài đồng hoặc nơi không bị vướng nhà cửa, dây điện mà đưa diều lên trời cao. Đảm bảo sẽ có những giây phút bình yên cùng một cánh chim và một mảng trời xanh biêng biếc.
Bài văn mẫu 5
Sẽ thật tuyệt vời nếu như tuổi thơ của mỗi chúng ta được gắn bó với những trò chơi dân gian như bịt mắt bắt dê, rồng rắn lên mây, trốn tìm, thả diều… Đặc biệt, mỗi cánh diều tuổi thơ mãi là những kỉ niệm mà chúng ta không thể nào quên được, đó cũng là món đồ chơi yêu thích của biết bao người khi còn thơ ấu.
Trò chơi dân gian thả diều có xuất xứ tại Trung Quốc từ hàng ngàn năm trước (khoảng 2800 năm trước), du nhập đến nước ta và được nhiều người đón nhận.Với mỗi đứa trẻ Việt Nam, hình ảnh những cánh diều cao vút trên cánh đồng mênh mông bát ngát đã rất đỗi quen thuộc.
Diều là một món đồ chơi được làm từ nhiều chất liệu khác nhau. Đầu tiên là áo diều, áo diều có thể làm bằng giấy, vải hoặc nilon. Tiếp theo là khung diều, bộ phận này thường được làm bằng nan tre bởi nan tre mềm dễ uốn và tạo kiểu. Dây thả diều bằng chỉ, bằng gai dùng cho các diều nhỏ bằng dây may, dây thừng nhỏ và sau này có cả dây thép nữa để dành cho các loại diều lớn. Hình dáng của diều cũng rất phong phú đa dạng, có loại hình hộp, hình vuông, hình rồng, hình chim, hình người…. Muốn có một chiếc diều tốt do chính tay mình làm, ta cần có tre, tre phải là tre tươi, dẻo, cứng và có độ căng cần thiết. Cánh diều có hình cong, cách làm diều nhìn thì có vẻ dễ nhưng khi bắt tay vào thực hiện đòi hỏi sự khéo léo mới cho ra con diều đẹp và đúng cách.
Thả diều cần chọn những địa điểm rộng và thoáng như cánh đồng hoặc khoảng không rộng không vướng vật cản. Khi chơi người thả diều sẽ dựa vào sức gió để đưa diều lên cao bằng sợi dây dài. Trường hợp thả diều ở một nơi có nhiều gió, có thể chỉ cần đứng tại chỗ và giật dây điều khiển cánh diều từ từ bay lên cao. Trường hợp trời đứng gió, lúc này cần cầm dây và chạy thật nhanh cho diều đạt được độ cao nhất định đủ để đón những cơn gió ở tầng cao, khi đó diều sẽ có thể tiếp tục bay lên. Trẻ em ham chơi thường chọn cách chạy thật nhanh để đưa diều lên cao dù cho trời đang nắng gắt. Những người từng trải luôn biết cách chờ đợi những cơn gió lúc chiều tà. Thả diều nơi đồng vắng thì ung dung tự tại nhưng hơi buồn tẻ, thả diều ở nơi có nhiều người cùng thả thì có sự cạnh tranh nhưng lo ngại bị vướng dây. Diều giấy thì thả ở đồng quê, diều to nghệ thuật thì thả ngoài biển lớn. Nhưng dù chọn cách chơi nào với loại diều nào thì chơi diều vẫn là một thú vui của tuổi thơ.
Những con diều đã cất cánh bay lên trời cao, cũng mang theo một nét đẹp văn hóa dân gian đậm đà bản sắc dân tộc được tung cánh, chở theo bao ước mơ của những đứa trẻ thôn quê. Cánh diều cứ yên bình ngắm nhìn trời đất như thế, yên bình nhìn ngắm khung cảnh đất nước thanh bình, vẽ một nét mực trong bức tranh thôn dã tĩnh lặng của quê hương Việt Nam.
Bài văn mẫu 6
Quê hương của trò thả diều không phải ở Việt Nam mà nó có nguồn gốc từ Trung Quốc với trên 2800 năm lịch sử, xuất hiện lần đầu tiên vào thời Xuân Thu Chiến quốc. Đối với người Trung Quốc cổ đại, thả diều mang nhiều ý nghĩa đặc biệt, họ có tục lệ thả diều vào tiết Thanh minh để xua đuổi tà khí, xui rủi bằng cách viết hết những điều không may mắn lên thân diều, rồi thả diều bay thật cao sau đó cắt đứt dây. Một ý nghĩa nữa là thả diều còn được xem là một nghi thức cầu an mà các nhà sư hay dùng, ngoài ra diều còn được xem là vật dâng hiến thần linh các trong các nghi lễ của vua chúa, quần thần vào dịp lễ lớn
Diều có nhiều hình dạng và kích thước khác nhau, có cái hình thoi, hình vuông, rồi lại có cái hình cánh cung, hình ông trăng, cầu kỳ hơn nữa thì có diều hình long, hình phượng, thậm chí có cả hình người. Diều là thứ đồ chơi đa dạng vì hình dáng phong phú về màu sắc, lũ trẻ con không có điều kiện thì chỉ chơi những con diều đơn sắc làm từ mấy thẻ tre với mấy tờ giấy vở, giấy màu, còn ví như người chơi diều theo hội thi thì trang trí diều vô cùng bắt mắt bằng những màu sặc sỡ, để khi diều đã tít tận trời mây mà cái bóng màu của nó dưới đất người ta vẫn nhận thấy được. Kích thước của diều cũng vô số kể, thường chỉ tầm mét vuông đổ lại, nhưng cũng có những người chơi diều sáo chuyên nghiệp họ có thể cất công làm cả chiếc diều to như cái thuyền, gắn thêm ống sáo to như bắp chân, sợi dây diều to như cái dây chão cột trâu mới đủ giữ, lúc thả cũng tốn sức không kém, phải vài ba người mới nhấc được nó lên.
Khoan nói đến diều sáo, bởi làm diều sáo khá khó, chúng ta sẽ nói đến thứ diều thông dụng mà bất cứ ai cũng có thể làm được. Trước hết cần chuẩn bị tre để làm khung diều, thông thường người ta sẽ chuẩn bị các thanh tre dài tầm 70-90cm rồi bắt cố định vào nhau thành những hình dạng mình mong muốn, thông thường là khung hình chữ thập, trong đó thanh ngang là thanh kép gồm một thanh thẳng và một thanh uốn cong như hình cánh cung, yêu cầu duy nhất là khung phải cân đối và chắc chắn thì diều mới bay được. Sau khi đã có khung, người ta sẽ cắt giấy theo hình khung rồi dùng hồ dán vào khung cho chặt, nên chọn loại giấy dày có thể chịu được sức gió, hồ dán cũng phải là loại có độ bám dính tốt, tránh việc đang bay mà diều bung ra thì mất vui. Xong phần thân diều, chúng ta tiến hành làm đuôi diều, nhiều người nghĩ rằng đuôi diều không quan trọng, chỉ mang tính thẩm mĩ nhưng thực tế đuôi diều chính là phần quyết định xem diều của bạn có bay được hay không. Khâu này khá dễ dàng, người ta sẽ cắt ra ba dải giấy dài gấp rưỡi hoặc gấp đôi thân diều, một dải dài, hai dải kia ngắn hơn và bằng nhau, sau đó đem gắn chúng vào đuôi diều. Cuối cùng là khâu cột dây diều vào đầu diều, nên chọn loại dây mảnh nhưng dai như dây cước hoặc dây chỉ cỡ lớn, được cuốn thành cuộn cho gọn, khi thả và thu diều về sẽ không bị rối dây.
Cách thả diều khá dễ nhưng phải biết quan sát và canh hướng gió, nên chọn khu vực quang đãng không có cây cối, cột điện, nhà cửa, ở nông thôn phía trên đê là thích hợp nhất. Người thả một tay cầm diều giơ cao hơn đầu, một tay cầm dây, chạy ngược hướng gió rồi buông diều ra kết hợp với việc thả dây cho diều bay lên cao, khi diều đã bay ổn định thì không nên thả dây nữa tránh diều bay quá cao, thu về rất mệt.
Cánh diều cứ yên bình ngắm nhìn trời đất như thế, yên bình nhìn ngắm khung cảnh đất nước thanh bình, vẽ một nét mực trong bức tranh thôn dã tĩnh lặng của quê hương Việt Nam.
Bài văn mẫu 7
Chẳng biết có từ khi nào nữa mà những trò chơi dân gian cứ dần dần rồi dần dần trở thành những trò chơi không thể thiếu đối với tất cả những đứa trẻ không chỉ ở thôn quê mà còn ở thành thị nữa. Những trò chơi dân gian chẳng phải chỉ dành cho trẻ em mà nó dành cho tất cả mọi lứa tuổi. Nói đến những trò chơi dân gian ta không thể không nhắc đến một trò chơi gắn liền đối với chúng ta đó là trò chơi thả diều.
