Giải SBT Văn 7 Bài 5. Màu sắc trăm miền (Phần 1: Đọc hiểu và thực hành Tiếng Việt) có đáp án

24 người thi tuần này 4.6 717 lượt thi 50 câu hỏi

🔥 Đề thi HOT:

1101 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 4)

9.8 K lượt thi 6 câu hỏi
418 người thi tuần này

Đề thi Giữa Học kì 1 Văn 7 CTST - Đề 02 có đáp án

11 K lượt thi 6 câu hỏi
394 người thi tuần này

Đề thi Giữa Học kì 1 Văn 7 KNTT có đáp án (Đề 1)

9.1 K lượt thi 5 câu hỏi
372 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Cánh diều có đáp án (Đề 5)

9.5 K lượt thi 11 câu hỏi
300 người thi tuần này

Đề kiểm tra Cuối Học kì 1 Văn 7 Cánh diều - Đề 01 có đáp án

4.6 K lượt thi 5 câu hỏi
264 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 5)

7.1 K lượt thi 5 câu hỏi
241 người thi tuần này

Đề thi Học kì 1 Văn 7 KNTT có đáp án (Đề 1)

6.1 K lượt thi 5 câu hỏi
240 người thi tuần này

Đề thi cuối học kì 1 Văn 7 CTST - Đề 02 có đáp án

6 K lượt thi 6 câu hỏi

Đề thi liên quan:

Danh sách câu hỏi:

Câu 36:

Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Ở đó có những căn nhà không bao giờ khép cửa. Những căn nhà không cả vách che đằng trước, vì chẳng ai thèm tham lam của ai cái gì. Không cần giới thiệu gì cả, bản chất của xứ sở chúng tôi là đây, những ngôi nhà nây1. Mưa Nam hay mưa Chướng2, nhà chỉ treo một cái rèm bằng mấy cái bao bố may ghép lại hoặc bằng lá chằm đóp3. Không cái gì cho người ta cái cảm giác thái bình, no ấm như thế, không có gì cho ta sự gần gũi, thân thuộc như thế. Những ngôi nhà tất rộng lòng, mở trong tầm nhìn của ta một chiếc giường, một cái bàn thờ gia tiên, cái bàn trà, một bức màn vải thêu hình hai con chim loan đậu trên cành trúc, thấy nhà nó hợp với con rạch4 nầy làm sao đâu, vì khi nước ròng5 rạch cũng cạn lòng, phơi đáy. Nó hợp với tính cách con người của vùng đất nầy làm sao đâu, vì người ở đây cũng sống khoảng khoát6, cởi mở, rộng rãi, hào sảng.

Người ấp7 Mũi ít khi làm buồng để ngủ, buồng chỉ để cho con gái, cho những cặp vợ chồng son, người xứ biển thích ngủ đằng trước nhà, chỉ cần cái mùng8, khỏi9 chiếu, áp cái lưng trần đỏ au xuống với sàn nhà bằng gỗ đước bóng như gương đồng vậy là được một giấc ngủ ngon. Mà đúng là ngủ ở ngoài nầy thì thích không chịu được.

Nhà bao nhiêu gian thì bấy nhiêu gian đầy gió. Trong cái mùi biển tanh nồng mặn mòi của những giàn lưới phơi trên giá, trong cái mùi khói ngọt bùng nhùng toả ra từ mẻ un?, dường như có nhà ăn cơm chiều trễ, nghe mùi béo ngậy của cá thòi lòi10 kho với nước cốt dừa. Và đâu đó chắc có vài người chuẩn bị lai rai11, rõ ràng là mùi thơm khô mực nướng trên lò than đang tàn.

[...] Gió vẫn như múa, như ca, như chạy, như nấp bên ngoài cái mùng vải thơm mùi nắng. Những chiếc tàu đánh cá ầm ì chạy qua, và tiếng biển, đúng là tiếng biển lướt trên những búp lá đẫm sương trong rừng đước, rì rào rất gần. Chỉ có tiếng biển mới mênh mông một nỗi nhớ bờ như thế.

(Nguyễn Ngọc Tư, Ngủ ở Mũi, in trong Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư,

NXB Trẻ và Thời báo Kinh tế Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh, 2006, tr. 159 - 161)

Nầy: này.

