Danh sách câu hỏi

Có 28,949 câu hỏi trên 579 trang
Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi bên dưới: NĂM HẠT CAM A-thơ Cô-nan Đoi-lo Năm hạt cam được trích từ tuyển tập truyện ngắn Những cuộc phiêu lưu của Sơ-lốc Hôm. Vào một ngày mưa gió, chàng thanh niên 20 tuổi tên là Giôn Ô-pen-sô (John Openshaw) đến gặp thám tử Sơ-lốc Hôm để nhờ điều tra về những tai nạn bí ẩn giáng xuống gia đình mình. Ô-pen-sô kể với Hôm về việc chú E-lai-a (Elias) – vốn là một chủ đồn điền ở Phờ-lo-ri-đa (Florida, Mỹ) đã chuyển sang Xác-xít (Sussex, Anh) sinh sống – nhận được một lá thư gửi từ Pôn-đi-che-ry (Pondichéry, Ấn Độ) với ba chữ K trên bì thư, trong đó có năm hạt cam khô. Chú E-lai-a hốt hoảng, đốt cháy các giấy tờ, chỉ còn lại cái hộp rỗng, bên trong có cái nhãn bằng giấy, in ba chữ K. Bảy tuần sau, chú E-lai-a bị chết trong vườn một cách bí ẩn, cảnh sát kết luận nguyên nhân là do tự tử. Cha Ô-pen-sô tiếp quản đồn điền của chú E-lai-a. Hai năm sau, cha Ô-pen-sô lại nhận được một lá thư có ba chữ K, trong thư có năm hạt cam khô và dòng chữ “Hãy đặt những tờ giấy trên cái đồng hồ mặt trời”; bức thư được gửi từ Dân-đi (Dundee, Xcốt-len). Ba ngày sau, ông được phát hiện đã chết ở gần nhà người bạn. Bồi thẩm kết luận cái chết của ông là do tai nạn. Gần ba năm sau, Ô-pen-sô lại nhận được lá thư đóng đấu bưu điện Luân Đôn (Anh), với năm hạt cam khô, nội dung giống như thư đã gửi cho cha anh. Ô-pen-sô đưa cho thám tử Sơ-lốc Hôm một tờ giấy còn sót lại sau khi bị chú E-lai-a đốt, có nhan đề: “Tháng Ba năm 1869” và những dòng chữ khó hiểu: “Ngày 4: Hút-sân (Hudson) đến. Vẫn sân ga cũ. Ngày 7: Gửi hạt cam cho Mắc Cô-li (McCauley), Pa-ra-mo (Paramore), và Giôn Sơ-quain (John Swain) ở Xanh Ở-gút-xơ-tin (St Augustine). Ngày 9: Đã thanh toán Mắc Cô-li. Ngày 10: Đã thanh toán Giôn Sơ-quain. Ngày 11: Đã đến chỗ Pa-ra-mo. Mọi chuyện đều êm đẹp”. Sơ-lốc Hôm khuyên Ô-pen-sô về nhà ngay trong khi chờ ông tìm thủ phạm, đặt tờ giấy đó vào cái hộp bằng đồng, để trên chiếc đồng hồ mặt trời ở trong vườn, đồng thời đặt vào đó một lá thư ngắn giải thích rằng tất cả những thứ giấy tờ khác đã bị chú anh đốt hết và mảnh giấy này là thứ duy nhất còn sót lại. Dưới đây là phần cuối của câu chuyện. [...] Anh ta bắt tay chúng tôi rồi cáo biệt ra về. Bên ngoài gió vẫn gào rú và mưa vẫn quất ràn rạt vào cửa sổ. Câu chuyện lạ lùng và man rợ này dường như đến với chúng tôi từ giữa con giông gió chẳng khác nào một nhánh rong biển bị cơn bão thổi tới rồi lại bị gió mưa bên ngoài cuốn phăng đi [...] “Oát-sân này, tôi nghĩ rằng”, cuối cùng thì anh cũng lên tiếng, “trong tất cả những vụ án mà chúng ta đã gặp thì không có vụ nào quái dị như câu chuyện này”. “Có lẽ trừ vụ Dấu bộ tứ ra”. “Ừ, phải đấy. Có lẽ ngoại trừ vụ đó. Tuy nhiên, tôi cảm thấy có vẻ như so với cha con thiếu tá Sơn-thô (Sholto) thì anh chàng Giôn Ô-pen-sô này đang phải đối mặt với những mối nguy còn kinh khủng hơn nhiều”. “Nhưng anh đã có nhận định gì cụ thể về những mối nguy hiểm đó chưa?”, tôi hỏi. “Không còn gì phải hoài nghi về bản chất của chúng”, anh đáp. “Vậy những mối hiểm hoạ đó là gì? K.K.K là ai và vì sao hắn ta cứ đeo đuổi gia đình bất hạnh này?”. Sơ-lốc Hôm nhắm mắt lại và đặt hai khuỷu tay lên thành ghế, các đầu ngón tay chụm vào nhau. “Người suy luận giỏi”, anh nhận xét, “thì chỉ cần nhìn thấy một dữ kiện duy nhất trong cả tổng thể là có thể suy luận được không những cả một chuỗi sự kiện dẫn tới dữ liệu đó mà còn thấy được tất cả các diễn biến sẽ xảy ra tiếp theo. Như Cu-vi-ê (Cuvier) có thể mô tả chính xác một con vật khi xem xét một chiếc xương duy nhất, người quan sát một khi đã hiểu rõ một mắt xích trong cả chuỗi các biến cố sẽ chỉ ra được chính xác tất cả những mắt xích còn lại, cả trước lẫn sau. Chúng ta còn chưa nắm bắt được hết những thành quả có thể đạt được chỉ bằng suy luận thuần tuý đâu. Có những vấn đề hóc búa mà nếu cứ chăm chăm dựa vào trực quan để tìm lời giải thì thất bại, song lại có thể giải quyết trong quá trình suy luận. Tuy vậy, để đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật này, nhà suy luận phải tận dụng được tất cả những dữ kiện mà anh ta đã biết; hẳn anh cũng dễ dàng nhận thấy, điều đó đồng nghĩa với việc anh ta phải sở hữu toàn bộ tri thức, ấy vậy mà ngay cả trong thời đại này, với nền giáo dục miễn phí và các pho bách khoa toàn thư, cũng chẳng mấy ai làm được điều này. Nhưng một người muốn sở hữu tất cả những kiến thức