Diều được làm từ rất nhiều chất liệu khác nhau như bằng giấy, vải hay bằng nilon. Nhưng được ưa chuộng nhất là nilon bởi là bằng vật liệu này diều không những có thể làm được những màu sắc hình dạng rất đẹp mà còn rất biền sử dụng được thời gian lâu. Tùy vào màu sắc và hình dạng ta có thể chọn rất nhiều loại diều với những hình dạng phong phú, người chơi có thể chọn được tùy theo ý thích của mình. Đó là đối với những loại diều dùng để sản xuất bán cho người chơi không thể chuẩn bị được hay không làm được. Ưu điểm của những loại diều này chính là mẫu mã rất đẹp lại phong phú đa dạng rất hợp mắt người chơi. Nhưng đối với những trẻ em ở quê thi lựa chọn số một vẫn là diều làm bằng giấy. Đối với loại diều này thì chất liệu làm ra rất đơn giản hợp với môi trường và sẵn có. Các em có thể tận dụng tất cả những giấy vở đã không dùng nữa để làm. Đối với những em nhỏ ở quê thì diều giấy không thể thiếu được khi mỗi mùa hè đến. Những cánh diều giấy nhẹ nhàng vút cao lên đến tận mây xanh khiến cho chúng ta như đang được bay lên cao cùng diều cùng với gió mây thật thú vị biết nhường nào.
Thả diều là trò chơi dân gian dựa theo sức nâng của gió bởi thế để thực hiện được trò này trước tiên chúng ta cần phải chọn được địa điểm thích hợp.
Cánh diều thường có hình trăng hoặc hình lưỡi liềm hay còn gọi là diều quạ. Khung diều thì thường được làm bằng cật tre bánh tẻ chuốt tròn và nối với nhau. Giu khung diều là một xương sống bằng tre cứng to bản to nhô ra bên Hai bên cánh diều cong lên tạo thành khung diều hình lưỡi liềm.
Chiều cong của cánh diều phải thật cân đối, khung diều phải chắc chắn và nhẹ. Diều được phất bằng giấy bản, bồi thành nhiều lớp bằng hồ dán. Sáo được xâu lại bằng một thanh tre đặt chéo góc ước chừng ba mươi độ với xương sống diều. Sáo thường làm bằng ống nứa, chia làm hai khoang, đầu gắn nắp hình vòm xẻ rãnh để gió lùa vào tạo nên âm thanh.
Những con diều đã cất cánh bay lên trời cao, cũng mang theo một nét đẹp văn hóa dân gian đậm đà bản sắc dân tộc được tung cánh, chở theo bao ước mơ của những đứa trẻ thôn quê. Cánh diều cứ yên bình ngắm nhìn trời đất như thế, yên bình nhìn ngắm khung cảnh đất nước thanh bình, vẽ một nét mực trong bức tranh thôn dã tĩnh lặng của quê hương Việt Nam.
Bài văn mẫu 8
Hình ảnh con diều bay lượn trên bầu trời đã trở nên gần gũi và nên thơ trong cái nhìn của một người con đất Việt. Và thả diều từ lâu đã là một trò chơi dân gian gắn bó với nhiều thế hệ người Việt Nam.
Trò chơi thả diều lần đầu tiên xuất hiện tại Trung Quốc. Chiếc diều đầu tiên được một người tên Lỗ Ban dùng gỗ chế tạo đã bay trên mảnh đất Trung Hoa, trở thành một nét văn hóa đặc sắc của họ. Dần dà, thú thả diều cũng được người dân Việt Nam ưa thích và trở thành một trò chơi dân gian, một phần của văn hóa dân tộc.
Diều là một đồ vật thuộc loại khí cụ, mượn sức gió và sức đẩy của không khí để có thể bay lên cao. Diều thường có một khung bằng tre hoặc gỗ, được uốn thành các hình thù khác nhau. Khung diều không được quá mềm vì sẽ dễ bị gãy khi có gió lớn, và cũng không được quá cứng, nặng vì sẽ gây khó khăn khi cho diều đón gió. Trên các khung ấy là những tấm giấy màu sắc hoặc những tấm ni lông, được dán bằng keo để cố định trên khung. Người ta thường làm thêm cho diều một cái đuôi dài với những sợi tua rua để làm phần trang trí. Khi diều bay lên, những tua rua ấy sẽ bay phấp phới, tạo nên điểm nhấn và giúp hình ảnh chiếc diều trên trời xanh được đặc sắc hơn.
Diều thường được thả vào những ngày có gió bởi như thế thì diều sẽ dễ lên hơn. Nhưng người chơi cần chọn ngày có gió vừa bởi gió to quá thì diều có thể bị cuốn đi mất. Cứ tầm chiều chiều, người ta sẽ đi thả diều rất đông, đặc biệt là ở những vùng đất cao, hút gió và rộng thoáng. Hình ảnh những đứa trẻ chân đất chạy chân trần trên nền đất để đưa diều lên đã quá quen thuộc với cuộc sống thường nhật ở nơi thôn dã.
Tiếng diều ấy là tiếng vi vu, là tiếng sáo diều thân thuộc. Nhiều con diều được gắn thêm một bộ sáo, khi bay lên, đón lấy gió thì sáo sẽ phát ra âm thanh ngân vang trong đất trời. Đây là loại diều rất đặc biệt và lá thú chơi có nguồn gốc từ các tỉnh thành đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam.
Để thả được diều, người chơi phải biết cách chọn hướng và xác định gió. Nếu nhiều gió, người chơi chỉ cần đứng giật dây điều khiển cánh diều từ từ bay lên. Nếu trời đứng gió, nếu thấy ngọn cây vẫn đung đưa tức là gió ở trên cao, thì người chơi chạy đà để đưa cánh diều lên đủ tầm đủ để đón được gió. Khi ấy, cánh diều sẽ tiếp tục lên cao.
Là một trò chơi dân gian, một nếp sinh hoạt truyền thống, thả diều đã trở thành thú vui không thể thiếu mỗi khi hè về. Đây cũng là lúc người ta được giải tỏa căng thẳng khi ngắm nhìn những con diều uốn lượn trên trời cao, được nằm dài nhìn trời đất cùng những cánh diều no gió, được nghỉ ngơi sau một ngày làm việc vất vả.
Bài văn mẫu 9
Thả diều là một trò chơi dân gian độc đáo của con người Việt Nam, trò chơi này được hình thành trong quá trình sinh hoạt và lao động của người Việt Nam. Xuất hiện từ rất sớm và trò chơi độc đáo này vẫn được duy trì và phát triển cho đến tận ngày hôm nay. Khi xưa, cùng với nhịp độ của cuộc sống sinh hoạt thường ngày, ông cha ta không chỉ lo lao động, làm ăn sinh sống mà còn rất chú trọng đến đời sống tinh thần của mình, mà cụ thể nhất có thể kể đến, đó chính lá sự sáng tạo các trò chơi dân gian, một trong số đó là thả diều.
Thả diều là trò chơi mà trong đó người chơi sẽ dựa vào sức gió của tự nhiên, đưa những cánh diều bay lên cao, sự kết nối của người chơi đối với con diều là thông qua một sợi dây dù đủ dài để đưa con diều bay lên tận trời xanh. Sợi dây sẽ giúp con người điều khiển con diều của mình bay đến độ cao nào hay bay đến nơi nào mình mong muốn. Khi thu diều lại thì người chơi cũng cuộn từ từ sợi dây dù này lại, con diều sẽ gần mặt đất hơn, và cuối cùng sẽ hạ cánh để được người chơi xếp lại, mang về nhà. Nguyên lí sử dụng của các con diều này là dựa vào sức gió. Vì vậy mà hôm nào trời không có gió thì không thể chơi thả diều.
Bộ phận thứ hai của diều đó là phần nguyên liệu phụ để trang trí cho con diều cũng là bộ phận giúp con diều có thể đón được gió và bay lên cao. Thông thường, phần áo diều này thường được làm bằng giấy báo, vải mỏng hoặc có thể bằng ni lông. Ngày nay, sự phát triển của đời sống tinh thần đã đòi hỏi tính thẩm mĩ cao hơn, do đó mà những con diều được trang trí với những màu sắc vô cùng bắt mắt, hình dáng con thuyền cũng được chế tạo thành nhiều kiểu khác nhau, có thể là diều hình con chim, con bươm bướm, chim phượng hoàng… Bộ phận không thể thiếu đó chính là dây dù. Dây dù buộc vào con diều để những người chơi có thể điều khiển con diều, nâng lên hay hạ xuống theo ý thích của mình, dây dù có thể làm bằng những sợi dây gai mỏng nhưng có độ bền cao, độ dài của dây này cũng từ tám đến mười mét. Những con diều thường được mang đi thả vào những buổi chiều có gió, nhưng gió này chỉ vừa đủ để diều bay lên, không quá lớn, bởi nếu vậy con diều sẽ bị gió thổi cuốn đi mất.
