Giải SBT Ngữ Văn 10 Bài 9. Khát vọng độc lập và tự do (Văn bản nghị luận) có đáp án

616 lượt thi 18 câu hỏi

Đề thi liên quan:

Danh sách câu hỏi:

Câu 1:

Đọc văn bản dưới đây và trả lời các câu hỏi:

Chiếu cầu hiền

Ngô thì Nhậm

Bối cảnh ra đời của bài Chiếu cầu hiền

          Khi thành lập nhà nước Tây Sơn, có một nhiệm vụ mang tầm quan trọng chiến lược đối với vua Quang Trung là thuyết phục trí thức Bắc Hà hiểu đúng những nhiệm vụ xây dựng đất nước mà triều đại Tây Sơn dự kiến thực hiện, để họ cộng tác, cống hiến cho triều đại mới.

          Sở dĩ kẻ sĩ Bắc Hà còn ở ẩn, chưa muốn cộng tác với triều đại mới là bởi hai lí do. Thứ nhất, trong bối cảnh xã hội loạn lạc, vua Lê chúa Trịnh mâu thuẫn, kẻ sĩ rơi vào cảnh lúng túng, chán nản, bi quan. Nhiều người không muốn tham gia chính sự vì sợ liên lụy hoặc muốn bảo toàn nhân cách nhà nho, “tôi trung không thờ hai chỉ”. Thứ hai, bên cạnh những nhà nho sáng suốt ủng hộ nahf Tây Sơn, vẫn còn nhiều nhà nho bảo thủ đã bất hợp tác, thậm chí chống lại nhà Tây Sơn.

 

          Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.

          Trước đây, thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời.

          Nay trẫm ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?

          Kì như, trời còn tăm tối, thì đấng quân tử phải trổ tài. Nay đương ở buổi đầu của nền đại định, công việc mới mở ra. Kỉ cương nơi triều chính còn nhiều khuyết điểm, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại sức, mà đức hóa của trẫm chưa kịp thấm nhuần khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh. Nghĩ cho kĩ thì thấy rằng: Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. Suy đi tính lại trong vòm trời này, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có người trung thành tín nghĩa. Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?

          Chiếu này ban xuống, các bậc quan viên lớn nhỏ, cùng với thứ dân trăm họ, người nào có tài năng học thuật, mưu hay hơn đời, cho phép được dâng sớ tâu bày sự việc. Lời nói nào có thể chọn dùng được, thì cất nhắc không kể thứ bậc; chỗ nào không dùng được thì gác lại, không vì lời nói sơ suất vu khoát mà bắt tội. Còn người có nghề hay nghiệp giỏi, có thể cống hiến cho đời, thì cho phép các quan văn võ được tiến cử, nhưng vẫn dẫn vào đợi ra mắt, tùy tài lục dụng . Hoặc người nào từ trước đến nay tài năng còn bị che kín, chưa được người đời biết đến, thì cũng cho phép dâng sớ tự tiến cử, chớ hiềm vì mưu lợi mà phải bán rao.

          Này! Trong khoảng trời đất, hiền tài còn ẩn náu, trước đây thì nên như thế. Nay trời trong sáng, đất thanh bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây, những ai có tài đức hãy cùng cố gắng lên, khi tên tại triều đình, cùng nhau cung kính, cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh.

          Vậy bố cáo gần xa để mọi người đều biết.

(Theo Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập II, NXB Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 2004)

Vẽ sơ đồ thể hiện luận điểm, lí lẽ, bằng chứng trong văn bản. Văn bản Chiếu cầu hiền được viết ra để làm gì? Xác định quan điểm của Ngô Thì Nhậm trong bài chiếu.


Câu 9:

Chỉ ra lỗi về mạch lạc trong trường hợp dưới đây và nêu cách sửa:

          Chỉ qua mấy đoạn thơ tiêu biểu trong Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm), Tây Tiến (Quang Dũng), Đất nước (Nguyễn Đình Thi), Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm), ta có thể thấy đất nước hiện lên với nhiều vẻ đẹp sinh động. Trước hết. đó là vẻ đẹp của thiên nhiên. Đó là cảnh vật vùng xuôi với “những cánh đồng thơm mát”, “những ngảy đường bát ngát”, “những dòng sông đỏ nặng phù sa”, đó là những mùi hương “lúa nếp thơm nồng”, “gió thổi mùa thu hương cốm mới” – hương thơm của mùa thu – mùa đẹp nhất trong năm. Đó còn là phong cảnh đặc trưng của miền ngược từ “rừng tre phấp phới” đến những con thuyền “độc mộc” trên cái nền hoang dã, dữ dội của “thác lũ” tương phản với vẻ đẹp mềm mại, uyển chuyển của “hoa đong đưa”. Còn những con người trên đất nước này thì sao?

          Thơ ca còn làm chứng nhân ghi nhận cả những trang quá khứ đau thương và anh hùng ca của lịch sử dân tộc. Đây là thảm trạng do quân cướp nước gây ra:

Ruộng ta khô, nhà ta cháy

Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

(Bên kia sông Đuống)

Và nỗi đau chia cắt hạnh phúc do chiến tranh vô cùng đau đớn:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi vọng phu

(Mặt đường khát vọng)

Còn đây là dấu tích chiến công cứu nước anh hùng:

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qia còn trăm ao đầm để lại

(Mặt đường khát vọng)

Hay lời nhắn gửi âm thầm nhưng sâu thấm của truyền thống quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về


4.6

123 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%