khả dĩ cần dùng trong công việc thì không khó đến mức ấy. [...] Còn bây giờ, với vụ án mà vị khách đã trình bày với chúng ta tối nay thì chắc chắn ta phải huy động hết các nguồn thông tin của mình. Xin vui lòng lấy hộ tôi tập có chữ “K” của bộ Mỹ quốc toàn thư, nó nằm trên giá sách cạnh chỗ anh ngồi đấy. Cảm ơn! Giờ thì chúng ta sẽ xem xét tình huống này để xem có thể rút ra được điều gì. Trước hết, ta có thể bắt đầu với một giả định vững chắc rằng đại tá Ô-pen-số rời bỏ nước Mỹ vì một lí do rất quan trọng. Đến tuổi ấy người ta không dễ gì thay đổi mọi thói quen hay sẵn sàng đánh đổi khí hậu tuyệt với ở Phờ-lo-ri-đa để chọn cuộc sống cô đơn tại một thị trấn quê mùa của nước Anh. Từ lúc về Anh ông ta chỉ thích sống hiu quạnh đến độ cực đoan, từ đó có thể suy đoán rằng ông ta sợ ai đó hoặc điều gì đó, vì vậy ta có thể đặt ra một giả định tạm thời rằng chính nỗi sợ hãi ấy đã đẩy ông ta ra khỏi nước Mỹ. Còn ông ta sợ điều gì thì chúng ta chỉ có thể suy luận bằng cách xem xét những bức thư đáng sợ mà ông ta và những người thừa kế đã nhận được. Anh có để ý con dấu bưu điện trên những lá thư đó chứ?”. “Bức thư thứ nhất được gửi đi từ Pôn-đi-che-ry, bức thứ hai thì từ Đân-đi, và bức thứ ba là từ Luân Đôn”. “Từ khu đông Luân Đôn. Anh rút ra điều gì từ đó?”. “Tất cả đều là hải cảng. Người viết thư ở trên một con tàu”. “Xuất sắc. Chúng ta đã có được một manh mối. Có khả năng – một khả năng lớn – rằng người viết ra những bức thư đó ở trên một con tàu. Giờ thì ta xem xét đến một khía cạnh khác. Trong vụ Pôn-đi-che-ry thì khoảng thời gian từ khi nhận được lời đe doạ đến khi nó được thực hiện là bảy tuần, đến vụ Đân-đi thì chỉ còn ba hoặc bốn ngày. Những chi tiết này có gọi lên điều gì không?”. “Phải đi xa hơn”. “Nhưng lá thư cũng phải đi một chặng đường dài hơn”.  “Vậy thì tôi chưa nhìn ra vấn đề”. “Chí ít có thể đặt ra giả định rằng con tàu chở kẻ đó hoặc đám người đó là một thuyền buồm. Có vẻ như chúng luôn gửi đi lời đe doạ hay cái tín vật kì quặc kia trước khi bắt đầu thi hành nhiệm vụ. Anh có nhận thấy là khi được gửi đi từ Dân-đi thì hành động theo sau dấu hiệu nhanh chóng đến mức nào không? Nếu chúng đi từ Pôn-đi-che-ry trên một chiếc tàu thuỷ chạy hơi nước thì chúng đã đến nơi cùng lúc với lá thư rồi. Nhưng thực tế là chúng chậm mất bảy tuần. Tôi cho rằng bảy tuần này là độ chênh lệch về thời gian di chuyển giữa con tàu đưa thư đem lá thư đến và thuyền buồm chở kẻ viết gửi thư”. “Có lẽ vậy”. “Còn hơn thế nữa, khả năng này rất cao. Và giờ thì anh đã thấy mức độ khẩn cấp đáng sợ trong vụ mới này và lí do tại sao tôi thúc giục anh chàng O-pen-sô phải đề phòng rồi đấy. Tai hoạ luôn giáng xuống khi kẻ gửi thư đã vượt qua hết quãng đường. Nhưng lần này thì lá thư được gửi đi ngay từ Luân Đôn, vì thế chúng ta không thể trông cậy vào khoảng thời gian chênh lệch nữa”. “Lạy Chúa!”. Tôi kêu lên. “Cuộc bức hại tàn nhẫn này có thể là vì mục đích gì đây?”. “Những thứ giấy tờ mà đại tá Ô-pen-sô đem đi rõ ràng có tầm quan trọng sống còn đối với một hoặc nhiều người trên chiếc thuyền buồm. Tôi cho rằng cũng khá dễ thấy là thủ phạm không chỉ có một tên. Chỉ một người thì không thể thực hiện được hai vụ giết người một cách khéo léo đến nỗi che mắt được cả ban hội thẩm pháp y. Phải có đến vài tên và chắc chắn bọn chúng là những kẻ giết người rất lão luyện và táo bạo. Chúng muốn chiếm lại bằng được những thứ giấy tờ ấy bất kể là ai đang giữ. Qua đó thì anh có thể thấy K.K.K không phải là chữ viết tắt tên của một cá nhân mà là tên viết tắt của một tổ chức”. “Nhưng đó là tổ chức nào?”. “Chẳng lẽ...” Sơ-lốc Hôm nói, người cúi về phía trước và hạ giọng xuống”... anh chưa bao giờ nghe nói đến Ku Klux Klan?”. “Chưa hề”. Hôm lật những trang giấy trong cuốn sách đang nằm trên đầu gối, “Đây rồi”, anh lập tức đọc lên: Ku Klux Klan. Một cái tên bắt nguồn từ âm thanh phát ra khi lên nòng súng trường. Hội kín nguy hiểm này do một nhóm cựu chiến binh quân Liên minh miền Nam thành lập ở các bang miền Nam sau nội chiến và nhanh chóng hình thành các chi hội địa phương ở những vùng khác, chủ yếu là Ten-nét-si (Tennessee), Lu-i-sa-na (Louisiana), cả hai bang Bắc và Nam Ca-rô-lai (Carolina), Gioóc-giơ (Georgia) và Phờ-lo-ri-đa. Tổ chức này sử dụng quyền lực nhằm đạt được các mục đích chính trị, chủ yếu là khủng bố các cử tri da đen, ám sát và xua đuổi những người chống đối lại các quan điểm của hội ra khỏi lãnh thổ nước Mỹ. Những vụ tấn công