Trò chơi thả diều là một trò chơi dân gian đã có từ rất lâu đời, người ta có thể chơi thả diều vào những lúc rảnh rỗi, giúp giải tỏa những căng thẳng sau những giờ làm việc mệt mỏi. Đặc biệt, ngày nay diều vẫn thu hút đông đảo sự yêu thích của rất nhiều người, hàng năm vẫn có rất nhiều các hội thi thả diều lớn được tổ chức, được rất nhiều người lựa chọn, tham gia.
Bài văn mẫu 10
Thả diều không chỉ là một trò chơi thú vị, hấp dẫn của trẻ con mà còn của nhiều người thuộc các lứa tuổi khác nhau. Một mảng trời mùa hạ sẽ là không gian rộng lớn cho những cánh diều mặc sức vút lên cao, mang theo những ước mơ, nhỏ bé hay những hoài bão lớn của bao người.
Cánh diều thường có hình trăng lưỡi liềm hay còn gọi là diều quạ. Khung diều làm bằng cật tre bánh tẻ, chuốt tròn và ráp nối với nhau. Giữ khung diều là một “xương sống” bằng tre cứng to bản, nhô dài ra hai bên khung. Hai bên cánh diều cong lên tạo thành khung diều hình lưỡi liềm. Chiều cong của cánh diều phải thật cân đối, khung diều phải chắc chắn và nhẹ.
Diều được phất bằng giấy bản, bồi thành nhiều lớp bằng hồ dán. Sáo được xâu lại bằng một thanh tre đặt chéo góc ước chừng ba mươi độ với xương sống diều. Sáo thường làm bằng ống nứa, chia làm hai khoang, đầu gắn nắp hình vòm xẻ rãnh để gió lùa vào tạo nên âm thanh. Diều sáo trông đơn giản nhưng phải khéo tay mới làm được. Ngày trước chưa có loại dây dù, dây neo thường là dây mây, sợi nhỏ được đập dập, xoắn lại rồi thắt nối thành sợi dây dài chừng dăm bảy trăm mét. Chẳng may dây neo mà đứt, cánh diều theo gió cuốn xa, thật xa, mang theo cả niềm tiếc nuối của người thả diều.
Diều ở nước ta thường dùng dây lèo nhỏ, mềm mại, thả diều bằng tay và điều khiển theo ý muốn. Dây neo diều hóa thành sợi dây.
Ngày nay, trước sự phát triển của nhịp sống hiện đại, các nhà máy, các dự án khu công nghiệp, dịch vụ thi nhau mọc lên. Những không gian thoáng đãng, lộng gió ở các vùng nông thôn đang dần bị thu hẹp, thú chơi thả diều cũng vì thế mà bị mai một. Bên cạnh đó, sự lấn át của các phương tiện giải trí hiện đại như: trò chơi điện tử, internet đã khiến cho không ít trẻ em không còn mặn mà với những cánh diều truyền thống. Song cánh diều ngày xưa của tuổi thơ hồn nhiên đầy ước vọng ngày thơ sẽ mãi vẹn nguyên trong tâm thức chẳng thể phai mờ.
Có ngày hôm nay mới biết ý nghĩa ngày hôm qua! Chiếc diều nhỏ bé và đơn sơ kia sẽ trở thành kỷ niệm, sẽ dậy hương tuổi thơ, mùi hương ngọt ngào, nồng thắm và chân chất chốn đồng quê! Đôi lúc ai đó trong chúng ta cứ thầm mong được như Nguyễn Nhật Ánh “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ”!
Lời giải
Dàn ý Thuyết minh về hội thi thổi cơm
a. Mở bài:
– Giới thiệu về hội thi thổi cơm.
b. Thân bài:
– Nguồn gốc của hội thi thổi cơm.
– Giải thích cái tên của trò chơi: Tại sao gọi là hội thi thổi cơm?
– Đối tượng tham gia chơi.
– Các dịp tổ chức trò chơi (lễ hội, thi đấu…).
– Cách thức tổ chức trò chơi.
– Cách thức chơi.
c. Kết bài:
– Cảm nghĩ về hội thi thổi cơm.
– Vị trí của trò chơi dân gian này trong truyền thống văn hóa, tâm hồn của con người Việt Nam.
Thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 1
Ở xã Đồng Tháp huyện Đan Phượng có làng Đồng Vân bên dòng sông Đáy. Nhân dân sinh sống bằng cấy lúa, trồng màu và có nghề đan lát rổ rá. Hằng năm, cứ đến ngày rằm tháng giêng, làng Đồng Vân thường mở hội rước nước, hát chèo và thổi cơm thi. Hội thổi cơm thi ở đây có nhiều nét độc đáo về quy trình lấy lửa cũng như cách nấu, đậm màu sắc hài hước dân gian.
Người dự thi được tuyển chọn từ các xóm trong làng. Bắt đầu vào hội thi, trống chiêng điểm ba hồi, các đội hình dự thì xếp hàng trang nghiêm làm lễ dâng hương trước cửa đình đề tưởng nhớ vị thành hoàng làng có công cứu dân, độ quốc. Hội thi bắt đầu bằng việc lấy lửa trên ngọn cây chuối cao. Khi tiếng trống hiệu vừa dứt, bốn thanh niên của bốn đội nhanh thoăn thoắt leo lên thân cây chuối rất trơn vì đã bôi mỡ. Có người leo lên, tụt xuống, lại leo lên,… Có người phải bỏ cuộc, người khác lại leo lên, quang cảnh hết sức vui nhộn. Khi lấy được nén hương mang xuống, ban tổ chức phát cho ba que diêm châm vào hương cháy thành ngọn lửa. Người trong đội vót mảnh tre già thành những đũa bông châm lửa và đốt vào những ngọn đuốc. Trong khi đó, người trong nhóm dự thi nhanh tay giã thóc, giần sàng thành gạo, lấy nước và bắt đầu thổi cơm. Những nồi cơm nho nhỏ treo dưới những cành cong hình cánh cung được cắm rất khéo léo từ dây lưng uốn về trước mặt. Tay cầm cần, tay cầm đuốc đung đưa cho ánh lửa bập bùng. Các đội thổi cơm đan xen nhau uốn lượn trên sân đình trong sự cổ vũ nồng nhiệt của người xem hội.
Khoảng sau một giờ rưỡi, những nồi cơm lần lượt được đem trình trước cửa đình. Ban giám khảo mở nồi cơm chấm theo ba tiêu chuẩn: gạo trắng, cơm dẻo và không có cơm cháy. Các nồi cơm được đánh số ứng với người dự thi để giữ bí mật với ban giám khảo. Cuộc thi nào cũng hồi hộp và việc giật giải đã trở thành niềm tự hào khó có gì sánh nổi đối với dân làng.
Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân là sinh hoạt văn hóa cổ truyền được bắt nguồn từ các cuộc trẩy quân đánh giặc của người Việt cổ bên dòng sông Đáy xưa. Hội thi là dịp trai tráng trong làng đua tài khỏe mạnh, thông minh khi lấy lửa, là dịp gái làng thể hiện bàn tay khéo léo để có cơm dẻo tiếp binh lương. Hội còn vang lên những trận cười hồn nhiên, sảng khoái của người nông dân sau những ngày lao động mệt nhọc. Với những nét đặc sắc của mình, hội thổi cơm thi Đồng Vân đã góp phần giữ gìn và phát huy những nét đẹp cổ truyền trong sinh hoạt văn hóa hiện đại hôm nay.
Thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 2
Hàng năm, cứ mùng 8 tháng Giêng Âm lịch, người dân làng Thị Cấm, xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội lại đổ về sân đình thi kéo lửa thổi cơm.
Tương truyền từ thời vua Hùng thứ 18, đôi vợ chồng tướng tiên phong là Phan Tây Nhạc và Hoa Dung trẩy quân qua làng đi dẹp giặc. Dân làng xin đi theo, tướng quân bèn mở cuộc thi thổi cơm để chọn người giỏi việc nuôi quân.
Hội thổi cơm thi có 3 phần chính là thi kéo lửa, thi chạy lấy nước và thi thổi cơm, giã thóc thành gạo. Trước 11 giờ trưa, 4 đội thi phải hoàn tất những công việc chuẩn bị để bước vào cuộc tranh tài.
Phần thi kéo lửa là một trong những nội dung hấp dẫn nhất của hội thi. Mỗi đội cử ra 4 thanh niên khỏe mạnh. Dụng cụ bao gồm: Rơm nhóm lửa, đoạn tre đực già dùi sẵn những khe nhỏ và một que giang luồn vào khe đó đánh lửa.
Đúng 11 giờ trưa, trai làng cường tráng kéo lửa thi thổi cơm trong tiếng hò reo không ngớt của đông đảo bà con dân làng. Mồi lửa đầu tiên bén rơm cũng là lúc không khí trong sân đình làng náo nhiệt hơn bao giờ hết. Các đội mang lửa về bếp để chuẩn bị nấu cơm. Có lửa, nồi được bắc lên bếp để đun nước thật nhanh.