Mưa Nam, mưa Chướng: tương ứng mùa mưa, mùa khô ở Cà Mau.

Chằm đóp: tấm rèm kết bằng lá dừa (người Khơ-me gọi là chằm đốn).

Con rạch: đường dẫn nước từ sông vào đồng ruộng, thuyền bè có thể đi lại.

Nước ròng: vị trí thấp nhất của mực nước trong chu kì thuỷ triều.

Khoảng khoát: rộng và thoáng.

Ấp: làng, xóm nhỏ.

Mùng: màn.

Khỏi: không cần.

Mẻ un: củi, xơ dừa, vỏ quýt, vỏ bưởi,... được đốt cho khói bốc lên để đuổi muỗi.

Cá thòi lòi: còn gọi là cá leo cây, loài cá sống ở các bãi lầy cửa sông, có khả năng di

chuyển trên bùn.

Lai rai: uống rượu từ từ từng chút một, thường kèm theo đồ nhắm (nghĩa trong văn bản).

Những nét sinh hoạt nào của cư dân vùng đất Mũi Cà Mau được nói tới trong đoạn trích?


Câu 44:

Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Làng Vân1 bị vây bọc quanh bởi nhiều con sông; và tôi nghĩ rằng đấy là một

thế đất cần thiết cho sự giữ bí quyết, bởi vì cho đến nay, chưa ai bắt chước được rượu làng Vân cả. Một đoàn những cụ già y phục dáng lễ hội đứng chờ chúng tôi, vẽ thành một hàng dài vui mắt ngay trên nền chiếu hoa trải thành hai hàng trên thềm nhà; trên đó bày đủ các thức ăn để nguội chừng đã lâu do chúng tôi đến trễ. Chúng tôi rủ nhau ngồi xuống chiếu trước những chai rượu Vân trong suốt. Một người nhà bưng ra những chiếc mâm đồng vàng ánh như còn mới, trên đó có chạm hoa văn nhỏ bằng đầu kim găm, lấm chấm phủ kín cả mặt đồng. Mỗi mâm có một cụ già bê từng món thức ăn đặt lên mâm đồng và hạ thấp ngọn măng sông2 xuống (bây giờ, tôi mới để ý căn nhà được thắp sáng bằng đèn măng sông). Bóng tối trở nên đậm đặc hơn, và tôi không biết chủ nhà đang bày ra trò vui nào đây. Cụ già quay lại lấy một chai rượu Vân chừng một lít đổ đầy mặt đồng và châm lửa, hoá ra đó là một cách hâm thức ăn. Phực một tiếng, ánh

lửa bốc thành ngọn đồng loạt trên những chiếc mâm đồng; ngọn lửa len lỏi qua những bát thức ăn vẽ thành những lượn sóng màu xanh biếc trên mặt thực khách.

Đã lâu rồi nhưng tôi không thể nào quên bữa tiệc hôm ấy ở làng Vân, với những vết sáng xanh biếc đầy bí ẩn nhảy múa trên gương mặt của những thực khách ngồi chìm trong bóng tối, trông nó giống như một cuộc tiệc của một bộ lạc bán khai3 nào đó trong ánh lửa rừng đêm thẳm của lịch sử nhân loại. [...] Và trong không gian đó, tôi nghe lan toả một giai điệu quan họ4, và “người ở đừng về”5 đã nói với tôi một điều gì đó, giống như một điều nguồn cội thuộc văn hoá dân tộc.

(Hoàng Phủ Ngọc Tường, Rượu làng Vân, in trong Miễn gái đẹp, NXB Thuận Hoá, Thừa Thiên - Huế, 2001, tr. 28 - 30)

Làng Vân: ngôi làng thuộc xứ Kinh Bắc xưa (nay thuộc tỉnh Bắc Giang), nổi tiếng với nghề nấu rượu.

Măng sông: loại đèn thắp bằng xăng hoặc dầu hoả,... có thể treo lên cao.

Bán khai: đã qua trạng thái dã man nhưng chưa tới trình độ văn minh.

Quan họ: dân ca trữ tình vùng Bắc Ninh, Bắc Giang.

“Người ở đừng vẽ”: tên một làn điệu quan họ.

Nét sinh hoạt nào của cư dân làng Vân được nói tới trong đoạn trích?


4.6

143 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%