của hội này thường bắt đầu bằng một lời đe doạ gửi đến cho nạn nhân dưới một hình thức kì quái nhưng những vùng khác thì là vài hạt dưa hoặc hạt cam. Khi nhận được lời đe doạ này, nạn nhân có thể tuyên bố từ bỏ đường lối của mình hoặc đào thoát khỏi đất nước. Nếu anh ta bất chấp lời cảnh cáo thì chắc chắn cái chết sẽ giáng xuống, và thường được thực hiện bằng một cách thức kì lạ và bất ngờ. Hội này được tổ chức rất hoàn hảo và phương thức hoạt động rất có hệ thống cho nên hầu như không ghi nhận được trường hợp nào dám không đếm xỉa đến lời cảnh cáo mà thoát được sự trừng phạt hoặc có vụ tấn công nào truy tìm được thủ phạm. Tổ chức này phát triển mạnh mẽ trong vài năm, bất chấp nỗ lực của chính phủ Mỹ và các tầng lớp tiến bộ trong cộng đồng dân cư miền Nam. Cuối cùng, phong trào đột nhiên sụp đổ vào năm 1869 dù sau đó hãy còn bùng phát vài vụ lẻ tẻ có cùng tính chất. “Anh sẽ thấy rằng”, Hôm nói khi đặt cuốn sách xuống, “sự tan vỡ bất ngờ của tổ chức này trùng hợp với thời điểm O-pen-sô biến mất khỏi nước Mỹ cùng với những tài liệu của chúng. Rất có thể đây là nguyên nhân và cũng là hậu quả. Cũng chẳng có gì lạ khi ông ta cùng với gia đình cứ bị những bóng ma kiên trì theo đuổi dấu vết. Anh có thể hiểu rằng cuốn sổ và quyển nhật kí này có thể chỉ ra những thành viên đầu tiên ở miền Nam và sẽ có nhiều người không thể ăn ngon ngủ yên chừng nào những ghi chép đó còn chưa được thu hồi”. “Vậy tờ giấy mà chúng ta nhìn thấy...”. “Nhiều khả năng nó đúng như những gì ta nghĩ. Nội dung của nó thế này, nếu như tôi còn nhớ chính xác: “Đã gửi hạt cam đến A, B và C”, nghĩa là đã gửi thông điệp cảnh báo của tổ chức đến những đối tượng này. Rồi sau đó những dòng kế tiếp là A và B đã bị thanh toán hoặc bỏ trốn khỏi đất nước, cuối cùng là C đã được ghé thăm và tôi e rằng C đã có một kết cục khủng khiếp. Bác sĩ à, tôi nghĩ rằng ta có thể soi rọi đôi chút ánh sáng vào vùng tối này và tôi tin rằng cơ hội duy nhất mà chàng trai Ô-pen-sô có được ngay lúc này là làm theo những gì tôi căn dặn. Tối nay thì chẳng còn gì để nói hay làm nữa, anh hãy lấy hộ tôi cây vĩ cầm và trong độ nửa giờ chúng ta hãy cố gắng quên đi cái thời tiết tệ hại này và những hành động còn tệ hại hơn của đồng loại chúng ta”. Sáng hôm sau, bầu trời đã trở nên trong trẻo và mặt trời toả ra một làn ánh sáng dịu dàng xuyên qua bức màn che lờ mờ đang bao phủ thành phố rộng lớn này. Sơ-lốc Hôm đã sẵn sàng cho bữa điểm tâm khi tôi đi xuống. “Mong anh thứ lỗi vì tôi đã không đợi”, anh nói, “tôi dự kiến là mình sẽ có một ngày bận rộn khi phải xem xét trường hợp của chàng trai Ô-pen-số”. “Anh sẽ áp dụng những biện pháp nào?”, tôi hỏi. “Điều này phụ thuộc rất nhiều vào các kết quả điều tra ban đầu của tôi. Có thể là rốt cuộc tôi vẫn phải đi xuống Hóp-sâm (Horsham)”. “Anh không định đến đó trước tiên sao?”. “Không, tôi sẽ bắt đầu ngay tại khu Xi-ti (City). Anh chỉ việc rung chuông và cô hầu gái sẽ đem cà phê lên cho anh”. Trong khi chờ đợi, tôi cầm tờ báo hãy còn chưa mở để trên bàn lên và liếc mắt nhìn sơ qua. Mắt tôi dừng lại ở một dòng tít' khiến tim tôi lạnh buốt. “Hôm”, tôi kêu lên, “anh đã trễ quá rồi”. “A!” anh thốt lên và đặt cái tách xuống, “tôi đã lo ngại về điều này. Chuyện xảy ra như thế nào?”. Anh điềm tĩnh nói, nhưng tôi có thể thấy anh đang xúc động mạnh. Cái tên Ô-pen-sô và dòng tít Thảm kịch gần cầu Qua-to-lu (Waterloo) đập vào mắt tôi. Đây, nội dung của nó như thế này: Khoảng 9 đến 10 giờ tối qua, trong lúc thi hành nhiệm vụ gần cầu Qua-to-lu, viên cảnh binh Cúc (Cook) thuộc phân khu H đã nghe thấy một tiếng kêu cứu và tiếng nước bắn tung lên. Tuy nhiên, do trời tối đen như mực lại thêm mưa bão nên dù được một số khách qua đường giúp đỡ, việc cứu nguy vẫn không thể thực hiện được. Dù sao thì đã có báo động và nhờ sự hỗ trợ của cảnh sát đường sông, cuối cùng thi thể cũng được tìm thấy. Đó là xác của một thanh niên, tên của nạn nhân được ghi trên một phong bì tìm thấy trong túi áo của anh ta là Giôn Ô-pen-sô, nhà ở gần Hóp-sâm. Người ta đoán rằng có lẽ do vội vã nhằm bắt kịp chuyến tàu cuối cùng ở ga Qua-to-lu, lại thêm bóng đêm mịt mùng nên anh ta đã đi lạc đường và bước hụt chân ra ngoài mép của một bến đậu nhỏ dành cho tàu thuỷ đường sông. Không thấy dấu vết bạo lực nào trên thi thể nạn nhân, rõ ràng anh ta là nạn nhân của một tai nạn không may, điều này gióng lên lời kêu gọi chính quyền chú ý đến tình trạng của các bến tàu ven sông. Chúng tôi ngồi lặng yên mất một lúc, tôi chưa bao giờ thấy Hôm buồn phiền và sửng sốt như lúc này. “Lòng kiêu hãnh của tôi đã bị tổn thương, Oát-sân ạ”, cuối cùng anh cũng thốt lên. “Chắc chắn đây chỉ là một con xúc động nhỏ thôi, nhưng nó đã xúc phạm đến lòng kiêu hãnh của tôi. Đối với tôi thì câu chuyện này đã trở thành vấn đề cá nhân, và nếu Chúa ban cho tôi sức khoẻ thì tôi sẽ không để yên cho cái băng đảng này. Anh ta đi đến tìm tôi để được giúp đỡ, vậy mà tôi lại bảo anh ấy cứ về đi và khiến anh ta sa vào chỗ chết...”