Mỗi đội có 10 thành viên, nhóm đun nước, nhóm giã gạo, các thao tác phải thật nhanh và vô cùng khéo léo. Gạo sau khi giã được chuyển sẩy, sàng, vo đãi sạch trong chớp mắt. Gạo đãi sạch, nước vừa kịp sôi, các thành viên trong đội mỗi người một việc, phối hợp nhịp nhàng. Từ khi có lửa đến lúc bỏ gạo vào nồi chỉ mất 10 phút. Để kéo dài thời gian cho cơm chín nục, người phụ trách nồi cơm đốt vun nhiều đống tro rơm buộc người chấm phải mất công tìm kiếm. Chỉ trong phút chốc, sân đình làng mịt mù khói trắng cay xè mắt.
Thời gian dành cho quá trình thi thổi cơm kéo dài khoảng gần một giờ đồng hồ. Sau đó các cụ trong Ban tổ chức sẽ gõ trống và đi tìm các nồi cơm trong các đống tro than rơm trên sân đình. Chính tay các cụ cao tuổi tự thu gom các nồi nấu cơm để mang vào đình chấm điểm. Cơm chín dẻo, thơm ngon, không khê, nát là đạt. Việc chấm điểm cũng chỉ là tượng trưng để khích lệ các đội thổi cơm sao cho thật khéo léo. Các cụ trong ban Khánh tiết sẽ dâng mâm cơm của 4 đội vào cửa Thánh và chấm điểm nồi cơm giành giải nhất.
Cơm đạt yêu cầu phải chín dẻo và trắng, không lẫn thóc, sạn, hạt cơm không bị sượng. Đầu xuân về làng Thị Cấm xem kéo lửa thổi cơm thi. Hàng năm, cứ mùng 8 tháng Giêng âm lịch, người dân làng Thị Cấm (phường Xuân Phương, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội) tưng bừng mở hội thi kéo lửa, thổi cơm.
Thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 3
Hàng năm, cứ đến mười rằm tháng Giêng, người dân làng Ngọc Tiên, xã Xuân Hồng (Xuân Trường) mở hội tưởng nhớ công đức Thành Hoàng làng là Hoàng Văn Quảng đã có công giúp dân làng dẹp giặc trấn biên. Hội làng ngoài phần chính lễ còn có tục thổi cơm thi, làm cỗ chay, trước là dâng cúng thánh thần tổ tiên, sau là ôn lại bước đường chinh chiến đầy gian khổ của thánh tổ và cha ông những ngày đầu dấy binh trấn ải.
Trước ngày vào đám, tất cả các giáp đều cử người lên đền mang dụng cụ thi đấu là bộ chõ đồ, nồi đồng điếu, quang gánh, cần trúc, bát đĩa…từ thời cổ xưa để lại ra lau chùi, sửa sang cho thật sạch sẽ, thanh tịnh. Bãi đất trước cửa đền được san phẳng, đường dong ngõ xóm dọn dẹp phong quang, chuẩn bị cho ngày chính hội. Tham dự hội làng có 6 giáp, được chia theo đơn vị xóm. Mỗi giáp phải có đủ 14 người đều là nam giới, tuổi từ 18 trở lên, có phẩm chất đạo đức tốt, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, gia đình toàn vẹn, không vướng tang ma. Xưa kia, đỗ, gạo thổi cơm, đồ xôi, làm bánh phải được trồng riêng trên phần ruộng huệ điền. Quá trình trồng cấy, thu hoạch, bảo quản gạo, đỗ đều do tay các lão nông đảm nhận. Việc lấy nước, tạo lửa để nấu cơm cũng do nam giới làm. Phụ nữ không được phép tham gia vào bất cứ phần việc nào của phần chính lễ và chính hội.
Để bắt đầu phần thi thổi cơm và làm cỗ chay, các giáp phải trải qua hai phần thi địch thủy và địch hỏa. Chỉ khi có nước và có lửa, thổi cơm thi mới được bắt đầu. Ở phần thi địch thủy, mỗi giáp cử ra 2 người, tay cầm một chiếc nậm nhỏ, đồng loạt chạy ra bến Cựa gà, lội ra giữa dòng sông Ninh lấy cho đầy nậm nước mang về đổ vào nồi đáy của chõ đồ. Trong quá trình chạy rước nước, ngón tay cái của người rước nước phải bịt chặt miệng nậm để nước khỏi sánh ra ngoài. Ai mang nước về nhanh nhất, không làm vương vãi nước dọc đường là người thắng cuộc. Phần thi địch hỏa được coi là gay cấn, lôi cuốn sự chú ý và tạo tâm lý hồi hộp không chỉ đối với người dự thi, dân làng mà còn cả với khách thập phương tham dự. Bởi có đạt kết quả ở phần thi này mới được tiếp tục tham dự ở vòng kế tiếp. Hơn nữa, theo quan niệm của người phương Đông thì việc tạo lửa trong ngày đầu xuân là điềm lành, mang nhiều may mắn, thuận lợi. Do đó, thao tác nhanh, dứt khoát, tạo lửa khéo và đốt cờ hiệu chính xác là trách nhiệm của mỗi người dự thi đối với nội tộc và xóm làng. Mỗi giáp vào dự thi mang theo một bộ dụng cụ địch hỏa gồm một thanh cái đặt cố định dưới đất được làm bằng tre bánh tẻ, đường kính khoảng 4cm, đã tách rời làm đôi tạo kẽ hở cho mùn rơi xuống trong quá trình kéo lửa. Thanh tre khác dài, mỏng gọi là thanh con (hay thanh dao) được tạo bởi gốc cây tre già, dùng để cọ sát vào thanh cái. Bí quyết chắc thắng trong phần thi này là dụng cụ địch lửa phải được làm từ cây tre chết bụi, lại phải gác gác bếp thêm 3 tháng nữa mới sử dụng được. Khi vào cuộc 12 người của 6 giáp xếp thành hàng ngang, tất cả nín thở, dùng 1 lực cọ sát 2 thanh tre vào nhau tạo ra một lớp mùn mịn. Mùn cưa vón cục, gặp ma sát lớn tạo thành lửa. Nhưng lúc này lửa chỉ là 1 đốm than hồng, người kéo lửa phải khéo hà hơi để lửa bén vào bùi nhùi rơm bùng lên thành ngọn lửa lớn. Lúc này, cả sân đền mới vỡ òa tiếng reo hò cổ vũ của dân làng và du khách tham dự. Khó khăn là vậy nhưng quy định cho phần thi này chỉ được thao tác trong vòng từ 20-25 giây. Vậy mà bằng sự nỗ lực của bản thân, sự cổ vũ nhiệt tình của bà con chòm xóm, đã có năm các chàng trai của làng Ngọc Tiên chỉ mất 12 giây để tạo ra lửa. Vận động viên địch lửa giơ cao ngọn lửa do mình tạo ra, đốt cờ lệnh báo hiệu phần thi của mình đã hoàn tất rồi cùng dân làng rước lửa về sân nấu cỗ, châm bếp bắt đầu phần thi làm bánh, thổi cơm trong tiếng hò reo cổ vũ tưng bừng. Ai đã từng tham dự hội làng Ngọc Tiên, mới thấy hết tài năng, sự khéo léo của người dân nơi đây. Người tham dự phần thi thổi cơm, phải phụ trách mọi công việc từ đeo cần trúc lên vai, cố định niêu cơm, giữ lửa cho cơm chín, vừa đi vừa nấu, theo sau là cả đoàn rước khua chiêng, gõ trống tưng bừng. Để hoàn thành tốt phần thi này, người dân làng Ngọc Tiên đã chuẩn bị rất công phu từ chiếc cần trúc treo niêu cơm đến việc làm quen với cách ước lượng sao cho đủ nước, đủ lửa, cơm chín nục, dẻo thơm trong thời gian đi chọn 3 vòng rước quanh sân đền bất luận tiết trời đầu xuân có mưa bụi giăng mắc, có rét đài, rét lộc ghé qua. Cụ Nguyễn Minh Oanh thuộc vào lớp người xưa nay hiếm, đã tham gia hội làng từ khi còn trai trẻ, nay lại tham gia ban bảo vệ di tích cho biết: Chỉ tính riêng việc chuẩn bị cho chiếc cần trúc treo niêu cơm đã mất đẫy 3 năm. Người ta uốn cong ngọn măng trúc khi vừa mới vượt khỏi mặt đất thành hình chữ S, vào nuôi dưỡng thuần hóa đến khi đủ độ dẻo dai, bền chắc thì đẵn xuống. Lại cho cây trúc tắm qua khói lửa, bồ hóng thêm một thời gian nữa mới đem vào sử dụng. Khi vào cuộc, vòng cong lớn của cần trúc ép vào dọc sống lưng người chơi và cố định lại bằng một dải lụa điều. Phần cong nhỏ vắt qua vai để treo quang sắt, cố định chiếc nồi đồng điếu bên trong. Hai tay cầm 2 bó đuốc hơ đáy nồi cơm cho chín. Người nấu cơm phải ước lượng nên gia lửa, hãm lửa lúc nào để cho cơm sôi bùng, hạt gạo ngậm no nước, chín đẫy hơi thì cơm mới nục. Đến khi cơm sôi, hai bó đuốc được dồn cả về một bên tay, tay còn lại cầm một chiếc móc vừa mở vung nồi, vừa quay đầu kia lại ghế cơm. Đây cũng là lúc người ta nhìn hạt gạo để điều tiết lửa sao cho cơm vừa chín tới đạt yêu cầu không khô, không hấy, đơm đủ 1 bát cơm lồng góp vào mâm cơm cúng thánh. Bên cạnh cơm là món chính, mâm cỗ chay còn có 4 loại bánh khác nhau là bánh ống, bánh bìa, bánh phong, bánh giáo và một bát chè đường. Mỗi loại bánh có yêu cầu kích thước, hình dáng, màu sắc khác nhau nhưng lại được làm từ nguyên liệu chung là gạo nếp, đỗ xanh đường kính và quả gấc chín. Cái khó nữa mà làng xã muốn thử thách đôi bàn tay thô ráp vốn chỉ quen với cày bừa, cuốc xới quanh năm của cánh nam giới là phải xếp tất cả các loại bánh, gạo đồ xôi vào chung 1 chõ, đồ 1 lửa mà xôi chín dẻo thơm, trắng bông tinh khiết, bánh chín rền, đẹp màu, vuông thành sắc cạnh, có thể để hàng tháng trời mà không thiu không mốc. Bốn loại bánh trên mâm cỗ chay tượng trưng cho các loại lương khô mà thánh tổ đã làm ra giúp nghĩa quân có đủ lương thực ăn đường ngay cả khi giặc dã mưa gió, lụt lội, không nổi lửa được. Sau 150 phút, mâm cỗ chay phải hoàn tất có đủ 4 loại bánh, một bát chè đường, 1 bát cơm lồng, một cút rượu trắng, một đĩa trầu cau, và một quả bưởi để dâng lên cúng thánh cầu cho quốc thái dân an, làng xã thịnh vượng, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, vạn vật sinh sôi. Sau 1 tuần hương, cỗ chay của các giáp được mang ra sân đình chấm điểm. Ban tổ chức trao giải cho cả 6 giáp tham dự, nhưng giáp nào đạt giải nhất thì được dân làng ưu tiên cắt đặt công việc trong suốt một năm. Xưa kia, mâm cỗ đạt giải nhất được dành riêng để chánh tổng đem biếu các tổng bạn, vừa tỏ lòng kính trọng, hòa hảo và cũng muốn khoe mỹ tục của tổng mình. Sau này, tan hội vào, lễ hoàn làng, cỗ xóm nào mang về xóm đó, chia đều cho tất cả dân làng từ cụ cao niên, em bé còn ẵm ngửa đến những người góa bụa, tật nguyền. Nét đẹp này còn lưu giữ nguyên vẹn đến ngày nay.
Thổi cơm thi trong lễ hội mùa xuân làng Ngọc Tiên, xã Xuân Hồng (Xuân Trường) là một lễ tục đẹp, mang đậm bản sắc dân tộc và sắc thái văn hóa làng quê. Đến nay, xã hội có nhiều thay đổi, nhịp sống vận hành cuồng nhiệt hơn, nhiều luồng văn hóa ngoại lai xuất hiện nhưng bản sắc làng quê không hề bị mai một. Văn hóa làng trở thành chất keo dính gắn kết cộng đồng làng xã. Vậy nên không còn ruộng huệ điền, người dân làng Ngọc Tiên không ai bảo ai nhà nhà tự góp công, góp của giữ nếp làng. Tích xưa được truyền kể cho lớp lớp cháu con cùng nghe để được tự hào và noi gương Đức Thánh tổ. Còn kỹ thuật địch thủy, địch hỏa, thổi cơm thi, uốn cần trúc, chọn tre già…thì đời cha truyền lại cho con trai, chú truyền cho cháu. Trẻ trai lên 10 ở làng Ngọc Tiên đã bắt đầu được phụ giúp công việc chuẩn bị hội làng, để rồi tám đến mười năm sau, con thay cha, cháu cùng cùng chú “chung lưng đấu cật” đời đời tiếp nối giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hóa làng quê.
Thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 4
Không biết từ khi nào, thi nấu cơm đã trở thành một trong những trò chơi dân gian phổ biến tại các làng quê ở Bắc Ninh. Theo lời kể của nhiều bậc cao niên, trò chơi thi nấu cơm được tổ chức sớm nhất là ở những làng nhỏ ven sông Cầu, nơi xưa kia tướng quân Lý Thường Kiệt xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt đánh giặc Tống xâm lược. Khi quân nhà Lý dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt đi qua, rất nhiều người dân trong làng đã tình nguyện tham gia bảo đảm hậu cần để phục vụ binh lính. Nhằm lựa chọn người nuôi quân giỏi để tuyển vào phục vụ quân lính, Lý Thường Kiệt đã mở cuộc thi thổi cơm với những quy định khá khắt khe. Từ đó về sau, vào dịp đầu xuân, các làng đều tổ chức hội thi nấu cơm để nhắc lại tích xưa và nhớ đến công ơn của tướng quân Lý Thường Kiệt.
Được tổ chức ở hầu hết các hội làng ở Bắc Ninh, nhưng cách thức tổ chức, quy định về người chơi, luật chơi… khi tham gia thi nấu cơm ở mỗi nơi lại có những nét riêng. Có nơi cuộc thi nấu cơm được chia riêng theo đội nam, đội nữ với 3 công đoạn tách biệt rõ ràng: thi lấy nước, thi kéo lửa và thi nấu cơm. Cũng có nơi, trò chơi thi nấu cơm lại chỉ dành cho những cô gái trẻ chưa chồng… Song dù tổ chức với cách thức nào thì thi nấu cơm vẫn là một trò chơi dân gian độc đáo trong lễ hội ở một số làng Quan họ cổ và luôn cuốn hút được sự quan tâm, cổ vũ của đông đảo dân làng và du khách thập phương.
Sau nhiều năm vắng bóng, trò chơi thi nấu cơm đã được phục dựng lại trong khá nhiều lễ hội đầu xuân ở Bắc Ninh. Phổ biến nhất hiện nay là cách tổ chức thi nấu cơm giữa những liền chị duyên dáng đại diện cho các xóm, các làng, các khu dân cư… Trước thời điểm tổ chức hội xuân, các làng phải đăng ký với Ban tổ chức danh sách đội thi của làng mình gồm 2 liền chị khéo léo nhất. Quy định bắt buộc là các cô gái khi tham gia thi nấu cơm đều phải mặc trang phục truyền thống (áo tứ thân, váy lụa đen, yếm trắng, đầu chít khăn mỏ quạ, lưng thắt dải lụa) và đi chân đất. Trong khoảng thời gian hơn 30 phút (tương đương với thời gian cháy hết một nén hương dài 30 cm), người thi phải thực hiện tất cả các khâu từ đầu đến cuối nên phải chuẩn bị đầy đủ các thứ như quang gánh, hũ đựng sẵn nước, bó đóm bằng tre ngâm phơi khô, bùi nhùi rơm có ủ lửa, rá vo gạo, đũa bếp để khuấy cơm... Khi nghe trống lệnh, theo phân công, một liền chị của mỗi đội sẽ nhanh chóng quảy gánh lên vai đi vòng quanh khu vực thi đã được xác định từ trước. Từ đó trở đi, các đội sẽ thực hiện phần thi nấu cơm của mình theo nhịp trống. Phần việc của liền chị còn lại là lấy gạo, rót nước từ hũ ra vò và phải giữ không để gạo rơi ra ngoài. Nếu rơi thì sẽ bị Ban Giám khảo trừ điểm. Tiếp theo là rót nước vào niêu cho vừa, không được rơi một giọt nào ra ngoài. Sau đó lấy lửa từ mồi rơm ra bùi nhùi, ra đóm mà đốt vào đáy niêu. Nước bắt đầu sôi thì lấy gạo ở phía sau đổ vào rồi tiếp tục điều khiển cho đến khi cơm chín. Yêu cầu đặt ra ở đây đó là sự phối hợp nhịp nhàng, nhuần nhuyễn giữa hai liền chị trong từng đội thi nấu cơm. Vì niêu cơm luôn luôn chuyển động theo nhịp bước của người quảy quang gánh nên người chơi còn lại cũng phải đi theo đúng nhịp bước ấy thì ngọn lửa mới kề sát được đáy niêu. Nhưng nếu người quảy quang gánh bước không đều, không nhẹ nhàng thì niêu sẽ lủng lẳng, ngọn lửa không bám được dễ dẫn đến tình trạng cơm sống hoặc chín không đều hay chín nhưng không bảo đảm yêu cầu về thời gian. Rồi khi cơm đã cạn nước thì người đun phải biết bớt lửa kẻo cơm cháy. Bớt lửa nhưng không được phép rút bớt đóm quăng đi mà phải điều chỉnh bằng cách xoay bó đóm hoặc tiến lùi bước chân. Do vậy, để hoàn thành tốt phần thi nấu cơm đòi hỏi hai người chơi phải phối hợp chặt chẽ với nhau, phải hiểu ý nhau, điều tiết cho nhau trong các động tác đun nấu. Liền chị Nguyễn Thị Thơm ở làng Tam Tảo, xã Phú Lâm, huyện Tiên Du (Bắc Ninh) chia sẻ: “Những quy định của trò chơi thi nấu cơm tại các hội làng đầu xuân thường rất khắt khe. Do vậy, xưa kia trò chơi thi nấu cơm thường là dịp để các cô gái thể hiện sự đảm đang, khéo léo của mình; đồng thời, cũng là cơ hội để các đấng quân tử lựa chọn ý trung nhân”.
Thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 5
Thi nấu cơm là trò chơi dân gian độc đáo, mang đậm giá trị văn hoá truyền thống gắn với những nét đặc trưng riêng có của nền nông nghiệp lúa nước. Cùng với đó, thi nấu cơm còn phản ánh đậm nét đời sống lao động của cư dân trồng lúa, ý thức tôn trọng sản phẩm nông nghiệp là hạt thóc, hạt cơm. Qua bàn tay khéo léo, tài hoa của người dân xứ Kinh Bắc, những niêu cơm chín dẻo, thơm ngon chính là hình ảnh tượng trưng tiêu biểu cho một năm mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa khiến cho nhân dân cả làng vui mừng, hân hoan và có thêm niềm tin cũng như hăng say trong lao động, sản xuất. Những niêu cơm đoạt giải cao trong cuộc thi nấu cơm đầu xuân luôn được coi là vật phẩm quý giá để dâng cúng, tạ ơn thần linh, cầu cho mùa màng bội thu, nhân khang, vật thịnh. Bởi vật phẩm ấy đã được tạo ra từ những gì quý giá, tinh khiết, mất nhiều công sức và được cả cộng đồng ủng hộ từ khâu chuẩn bị đến lúc hoàn thiện sản phẩm biểu trưng cho lòng thành kính của cộng đồng đối với thần linh. Không khí tưng bừng náo nhiệt, sự gay cấn, quyết tâm trong từng người, từng đội cùng mùi cơm thơm phức khi cuộc thi nấu cơm khép lại đã tạo nên sức hút, sức hấp dẫn đối với tất cả người tham dự lễ hội trên miền quê quan họ./. Năm nào cũng vậy, cứ mỗi dịp Tết Nguyên đán là em lại được theo mẹ về quê ngoại để xem hội thi nấu cơm mừng lúa mới. Trên sân đình, người từ khắp nơi đổ về xem hội rất đông. Mọi người đều mặc đồ mới, lịch sự và sạch đẹp. Biểu ngữ “Chào Xuân mới - Vui mùa lúa mới” treo ở cổng đình màu đỏ thắm chào đón mọi người. Hội được khai mạc bằng lễ dâng hương và văn nghệ có chủ đề về nghề nông. Bà con nông dân diễn kịch, mặt mũi phấn son rất hài hước. Dân làng diễn vở kịch trồng cây lúa nước để tưởng nhớ Thần Nông. Ngày hôm sau, dân làng tổ chức hội thi nấu cơm. Mỗi đội nấu cơm có ba người, xúm xít nấu nồi cơm bé tẹo sao cho chín thơm ngon trong ba hồi trống thúc. Bà con xem hội hò reo cổ vũ. Không khí ngày hội thật náo nức. Ngày Tết, được đi chơi đã vui, được dự hội thi nấu cơm sôi động còn vui hơn. Em yêu biết bao nhiêu cánh đồng xuân đang bước vào mùa gặt hái.
Thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 6
Lễ hội thổi cơm diễn ra ở làng Đồng Vân, xã Đồng Tháp, huyện Đan Phượng. Hội thường được tổ chức vào ngày rằm tháng giêng. Hội thi bắt đầu, trống chiêng điểm ba hồi, các đội dự thi xếp hàng trang nghiêm làm lễ dâng hương tưởng nhớ công ơn của các vị thành hoàng làng. Phần thi bắt đầu bằng việc lấy lửa trên ngọn cây chuối cao. Khi tiếng trống vang lên, bốn thanh niên của bốn đội sẽ leo lên thân cây chuối được bôi mỡ. Đội lất được nén hương mang xuống sẽ được ban tổ chức phát cho ba que diêm châm vào hương chảy thành ngọn lửa. Những người khác thì giã thóc, giần sàng thành gạo, lấy nước và thổi cơm. Sau một giờ, những nồi cơm lần lượt được đem trình bày. Tiêu chí chấm điểm theo ba tiêu chuẩn: gạo trắng, cơm dẻo và không có cơm cháy. Hội thi diễn ra mang nhiều giá trị văn hóa của dân tộc.
Thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 7
Hội thi thổi cơm được tổ chức ở làng Đồng Vân, xã Đồng Tháp, huyện Đan Phượng. Hội thường được tổ chức vào ngày rằm tháng giêng. Khi trống chiêng điểm ba hồi, các đội dự thi xếp hàng trang nghiêm làm lễ dâng hương tưởng nhớ công ơn của các vị thành hoàng làng. Mở đầu là công việc lấy lửa trên ngọn cây chuối cao. Người dự thi các đội leo nhanh lên thân cây chuối rất trơn để lấy được nén hương mang xuống. Khi lấy được nén hương mang xuống, ban tổ chức phát cho ba que diêm châm vào hương chảy thành ngọn lửa. Những người khác thì giã thóc, giần sàng thành gạo, lấy nước và thổi cơm. Những nồi cơm nho nhỏ treo dưới những cành cong hình cánh cung được cắm rất khéo léo từ dây lưng uốn về trước mặt. Tay cầm cần, tay cầm đuốc đung đưa cho ánh lửa bập bùng. Sau một giờ, những nồi cơm lần lượt được đem trình bày. Ban giám khảo sẽ chấm điểm theo các tiêu chí gồm gạo trắng, cơm dẻo và không có cơm cháy. Hội thi thường diễn ra rất sôi nổi và hấp dẫn.
Lời giải
Dàn ý Thuyết minh về trò chơi cướp cờ
a. Mở bài:
– Giới thiệu về trò chơi dân gian cướp cờ.
b. Thân bài:
– Nguồn gốc của trò chơi cướp cờ.
– Giải thích cái tên của trò chơi: Tại sao gọi là cướp cờ?
– Đối tượng tham gia chơi.
– Các dịp tổ chức trò chơi (lễ hội, thi đấu…).
– Cách thức tổ chức trò chơi.
– Cách thức chơi.
c. Kết bài:
– Cảm nghĩ về trò chơi dân gian cướp cờ.
– Vị trí của trò chơi dân gian này trong truyền thống văn hóa, tâm hồn của con người Việt Nam.
Thuyết minh về trò chơi cướp cờ - mẫu 1
Với đời sống văn hóa của con người Việt Nam từ bao đời nay là vô cùng phong phú và đa dạng. Trước khi có sự xuất hiện của Internet, các hình thức giải trí game online, những trò chơi dân gian luôn dành được sự yêu thích của rất nhiều người. Một trong những nét đẹp văn hóa ấy là trò chơi cướp cờ.
Trò chơi cướp cờ là trò chơi dân gian rất phổ biến dành cho trẻ em, nó thường được tổ chức trong các hoạt động tập thể, mang lại cho trẻ những tiếng cười vui vẻ, thư giãn sau giờ học ở căng thẳng. Trò chơi này tuy đơn giản nhưng lại mang đến rất nhiều ý nghĩa và lợi ích cho các bạn nhỏ như: Khi trẻ tham gia trò chơi cướp cờ sẽ luyện cho trẻ khả năng vận động nhanh, khéo léo và rèn luyện sự nhanh nhẹn để dành được chiến thắng. Ngoài ra trò chơi giúp tạo không khí vui vẻ, sôi động và tăng thêm tính đoàn kết, các bạn sẽ được giao tiếp với nhau nhiều hơn tăng tình thân mến.
Khi tham gia trò chơi, chúng ta cần lưu ý những chuẩn bị về người chơi, khu vực tổ chức và dụng cụ tham gia trò chơi. Số lượng người chơi tham gia chơi thường từ 8-10 người. Chia làm 2 đội với số thành viên mỗi đội bằng nhau. Khu vực chơi cần phải có 1 khuôn viên rộng, bằng phẳng không có chướng ngại vật (như ở các sân trường, sân nhà văn hóa, ủy ban.,). Tổ chức trò chơi cần chuẩn bị một cái khăn bất kì tượng trưng cho cờ, khi quản trò gọi số nào về thì số đó phải về, một lúc quản trò có thể gọi hai ba bốn số.