. Anh bật dậy khỏi ghế và bước tới lui khắp phòng trong con kích động không kìm nén được, màu đỏ bừng tràn lên hai gò má tai tái của anh và những ngón tay dài nhẳng cứ siết chặt vào nhau rồi lại buông ra lộ vẻ bồn chồn. “Chúng hẳn là một lũ quỷ sứ xảo quyệt”, sau cùng thì anh thốt lên. “Làm thế nào mà chúng dụ dỗ được anh ta đi xuống đó? Con đê đâu có nằm trên đường dẫn đến nhà ga. Chắc chắn chúng sẽ không thực hiện được mục đích khi ở trên cầu vì ở đó quá đông người cho dù là trong một đêm mưa bão như thế. Được, Oát-sân này, chúng ta sẽ thấy cuối cùng thì ai mới là người thắng cuộc. Tôi đi ra ngoài đây!”. “Anh đến đồn cảnh sát à?”. “Không, tôi sẽ tự làm cảnh sát. Khi tôi đã giăng lưới xong xuôi thì họ cứ việc bắt lấy đám ruồi, nhưng trước đấy thì không được”. Suốt cả ngày hôm đó, tôi bận rộn với công việc của mình và khi quay về phố Bây-khơ (Baker) thì trời đã tối khuya. So-lốc Hôm vẫn chưa về. Đến lúc đồng hồ chỉ gần 10 giờ anh mới bước vào, mặt mũi tái nhợt vì mệt mỏi. Anh bước lại gần tủ buýp phê, véo một mẩu bánh mì rồi ăn ngấu nghiến, sau đó uống một ngụm nước lớn. “Anh có vẻ đói”, tôi nhận xét. “Đói gần chết. Tôi quên cả ăn. Chẳng có chút gì vào bụng từ bữa điểm tâm đến giờ”. “Không một chút gì sao?”. “Không hề. Tôi không có thì giờ để nghĩ đến chuyện ăn uống”. “Thành công chứ?”. “Tốt đẹp”. “Anh đã tìm ra manh mối?”. “Tôi đã nắm được chúng trong lòng bàn tay. Chàng trai trẻ Ô-pen-sô sẽ sớm được báo thù. Nào, Oát-sân, chúng ta hãy gắn chính cái dấu hiệu ma quỷ của chúng lên đầu chúng. Quả là ý hay!”. “Ý anh là gì?”. Anh lấy ra một quả cam trong tủ, bóc ra rồi vắt cho những hạt cam rơi lên mặt bàn. Anh nhặt ra năm hạt và nhét chúng vào một cái phong bì. Bên trong mép phong bì anh viết “S.H. gửi J.C.”. Rồi anh dán kín phong bì lại và ghi địa chỉ là: “Gửi thuyền trưởng Giêm Ca-hun (James Calhoun), tàu ba buồm Ngôi sao cô đơn, Sơ-ven-nơ (Savannah), Gioóc-giơ”. “Lá thư này sẽ đợi sẵn khi tàu của hắn cập cảng”, anh vừa nói vừa cười lặng lẽ. “Có thể hắn sẽ được một đêm thức trắng. Chắc chắn hắn sẽ coi nó là điềm báo tử cho chính mình như Ô-pen-sô đã từng cảm nhận”. “Thuyền trưởng Ka-hun là ai vậy?”.  “Trùm của băng đảng đó. Tôi sẽ lần đến những tên khác nữa, nhưng hắn là kẻ mở đầu”. “Làm thế nào mà anh tìm ra chúng?”. Anh lấy từ trong túi ra một tờ giấy cỡ lớn ghi chép đầy những ngày tháng và tên người. “Tôi đã bỏ ra cả ngày trời”, anh kể, “bên đống sổ sách và hồ sơ cũ của Loi-đơ (Lloyd), theo dõi hành trình của từng con tàu cập bến ở Pôn-đi-che-ry vào tháng Một và tháng Hai năm 1883. Theo báo cáo, có ba mươi sáu chiếc có trọng tải khá lớn đã đến đó vào thời gian này. Trong số này, có một chiếc, ngay lập tức thu hút sự chú ý của tôi là tàu Ngôi sao cô đơn, mặc dù nó được báo cáo là rời bến ở Luân Đôn song cái tên đó lại là biệt danh của một tiểu bang ở Mỹ”. “Tôi cho là Tếch-dát (Texas)”. “Bang nào thì tôi không chắc, nhưng tôi biết rằng con tàu đó phải có xuất xứ từ Mỹ”. “Rồi sao nữa?”. “Tôi lại tìm trong các hồ sơ về cảng Đân-đi và khi nhận thấy là tàu Ngôi sao cô đơn có cập cảng đó vào tháng Một năm 1885, mối nghi ngờ của tôi đã được khẳng định, tiếp theo tôi lại hỏi thăm về những con tàu đang đậu tại cảng Luân Đôn”. “Rồi thì?”. “Chiếc Ngôi sao cô đơn đã đến đây tuần vừa rồi. Tôi đi xuống ụ tàu Ao-bớt (Albert) và phát hiện nó đã ra sông theo con nước lúc sáng sớm nay để trở về So-ven-nơ. Tôi đánh điện đến Gơ-rây-vo-gien (Gravesend) và được biết con tàu đã đi ngang qua đó được một lúc, vì gió đang thổi từ hướng đông nên tôi đoán chắc là nó đã qua khỏi Gút-quin (Goodwins) và hiện giờ thì đang ở cách đảo Quai-tơ (Wight) không bao xa”. “Tiếp theo anh sẽ làm gì?”