Luật chơi như sau: Khi đang cắm cờ nếu bị bạn vỗ vào người, thua cuộc. Khi lấy được cờ chạy về vạch xuất phát của đội mình không bị đội bạn vỗ vào người, thắng cuộc. Nếu có nguy cơ bị vỗ vào người thì được phép bỏ cờ xuống đất để tránh bị thua. Trong trường hợp gọi nhiều số lên một lúc thì số nào vỗ số đó không được vỗ vào số khác (số 1 đội bạn cướp được cờ thì số 1 bên mình phải là người dồn theo chạm vào, số 2 đứng gần chạm được cũng không được tính. Số nào bị thua rồi (“bị chết”) quản trò không gọi số đó chơi nữa. Người chơi không được ôm, giữ nhau cho bạn cướp cờ và khoảng cách cờ đến hai đội bằng nhau.
Cướp cờ là một trò chơi tập thể phối hợp đồng đội rất bổ ích. Nó vừa giúp trẻ rèn luyện khả năng vận động, vừa giúp gắn kết xây dựng tình bạn đẹp. Do đó, người lớn nên tạo điều kiện tổ chức chơi cướp cờ hoặc các trò chơi tập thể khác cho trẻ.
Thuyết minh về trò chơi cướp cờ - mẫu 2
Trong xã hội hiện đại và ngày càng phát triển, các trò chơi dân gian của nước ta lại ngày một mai một. Trẻ em thường thích chơi máy tính, xem ti vi, cầm điện thoại, thay vì ra ngoài hoạt động và vui chơi. Tuy nhiên, trong số đó, thì trò chơi cướp cờ là một trong số những trò chơi dân gian vẫn còn được phổ biến, đặc biệt trong các giờ học, giờ ra chơi hay các hoạt động ngoại khóa, tập thể. Cướp cờ là 1 trong những trò chơi dân gian về hoạt động thể lực được nhiều người yêu thích. Cách chơi trò này đơn giản nhưng đòi hỏi sự nhanh nhẹn của người chơi.
Cướp cờ là một trò chơi dân gian kết hợp đồng đội rất phổ biến đối với trẻ em, nhất là các thể hệ 8x và đầu 9x. Nó thường được tổ chức trong các hoạt động tập thể như sinh hoạt thiếu nhi thôn, xóm, xã, phường nhằm mục đích tạo không khí thoải mái, kết nối mọi người trong một tập thể với nhau. Hoặc có thể chỉ là một nhóm tập hợp lại cùng chơi với nhau.
Vì là trò chơi dân gian, truyền miệng nên không ai biết nó có từ bao giờ, ai tạo ra hay lấy cảm hứng từ đâu. Mọi người chơi thấy hay rồi tự chia sẻ với người khác mà thôi. Đây là trò chơi dành cho mọi người, mọi lứa tuổi, không phân biệt giới tính. Từ học sinh mẫu giáo, cấp 1, cấp 2, cấp 3 hay thậm chí là sinh viên,… trong các hoạt động tập thể thì đều có thể tham gia trò này.
Số lượng người chơi không giới hạn nhưng phải là số chẵn để chia thành 2 đội chơi. Thông thường sẽ có từ 5 đến 15 người/ đội. Trò này cần không gian sân rộng, bằng phẳng và không có chướng ngại vật cản đường, dùng phấn hay bất kỳ cái gì có thể sử dụng để tạo vạch ngăn cách mà không ảnh hưởng đến được chạy.
Trò cướp cờ có cách chơi tương đối đơn giản, người chơi sẽ chia làm hai đội, mỗi đội bao nhiêu người tùy ý và chia theo số thứ tự 1,2,3,4,5… Khi người điều khiển hô số thứ tự của người nào thì người đó chạy lên cướp cờ. Người điều khiển gọi ai về người đó phải về, mỗi lượt chơi có thể có nhiều người chơi. Người đầu tiên cướp được “ cờ” phải nhanh chóng chạy lại về vạch xuất phát của đội mình. Người chơi còn lại phải tìm cách đuổi theo và chạm vào người đang cầm “ cờ”. Nhưng đảm bảo chỉ được người chơi cùng số mới được chạm vào nhau. Nếu chạm được vào người đó, điểm sẽ thuộc về đội của người chơi đuổi theo. Còn không, để cho đội cướp cờ về đích an toàn, đội cướp cờ giành được điểm. Quản trò tiếp tục tiến hành các lượt chơi tiếp theo. Có thể giới hạn một số lượng lượt gọi nhất định. Ví dụ: 20 lượt. Sau một số lượt nhất định, cộng điểm thắng mỗi đội lại. Đội nào giành được nhiều điểm hơn là đội chiến thắng chung cuộc.
Trò chơi cướp cờ cứ thế ăn sâu vào tiềm thức của rất nhiều đứa trẻ nông thôn, theo chúng lớn lên, theo chúng đến những mảnh đất xa xôi. Mỗi người đều có một ký ức, những dòng chảy thời gian về tuổi thơ cứ thế neo đọng lại mãi trong kí ức. Khi tìm về tuổi thơ, bất chợt thấy mình trưởng thành, trò chơi ấy đang dần dần mất đi. Bất giác giật mình và buồn rười rượi.
Thuyết minh về trò chơi cướp cờ - mẫu 3
Chẳng biết có từ khi nào nữa mà những trò chơi dân gian cứ dần dần rồi dần dần trở thành những trò chơi không thể thiếu đối với tất cả những đứa trẻ không chỉ ở thôn quê mà còn ở thành thị nữa. Những trò chơi dân gian chẳng phải chỉ dành cho trẻ em mà nó dành cho tất cả mọi lứa tuổi. Nói đến những trò chơi dân gian ta không thể không nhắc đến một trò choi gắn liền đối với chúng ta đó là trờ chơi cướp cờ.
Trò chơi cướp cờ luyện cho trẻ khả năng vận động nhanh, khéo léo và biết “lừa” đối phương để giành chiến thắng. Rèn luyện khả năng tập trung, chú ý lắng nghe và phối hợp giữa các trẻ trong một tập thể khi chơi. Vì là trò chơi dân gian, truyền miệng nên không ai biết nó có từ bao giờ, ai tạo ra hay lấy cảm hứng từ đâu. Mọi người chơi thấy hay rồi tự chia sẻ với người khác mà thôi.
Đây là trò chơi dân gian không hạn chế người chơi. Tuy nhiên, vì phải chia thành hai đội nên cần có chẵn người chơi. Mỗi đội thường có từ 3-5 thành viên. Ngoài ra, cần cử ra một người khác đóng vai trò là quản trò. Do là trò chơi vận động, nên để chơi cướp cờ, nên chọn không gian rộng rãi, thoáng mát và bằng phẳng. Thường là sân trường, sân thể dục, sân chơi. Trước khi bắt đầu, cần chọn vật làm “cờ”, đây là vật mà hai bên đội sẽ phải cạnh tranh để giành được. Thực tế, có thể sử dụng cành cây, khăn đỏ, mảnh vải… để đóng vai trò là “ cờ”. Giữa sân chơi vẽ một vòng tròn có đường kính khoảng 20 - 25 cm. Ở giữa vòng tròn, đặt vật làm cờ. Ở mỗi đầu sân, kẻ 2 đường thẳng song song, đối xứng với nhau qua vòng tròn, cách vòng tròn khoảng 6 đến 7m. Đây là vị trí đứng của mỗi đội.
Mỗi đội sẽ đứng hàng ngang dọc theo đường đã kẻ. Các thành viên lần lượt điểm danh từ 1 đến hết. Mỗi người cần nhớ chính xác số của mình. Quản trò đứng giữa sân chơi, đóng vai trò là người điều khiển, lần lượt hô các số của các người chơi. Khi quản trò hô tới số nào, thành viên nào ở hai đội có số tương ứng sẽ là được quyền chạy qua vạch tới đường tròn giữa sân để giành lấy “ cờ”. Quản trò có thể được phép gọi nhiều số cùng lên. Hoặc gọi hai ba số cùng về. Người đầu tiên cướp được “ cờ” phải nhanh chóng chạy lại về vạch xuất phát của đội mình. Người chơi còn lại phải tìm cách đuổi theo và chạm vào người đang cầm “ cờ”. Nhưng đảm bảo chỉ được người chơi cùng số mới được chạm vào nhau. Nếu chạm được vào người đó, điểm sẽ thuộc về đội của người chơi đuổi theo. Còn không, để cho đội cướp cờ về đích an toàn, đội cướp cờ giành được điểm. Quản trò tiếp tục tiến hành các lượt chơi tiếp theo. Có thể giới hạn một số lượng lượt gọi nhất định. Ví dụ: 20 lượt. Sau một số lượt nhất định, cộng điểm thắng mỗi đội lại. Đội nào giành được nhiều điểm hơn là đội chiến thắng chung cuộc.