. “Ồ, tôi đã nắm được hắn. Theo như tôi biết, trên tàu chỉ có hắn ta và hai thuyền phó là người Mỹ duy nhất trên tàu. Còn lại là người Phần Lan và người Đức. Tôi còn biết được là cả ba tên đã rời tàu vào đêm qua. Tôi nắm được thông tin đó từ người công nhân khuân vác đã chất hàng lên tàu của chúng. Khi con tàu đó cập cảng Sơ-ven-nơ thì tàu đưa thư đã đem cái phong bì đến nơi rồi và bức điện tín xuyên đại dương cũng đã thông báo cho cảnh sát ở So-ven-nơ biết rằng ba quý ông này là những kẻ đang bị truy nã khẩn cấp vì bị cáo buộc về tội giết người”. Tuy nhiên, con người tính toán có kĩ càng đến đâu thì vẫn luôn có sơ hở, và những tên sát nhân trong vụ Giôn Ô-pen-sô chẳng bao giờ nhận được những hạt cam để thấy được rằng có một người cũng không kém phần mưu lược và kiên quyết đang bám theo chúng. Những trận bão thu phân năm đó thật dai dẳng và khốc liệt. Chúng tôi cứ chờ đợi tin tức của con tàu Ngôi sao cô đơn từ cảng Sơ-ven-nơ nhưng mãi chẳng nhận được gì. Mãi sau này chúng tôi mới hay tin là ở đâu đó trên Đại Tây Dương, người ta phát hiện thấy một mảnh sống đuôi tàu bị gãy trôi bập bềnh giữa những đợt sóng, bên trên có khắc mấy chữ viết tắt L.S. Bấy nhiêu đó là tất cả những gì chúng tôi biết được về số phận của con tàu Ngôi sao cô đơn. (In trong Sơ-lốc Hôm toàn tập, tập một, Đăng Thư – Lê Quang Toản – Thiên Nga dịch, NXB Văn học – Đông A, 2021) a. Nêu nội dung bao quát của văn bản. b. Tìm các chi tiết thể hiện manh mối quan trọng của vụ án, phân tích ý nghĩa của các chi tiết đó trong quá trình khám phá vụ án của thám tử Sơ-lốc Hôm. c. Nhân vật Sơ-lốc Hôm thể hiện những đặc điểm gì của nhân vật chính trong truyện trinh thám? Làm rõ ý kiến của em bằng những chi tiết trong văn bản. d. Câu chuyện được kể lại bằng lời của ai? Nhận xét về việc sử dụng lời kể của nhận vật này đối với nội dung câu chuyện. đ. Dựa vào bảng sau, em hãy làm rõ mối quan hệ giữa các chi tiết tiêu biểu, nhân vật chính, chủ đề của văn bản (làm vào vở): Chi tiết tiêu biểu Nhân vật Sơ-lốc Hôm Chủ đề …. …. …. Nhận xét về mối quan hệ giữa các yếu tố trên: …. e. Xác định đâu là lời người kể chuyện, đâu là lời nhân vật trong phần văn bản sau: Chúng tôi ngồi lặng yên mất một lúc, tôi chưa bao giờ thấy Hôm buồn phiền và sửng sốt như lúc này. “Lòng kiêu hãnh của tôi đã bị tổn thương, Oát-sân ạ”, cuối cùng anh cũng thốt lên. g. Em có thích cách kết thúc của truyện này hay không? Hãy trao đổi ý kiến với các bạn trong nhóm và cho biết vì sao khi đọc truyện, người đọc lại có những ý kiến khác nhau về truyện đó.
Để thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tác giả đã chú thích nguồn các phương tiện phi ngôn ngữ như thế nào trong các trường hợp sau? a. Ví con sông như một ngân hàng cát, chuyên gia lí giải nguồn thu đầu vào là lượng cát lắng đọng hàng nghìn năm dưới đáy sông (trầm tích) và phù sa đổ về từ thượng nguồn (khoảng 15% là cát). Đây gọi là trữ lượng hiện có. Khoản chi thường xuyên của ngân hàng này, thường rất nhỏ, là lượng cát bị dòng chảy đẩy ra cửa biển, lắng đọng thành các đụn cát dọc bờ, tạo nên “bức tường” chắn sóng ngầm bảo vệ bờ biển và rừng ngập mặn. Phần lớn lượng cát còn lại được con người khai thác để đầu tư phát triển, bởi đây là nguồn nguyên liệu tốt nhất cho xây dựng. Khi tài khoản nhà băng này dương hoặc bằng 0, tức thu lớn hơn hoặc bằng chi, ngân hàng đạt trạng thái cân bằng, cho thấy việc khai thác cát bền vững. Ngược lại, lòng sông “rỗng bụng”, tức ngân hàng thiếu sẽ tạo ra nhiều hố sâu gây sạt lở. [...] Theo chuyên gia, việc đo cát di chuyển dưới lòng sông (gồm bùn cát đáy, cát lợ lửng và phù sa) là “cực kì khổ”, đòi hỏi kĩ thuật rất cao và nguồn lực tài chính lớn, “quá tầm” địa phương. Thế giới có hàng trăm công thức, kinh nghiệm tính toán khác nhau và không có mẫu số chung cho tất cả. Mỗi con sông có cách tính riêng. Công cụ ngân hàng cát WWF – Việt Nam đang xây dựng nhằm quản lí tài nguyên bền vững (Đồ hoạ: WWF, Đăng Hiếu) Để giải quyết bài toán trên, Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam (WWF – Việt Nam) đang phát triển một công cụ quản lí cát tại Đồng bằng sông Cửu Long từ ý tưởng “ngân hàng cát”, lần đầu tiên thử nghiệm trên thế giới. (Ngọc Tài, Hoàng Nam, Thu Hằng, Trả nợ dòng Mê Kông, https://vnexpress.net/ tra-no-dong-mekong-4641735.html, truy cập ngày 17/8/2023) b. Trong số này, có hai mang khuôn khắc minh văn (chữ Hán), có một mặt ngoài được mài nhẵn, rìa cạnh khắc chữ. Do mang khuôn không còn nguyên vẹn nên chỉ còn hai chữ, trong đó có một chữ còn rõ là “Thần”, viết là 臣, tạm dịch là “Quan”. Chữ còn lại không rõ nghĩa, có mặt ngoài được mài nhẵn, trên có chữ “Nhân”, viết là “人”, tạm dịch là “Người”.