Để tránh gặp chấn thương và mâu thuẫn khi chơi, cần chú ý những điều sau: Chọn địa điểm bằng phẳng, không có các vật nguy hiểm xung quanh, không chơi ở nói có nhiều xe cộ qua lại. Thống nhất luật chơi trước khi chơi: số lượt chơi, cách tính điểm, hình phạt,…
Hiện nay, có rất nhiều trò chơi dân gian đã bị thay thế bởi những trò chơi game hiện đại, cuốn hút. Thế nhưng, trò chơi cướp cờ chắc chắn vẫn luôn được yêu mến, giữ gìn bởi những thế hệ về sau.
Thuyết minh về trò chơi cướp cờ - mẫu 4
Từ xưa, các trò chơi dân gian đã giúp con người, đặc biệt là trẻ em giải trí, thư giãn. Một trong những trò chơi thú vị, hấp dẫn nhất mà chắc hẳn nhiều người sẽ biết đến là cướp cờ.
Trò chơi cướp cờ có quy tắc, luật chơi khá đơn giản. Về số lượng người, trò chơi này không hạn chế. Tuy nhiên, người chơi phải chia làm hai đội nên tổng số người chơi phải là chẵn. Mỗi đội thường có từ ba đến năm thành viên. Một người sẽ được cử làm quản trò.
Không gian chơi thường ở những nơi rộng rãi, thoáng mát và bằng phẳng như sân trường, nhà thể chất… Đầu tiên, người chơi sẽ phải chọn vật làm “cờ”. Đây là vật mà hai bên đội sẽ phải cạnh tranh để giành được. Người chơi thể sử dụng khăn đỏ, cành cây… làm “cờ”. Tiếp đến, người chơi sẽ phải kẻ sân chơi. Giữa sân chơi vẽ một vòng tròn có đường kính khoảng 20 - 25cm. Ở giữa vòng tròn, đặt vật làm cờ. Ở mỗi đầu sân, kẻ hai đường thẳng song song, đối xứng với nhau qua vòng tròn, cách vòng tròn khoảng 6 đến 7m. Đây là vị trí đứng của mỗi đội.
Sau khi chuẩn bị xong, trò chơi sẽ được bắt đầu. Mỗi đội sẽ đứng theo đường đã kẻ. Các thành viên lần lượt điểm danh từ một đến hết và phải nhớ chính xác số của mình. Quản trò đứng giữa sân chơi, là người có vai trò điều khiển, sẽ lần lượt hô các số của các người chơi. Khi quản trò hô tới số nào, thành viên nào ở hai đội có số tương ứng sẽ là được quyền chạy qua vạch tới đường tròn giữa sân để giành lấy “cờ”. Quản trò có thể được phép gọi nhiều số cùng lên. Hoặc gọi hai ba số cùng về. Người đầu tiên cướp được “cờ” phải nhanh chóng chạy lại về vạch xuất phát của đội mình. Người chơi còn lại phải tìm cách đuổi theo và chạm vào người đang cầm “cờ”. Nhưng đảm bảo chỉ được người chơi cùng số mới được chạm vào nhau. Nếu chạm được vào người đó, điểm sẽ thuộc về đội của người chơi đuổi theo. Còn không, để cho đội cướp cờ về đích an toàn, đội cướp cờ giành được điểm. Quản trò tiếp tục tiến hành các lượt chơi tiếp theo. Số lượt chơi sẽ được giới hạn nhất định. Sau một số lượt nhất định, cộng điểm thắng mỗi đội lại. Đội nào giành được nhiều điểm hơn là đội chiến thắng chung cuộc.
Một số lưu ý khi chơi cướp cờ như: Chỉ có người chơi được gọi số đúng với số của mình mới được chạy lên cướp cờ. Người chơi chạy sai số sẽ trừ một điểm vào điểm của đội mình. Nếu người chơi đã qua vạch đích, không được tiến hành đập vào người nữa…
Trò chơi cướp cờ giúp rèn luyện phản xạ, sự dẻo dai và nhanh nhẹn của mỗi người. Không chỉ vậy, trò chơi này còn giúp rèn luyện tinh thần đồng đội, khả năng hợp tác của mỗi người. Đây là một trò chơi rất hấp dẫn, thú vị.
Thuyết minh về trò chơi cướp cờ - mẫu 5
Cướp cờ là một trò chơi dân gian khá phổ biến đối với thế hệ 8x, 9x và đến ngày nay thì nó vẫn giữ được sức hút cho riêng mình. Trò chơi mang tính đồng đội rất cao, nó đem đến không khí vui chơi thoải mái, kết nối mọi người gần nhau hơn.
Trò chơi không giới hạn người chơi nhưng phải có một người làm quản trò.
Quản trò chia tất cả người chơi thành 2 đội với số lượng đồng đều, người chơi phải đứng sau vạch xuất phát của đội mình và mỗi người cần phải đếm theo số thứ tự 1,2,3,4,5…Sử dụng vật dụng bất kì như khăn, vải, cành cây,… để làm "cờ".
Khi trò chơi bắt đầu, quản trò hô tới số nào, thành viên nào ở hai đội có số tương ứng sẽ chạy ra giữa sân để giành "cờ". Quản trò có thể được phép gọi nhiều số cùng lên hoặc cùng về. Người cướp được "cờ" phải nhanh chóng chạy về vạch xuất phát của đội mình. Người chơi còn lại phải đuổi theo và tìm cách chạm vào người đang cầm "cờ". Nhưng chỉ có người chơi cùng số mới được chạm vào nhau. Khi người cầm cờ đã qua vạch đích, người đuổi theo không được chạm vào người đó nữa. Nếu chạm được vào người đang cầm cờ, điểm sẽ thuộc về đội của người chơi đuổi theo. Còn nếu người cướp cờ về đích an toàn, đội cướp cờ sẽ giành được điểm. Quản trò tiếp tục tiến hành các lượt chơi tiếp theo. Có thể giới hạn một số lượt chơi. Sau khi kết thúc trò chơi, đội có nhiều điểm hơn sẽ là đội chiến thắng.
Thuyết minh về trò chơi cướp cờ - mẫu 6
Trong xã hội hiện đại và ngày càng phát triển, các trò chơi dân gian của nước ta lại ngày một mai một. Trẻ em thường thích chơi máy tính, xem ti vi, cầm điện thoại, thay vì ra ngoài hoạt động và vui chơi. Tuy nhiên, trong số đó, thì trò chơi cướp cờ là một trong số những trò chơi dân gian vẫn còn được phổ biến, đặc biệt trong các giờ học, giờ ra chơi hay các hoạt động ngoại khóa, tập thể. Cùng Thủ thuật chơi tìm hiểu cách chơi của trò chơi này nhé !
Người tham gia chơi
Trò chơi cướp cờ không hạn chế người chơi. Tuy nhiên, vì phải chia thành hai đội nên cần có chẵn người chơi. Mỗi đội thường có từ 3-5 thành viên. Ngoài ra, cần cử ra một người khác đóng vai trò là quản trò.
Không gian chơi
Do là trò chơi vận động, nên để chơi cướp cờ, nên chọn không gian rộng rãi, thoáng mát và bằng phẳng. Thường là sân trường, sân thể dục, sân chơi.
Chọn vật làm “ cờ”
Đây là vật mà hai bên đội sẽ phải cạnh tranh để giành được. Thực tế, có thể sử dụng cành cây, khăn đỏ, mảnh vải… để đóng vai trò là “ cờ”.
Kẻ sân chơi
Giữa sân chơi vẽ một vòng tròn có đường kính khoảng 20 - 25 cm. Ở giữa vòng tròn, đặt vật làm cờ. Ở mỗi đầu sân, kẻ 2 đường thẳng song song, đối xứng với nhau qua vòng tròn, cách vòng tròn khoảng 6 đến 7m. Đây là vị trí đứng của mỗi đội.
Bắt đầu trò chơi
Mỗi đội sẽ đứng hàng ngang dọc theo đường đã kẻ. Các thành viên lần lượt điểm danh từ 1 đến hết. Mỗi người cần nhớ chính xác số của mình.
Quản trò đứng giữa sân chơi, đóng vai trò là người điều khiển, lần lượt hô các số của các người chơi.
Khi quản trò hô tới số nào, thành viên nào ở hai đội có số tương ứng sẽ là được quyền chạy qua vạch tới đường tròn giữa sân để giành lấy “ cờ”. Quản trò có thể được phép gọi nhiều số cùng lên. Hoặc gọi hai ba số cùng về.
Người đầu tiên cướp được “ cờ” phải nhanh chóng chạy lại về vạch xuất phát của đội mình. Người chơi còn lại phải tìm cách đuổi theo và chạm vào người đang cầm “ cờ”. Nhưng đảm bảo chỉ được người chơi cùng số mới được chạm vào nhau. Nếu chạm được vào người đó, điểm sẽ thuộc về đội của người chơi đuổi theo. Còn không, để cho đội cướp cờ về đích an toàn, đội cướp cờ giành được điểm.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
190 Đánh giá
50%
40%
0%
0%
0%