VĂN BẢN HÃY CỨU LẤY CÁC DÒNG SỐNG! Theo Văn Tuấn Nước ta được thiên nhiên ưu đãi khi có một hệ thống sông ngòi dày đặc. Điều ấy đóng góp một phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống sông ngòi Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại và ô nhiễm nặng nề. Đề cập đến vấn đề này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần có cuộc trò chuyện với Tiến sĩ Đào Trọng Tứ, Giám đốc Trung tâm Tư vấn phát triển bền vững tài nguyên nước và Thích nghi biến đổi khí hậu (CEWAREC). Môi trường nước ở một số dòng sông đang bị xâm hại Phóng viên: Nguồn nước là tài sản quốc gia, luôn cần được bảo vệ. Thế nhưng, trong vài thập niên trở lại đây, sông ngòi nước ta đang bị đối xử tàn tệ. Vì lợi nhuận, con người đã phớt lờ những cảnh báo tác hại của việc huỷ hoại môi trường nước, xâm hại những dòng sông. Ông có thể khái quát về điều đó được không? Tiến sĩ Đào Trọng Tứ: Việt Nam ở vùng nhiệt đới gió mùa nên được thiên nhiên ưu đãi, có hệ thống sông ngòi dày đặc. Điều đó rất thuận lợi để phát triển các khu dân cư và nông nghiệp. Hiện nay, ở Việt Nam có hơn 3.000 con sông. Hằng năm, lưu lượng nước chảy qua hệ thống sông ngòi đổ ra biển ở nước ta khoảng 830 – 840 tỉ mét khối, tuỳ thời tiết mỗi năm. [...] Tuy nhiên, nguồn nước ở Việt Nam có một đặc điểm là phụ thuộc rất lớn nguồn nước từ nước ngoài (63% nước chảy từ nước ngoài vào). Sông Hồng có 39% nước từ Trung Quốc, 1% từ Lào. Đồng bằng sông Cửu Long của chúng ta chỉ có 5% lượng nước, 95% nước chảy về từ thượng nguồn, Trung Quốc, Myanmar, Lào, Campuchia, 6% từ Tây Nguyên (nhưng chảy qua Lào, Campuchia trước rồi mới chảy về Việt Nam). Đó là bức tranh khái quát về nguồn nước ở Việt Nam. Tuy nhiên, đến bây giờ chúng ta mới trăn trở về câu chuyện sông ngòi ở Việt Nam. Tại sao vậy? Sau những năm 90 của thế kỉ trước, khi chúng ta chú trọng phát triển kinh tế thì bắt đầu cần năng lượng. Nguồn năng lượng dễ chịu nhất, phát triển nhanh nhất là thuỷ điện. [...] Theo kết quả do VRN mới công bố, hệ thống Sông Hồng – Thái Bình, Sông Mã, Sông Cả, Sông Hương, Sông Ba, sông Vu Gia – Thu Bồn, sông Sêrêpôk, sông Sê San, sông Mê Kông đang có hàng ngàn đập và đập thuỷ điện lớn, nhỏ. Tốc độ phát triển thuỷ điện ồ ạt như vậy chắc chắn tác động mạnh mẽ đến hệ sinh thái. Người ta gọi đó là việc chinh phục dòng sông, nhưng theo tôi, cách gọi như vậy rất sai. Sau khi đi thực tế, tìm hiểu, tôi nghĩ rằng, các dòng sông là tài nguyên, vật thể nuôi sống cả quốc gia thì không thể gọi quá trình tác động đến các con sông là chinh phục các dòng sông. Chúng ta phát triển nên phải đánh đổi tài nguyên nước để lấy cái lợi lớn hơn, và ở góc độ nào đó chúng ta chấp nhận thiệt hại. Đấy là hình thức xâm hại tài nguyên thiên nhiên. Những năm 2012 – 2013, VRN trình bày với Quốc hội rằng, việc phát triển thuỷ điện một cách ồ ạt như vậy là không ổn. Nó gây tác động lớn đến môi trường sống, tàn phá rừng, nguyên nhân chính dẫn đến việc di dân,... Năm 2013, Quốc hội đã ra nghị quyết, tạm dừng và đưa ra khỏi quy hoạch 483 thuỷ điện. [1] Việc xâm hại sông ngòi ở Hà Nội là một điển hình. Các dòng sống ở xung quanh Thủ đô bị lấn chiếm, xâm hại nghiêm trọng. [...] Tương tự, đi vào miền Trung, miền Nam, vấn đề xâm hại hành lang thoát lũ là đáng báo động. Tôi có thể khẳng định, 100% các dòng sông của Việt Nam ở mức độ khác nhau đều bị xâm hại... Con sông liên tỉnh là tài sản chung của quốc gia, không ai có quyền đổ đất xuống sông để lấn chiếm. [...] Chúng ta không coi dòng sông là mạch máu, cư xử với ng một cách cưỡng bức thì cơ thể quốc gia sẽ được nhận lại như vậy. Những người quản lí dòng sông dường như chưa ý thức được sông ngòi là tài sản quý báu của quốc gia, mà đã là tài sản quốc gia thì cần phải được quản lí theo luật. Nguyên nhân và hậu quả của việc các dòng sông bị xâm hại Phóng viên: Theo ước tính của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2010, hằng ngày, các con sông nước ta phải tiếp nhận 1,1 triệu mét khối nước thải công nghiệp, đến năm 2020, con số này khả năng sẽ tăng lên 2,4 triệu mét khối. Nếu tình trạng xâm hại các dòng sông không được ngăn chặn và đẩy lùi thì các con sông sẽ bị chết dần chết mòn vì ô nhiễm. Khi đó, con người sẽ phải chịu luật “nhân quả” của thiên nhiên. Theo ông, “quả báo” của tình trạng xâm hại các dòng sông sẽ như thế nào? Tiến sĩ Đào Trọng Tứ: Tất cả là do vấn đề xâm hại từ thượng nguồn. Sự xâm hại ở khía cạnh xâm lấn sẽ làm thay đổi dòng chảy của các dòng sông. Về vấn đề xói lở, chúng ta đã thấy rõ nhiều làng mạc biến mất rất nhanh, trước đây ở Vĩnh Phúc, Phú Thọ, hiện tại là ở Đồng bằng sông Cửu Long chúng ta thấy rất rõ. Câu chuyện sạt lở bờ sông ở Đồng bằng sông Cửu Long chính là vì chúng ta không có quy hoạch tốt, không có quy hoạch tử tế. Người dân ở đó áp sát các dòng sông. Hiện nay, dòng chảy Sông Hồng ở Hà Nội bị biến đổi khủng khiếp, có chỗ sâu xuống 8 mét. Hình dung như vậy để thấy rằng, nước ở trên chảy xuống bao nhiêu thì tụt xuống “hũm” ấy bấy nhiêu, lấy đâu ra nước để qua các cống, chảy vào các dòng sông ở nội thành? Chính vì vậy, đã có ý kiến xây đập ở Hà Nội để nâng mực nước lên. Với tôi, đó là điều kinh khủng, tác động ghê gớm về mặt môi trường. Câu chuyện xâm hại thứ hai là khai thác cát, cả trái phép và có phép. [...] Đó là loại xâm hại dễ nhìn thấy. Một loại xâm hại nữa là các tác động gây ra ô nhiễm cho các dòng sông. Ô nhiễm từ đô thị, khu công nghiệp và nông nghiệp dẫn đến nguồn nước bị thoái hoá và cạn kiệt. Bộ Tài nguyên và Môi trường phải thốt lên, hiện nay ở Hà Nội có sáu con sông đã chết và đang “chết dần, chết mòn”, đó là: Sông Lừ, Sống Sét, sống Kim Ngưu, sông Tô Lịch; hai con sông lớn trong tình trạng “sống dở, chết dở” là Sông Đáy và Sông Nhuệ. Hãy nhìn xem, những mạch máu sống đó của chúng ta đang bị huỷ hoại. Thử hỏi có ai dám dùng nước từ các con sông đó khi chúng đều đã trở thành sông nước thải. Nguồn nước ô nhiễm không dùng được là hỏng, là nước chết. Tất cả sự xâm hại ấy đều tác động rất lớn đến cuộc sống của chúng ta. Dần dần chúng ta sẽ mất cuộc sống bình yên. [2] [...] Một số biện pháp giải cứu các dòng sông Phóng viên: Vấn đề cấp thiết hiện nay là phải giải cứu, trả lại sự trong sạch cho những dòng sông. Đó cũng là một trong những điều kiện bảo đảm cho cuộc sống tốt đẹp hơn trong tương lai. Để thực hiện điều đó, theo ông, chúng ta cần có giải pháp gì? Tiến sĩ Đào Trọng Tử: Tại Diễn đàn Nước thế giới (WWF) được tổ chức lần thứ bảy ở Hàn Quốc, cơ quan quản lí nước của Pháp đã đưa ra thông điệp “Hãy trả lại cho các dòng sông không gian sống” để chúng có thể giúp chúng ta ngăn ngừa biến đổi khí hậu và thiên tai. Ngoài ra, diễn đàn cũng kiến nghị trả lại vùng đất ướt, không gian ngập nước tự nhiên. Tuy mới chỉ dừng lại ở mức độ lí thuyết nhưng có thể thấy, trên thế giới, người ta đang nhận thức vấn đề bảo vệ các dòng sông và nguồn nước trở nên rất bức thiết. Trở lại vấn đề giải cứu các dòng sông của nước ta. Chúng ta đã có Luật Tài nguyên nước năm 2012, đã có Nghị định quản lí lưu vực sông năm 2008 và thành lập Uỷ ban Quản lí các lưu vực sông. Để quản lí tốt các dòng sông thì không nên chia cắt các dòng sông theo địa giới tỉnh mà phải quản lí thống nhất. Chúng ta cần một cơ quan quản lí có nhiệm vụ điều phối các dòng sông. Chính vì vậy, vấn đề trước tiên là thành lập cơ quan quản lí tài nguyên nước trên các lưu vực sông. Điều này Nhà nước hiện nay đang làm, sắp tới sẽ thành lập sáu tổ chức quản lí nước trên lưu vực các sông. Đây là biện pháp rất cần về thể chế. Câu chuyện thứ hai là phải thực thi tích cực, triệt để đối với vấn đề ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, làng nghề. Thứ nhất, vấn đề xả thải không được tác động đến nguồn nước, phải có biện pháp xử phạt mạnh tay, quyết liệt đối với các trường hợp cố ý, tái phạm nhiều lần. Việc tái sử dụng nước rất có lợi cho cơ sở sản xuất, giảm lượng nước thải cho các dòng sông. […] Thứ hai là phải hoàn nguyên, phục hồi các dòng sông đã bị ô nhiễm. Nhưng câu hỏi đặt ra là ai làm được như vậy, ai thực thi câu chuyện đó. Vấn đề giải cứu các dòng sông chúng ta phải nhìn nhận từ góc độ quản lí vì đó là tài sản vô giá của quốc gia. Phát triển là cần thiết nhưng không thể đánh đổi bằng mọi giá, phải có biện pháp khắc phục, hạn chế thiệt hại. Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!  (Nguồn: https://tddvn/phong van trao doi thay của hay các dòng song-521625, truy cập ngày 8/3/2023) [1] Theo dõi Theo Tiến sĩ Đào Trọng Tứ, vì sao không thể gọi quá trình tác động đến các con sông là chinh phục các dòng sông? [2] Suy luận Việc tác giả xem những dòng sông là mạch máu sống của cơ thể quốc gia đã cho thấy điều gì? Xác định kiểu bố cục của văn bản. Nhận xét mức độ phù hợp giữa nhan đề với nội dung của văn bản. Đề xuất một nhan đề khác cho văn bản và lí giải cơ sở đề xuất của bạn.
Đọc đoạn trích sau và thực hiện những yêu cầu bên dưới: Không có gì bất thường vào chiều ngày 05/12/2022, cho đến khi ông Võ Minh Thảo (48 tuổi, Vĩnh Long) thấy mực nước mương dâng cao dồn dập. Ông vội vã lao về nhà. Vừa chạy, ông vừa gọi người nhờ kê cao đồ đạc lên cho khỏi ngập. Lúc đó, ông chỉ nghĩ nước dâng cao sẽ tràn vô nhà như lũ cuốn. Ông đã lầm. Đặt chân đến nhà, ông thấy mảnh vườn trước của biến mất, bỏ lại căn nhà chơi vơi ngay mé sông. Đất liên tục sạt xuống, khoét sâu vào bờ hàng trăm mét. [...] Hơn 10 phút sau, lở đã đuổi đến chân nhà. Đất rơi, tường nứt, mái tôn vặn vẹo. Chưa tới một giờ từ lúc thấy con đề võ, căn nhà cấp bốn cùng hơn 1.000 chậu lan và vườn cây ăn trái 9 công đất của gia đình đã nằm sâu dưới lòng sông. Gia tài dành dụm từ đời cha phút chốc bị nhấn chìm. Điều duy nhất khiến ông nhẹ lòng là mẹ và các con không ở nhà khi đó. Mất của, nhưng cả gia đình nguyên vẹn. Từ trên cao, bãi bồi như “lát bánh mì” bị dòng sông đang “đói” ngoạm mất một mảng lớn. Hôm đó, cù lao An Bình sạt lở hơn 41 500 m3, khiến 30 hộ dân rơi vào cảnh mất nhà, tài sản, thiệt hại lên đến 35 tỉ đồng. Sạt lở bất thường không phải chuyện của riêng tỉnh Vĩnh Long, mà là nỗi đau chung của hàng triệu dân miền Tây từ hai thập kỉ nay. Tình trạng sạt lở bờ sông tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đang ở mức báo động với 585 điểm, dài trên 741 km. Trong đó, 87 điểm với 135 km thuộc nhóm đặc biệt nguy hiểm - ảnh hưởng trực tiếp đến khu dân cư, hạ tầng quan trọng dù được bảo vệ bởi đê. Còn lại là sạt lở nguy hiểm (L55 điểm 306 km) và bình thường (343 điểm 300 km), Sạt lở bờ sông, kênh, rạch tập trung ở các tỉnh dầu nguồn như An Giang, Đồng Tháp, và các khu vực chuyển tiếp giữa vùng chịu ảnh hưởng của triều và thượng nguồn như Cần Thơ, Tiền Giang, Vinh Long, đến ven biển như Cà Mau, Sóc Trăng. Theo các chuyên gia, từ năm 1992 đến nay, sạt lở thoát ra khỏi quy luật tự nhiên và ngày càng tăng cấp. (Theo Hoàng Nam, Thu Hằng, Hoàng Khánh, Thanh Hạ, Dòng Mê Kông “giận dữ”) a. Nếu thông tin cơ bản của đoạn trích. b. Chỉ ra dữ liệu và ý kiến của người viết trong đoạn trích. c. Xác định dữ liệu trong đoạn trích trên là dữ liệu sơ cấp hay dữ liệu thứ cấp, Phân tích tác dụng của việc sử dụng những dữ liệu ấy, d. Tìm và phân tích tác dụng của (những) biện pháp tu từ được sử dụng trong cấu văn: Từ trên cao, bãi bởi như “lát bánh mì” bị dòng sông dang “đói” ngoạm mất một mảng lớn.
Phân tích biện pháp tu từ nói mỉa trong các trường hợp sau và nếu tác dụng của biện pháp này: a. Và đó cũng là lần đầu tiên trong đời mình, hai con mắt của ông Va-ren được thấy hiển hiện cái huyền diệu của một thành phố Đông Dương, dưới lòng đường, trên vỉa hè, trong cửa tiệm. Những cu-li xe kéo xe tay phóng cật lực, đôi bàn chân dẫm đất lạch bạch trên mặt đường nóng bỏng; những quả dưa hấu bổ phanh đỏ lòm lòm; những xâu lạp xường lủng lẳng dưới mái hiện các hiệu cơm; cái rốn một chú khách trưng ra giữa trời; một viên quan uể oải bước qua, tay phe phẩy cái quạt, ngực đeo tấm Bắc Đẩu bội tinh hình chữ thập. Thật là lộn xộn! Thật là nhốn nháo! (Nguyễn Ái Quốc, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu) b. Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ cũng chẳng nhận ra được khách thật của mình nữa, và để chắc chắn khỏi thất thổ trong nhiệm vụ tiếp tân, Chính phủ bèn đối đãi với tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá tuốt! Đó là những người phục vụ thầm kín, rụt rè, vô tư và hết sức tận tuỵ. Các vị chẳng nề hà chút công sức nào để bảo vệ bọn tôi, và giá cô được trông thấy các vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác bà mẹ hiền rình con thơ chập chững bước đi thứ nhất, thì hẳn cô phải phát ghen lên được về nỗi niềm âu yếm của các vị đối với tôi. Có thể nói là các vị bám lấy để giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng. Và thật tình là các vị cuống cuồng cả lên nếu mất hút tôi chỉ trong dăm phút? Cô thử nghĩ, làm sao mà không xúc động sâu xa được, khi được đối đãi như thế? (Nguyễn Ái Quốc, Vi hành)
VĂN BẢN 3 Đọc văn bản Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 19/12/1946 và thực hiện các yêu cầu bên dưới. LỜI KÊU GỌI TOÀN CUỐC KHÁNG CHIẾN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH NGÀY 19/12/1946 Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta. Việt Nam độc lập và thống nhất muốn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm! Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946 Hồ Chí Minh (In trong Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995) Xác định mục đích, đối tượng mà tác giả hướng đến và hoàn cảnh khi viết lời kêu gọi trên đây. Cho biết mục đích, đối tượng, hoàn cảnh đó đã tác động như thế nào đến nội dung của văn bản và cách viết của tác giả.