Danh sách câu hỏi
Có 28,949 câu hỏi trên 579 trang
Đọc ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
HIỂN LÂM CÁC
Theo Lê Đinh Phúc
Hiển Lâm Các (Ảnh: Shutterstock)
Có nhà nghiên cứu mĩ thuật Việt Nam cho rằng “Trong Đại nội, nổi bật nhất là Hiển Lâm Các, một công trình kiến trúc đẹp, gồm ba tầng, mười hai mái”. Đó là công trình kiến trúc thuộc quần thể di tích Cố đô Huế, nằm trong khu vực các miếu thờ.
Hiển Lâm Các được xây dựng cùng một lần với Thế Miếu (1821 – 1822) – thời vua Minh Mạng.
Hiển Lâm Các được xây dựng ngay phía trước Thế Miếu, trên khối nền cao hình chữ nhật, lát gạch Bát Tràng, xây bó bằng gạch vồ, vôi vữa và đắp nổi mảnh sành để trang trí. Từ dưới bước lên mặt nền bằng hai hệ thống bậc đá thanh ở trước và sau, mỗi hệ thống có chín bậc. Hai bên thành bậc được đắp hình rồng, lối đi ở giữa chỉ dành riêng cho vua.
Hiển Lâm Các được kiến trúc bằng gỗ cao tầng. Mặt bằng tầng một chia làm ba gian hai chái. Quanh ba mặt ngoài của hai chái được xây tường gạch để gia cố sức chịu lực của các hàng cột quân và bao che bớt phần nội thất. Ở hàng cột thứ ba tính từ mặt trước, dựng ở một dãy đố bản, giữa mỗi gian trổ một cửa vòm. Các hệ thống kèo, liên ba, đổ bản ở tầng này đều được chạm nổi các mô típ hình rồng cách điệu hoá thành dây leo lá cuốn. Trên cửa giữa treo tấm hoành phi lớn đề ba chữ “Hiển Lâm Các” trên nền sơn màu lục, khung chạm chín con rồng vờn mây sơn son thếp vàng.
Gian bên phải bắc chiếc cầu thang lên tầng trên. Cầu thang được trang trí rất đẹp. Hai tay vịn được chia thành các ô hộc trang trí hình chữ “thọ”, chữ “vạn” và đường nét kỉ hà. Đầu và cuối tay vịn đều được chạm nổi hình đầu và đuôi rồng uốn lượn mềm mại.
Tầng hai có ba gian. Trước đây đặt án thư và sập ngự sơn son thếp vàng. Hai mặt trước và sau đều có cửa lá sách, hai mặt bên nong ván, chung quanh là một hệ thống lan can bằng gỗ với những hàng con tiện trau chuốt tỉ mỉ. Đỡ giàn mái tầng này có bốn cột chính, bốn cột phụ với một hệ thống con sơn được chạm trổ đẹp mắt.
Tầng ba chỉ có một gian với lối đi lên là một cầu thang gỗ chín bậc. Mặt trước và mặt sau lầu dựng cửa lá sách. Có một hệ thống con sơn được đặt từ bên cột chính ở bốn góc vươn ra như những cánh tay để đỡ cho toàn bộ phần dưới của bộ mái trên cùng. Hệ thống con sơn này đã đưa các mái ra khá rộng, nó vừa có giá trị kết cấu vừa có giá trị trang trí, tạo ra nhiều mảng tối, sáng cho mặt ngoài của công trình kiến trúc, làm tăng thêm vẻ thâm nghiêm của chốn cung đình. Trên nóc tầng ba, ở giữa trang trí bầu rượu bằng pháp lam màu vàng nhạt đặt trên một áng mây pháp lam ngũ sắc tươi thắm,...
Hiển Lâm Các là công trình kiến trúc có giá trị cả về kĩ thuật lẫn thẩm mĩ. Toà nhà cao tầng nhưng có tỉ lệ cân xứng, hài hoà giữa các tầng với nhau. Sự đứng vững của toà nhà gần hai thế kỉ đã thể hiện tài năng, sự khéo léo tuyệt vời của những người thợ mộc ở cả phương diện tạo nên độ bền chắc lẫn khả năng trang trí mĩ thuật.
Chức năng chính của Hiển Lâm Các được xem như là đài kỉ niệm để ghi nhớ công tích các vua Triều Nguyễn được thờ ở Thế Miếu và các đại thần có công được thờ ở hai nhà Tả Tùng tự và Hữu Bằng tự gần trước mặt.
Hiển Lâm Các là một trong số ít công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật và thẩm mĩ đạt trình độ rất cao ở Huế. Cùng với Thế Miếu và Cửu Đỉnh, Hiển Lâm Các đã trở thành điểm nhấn trong toàn bộ quần thể di tích Cố đô Huế và là điểm đến không thể bỏ qua của du khách khi đến tham quan Di sản văn hoá thế giới này ở Việt Nam.
(In trong Huế – di tích lịch sử – văn hoá – danh thắng, NXB Chính trị quốc gia, 1997)
a. Xác định bố cục của bài văn thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử được thể hiện trong bài viết trên và nội dung chính của từng phần.
b. Bài viết chủ yếu chọn trình bày thông tin theo cách nào? Tác dụng của cách trình bày thông tin ấy là gì?
c. Chỉ ra tác dụng của việc sử dụng kết hợp các yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự (nếu có) trong bài viết trên.
d. Nhận xét về vai trò của phương tiện phi ngôn ngữ trong bài viết. Hãy rút ra ít nhất một kinh nghiệm về việc sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ từ bài viết trên.
đ. Trong bài viết trên, người viết đã chọn thuyết minh chi tiết về yếu tố nào của di tích Hiển Lâm Các? Ý nghĩa của việc lựa chọn ấy là gì?
e. Dùng Bảng kiểm kĩ năng viết bài văn thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở Bài 3 (Những di tích lịch sử và danh thắng - Ngữ văn 9, tập một, bộ sách Chân trời sáng tạo) để đánh giá và xác định (những) tiêu chí mà bài viết chưa đạt được (nếu có).
Dọc văn bản Tống biệt hành và thực hiện các yêu cầu nêu bên dưới:
TỐNG BIỆT HÀNH
Thâm Tâm
Đưa người, ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng.
– Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong!
Ta biết người buồn chiều hôm trước:
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
1940
(In trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân, NXB Văn học, 1988)
a. Xác định đề tài, nội dung bao quát và bố cục của bài thơ.
b. Phân tích 10 dòng thơ đầu để làm rõ:
- Khung cảnh đưa tiễn, hình ảnh người ra đi (“người”) và tình cảm, cảm xúc của người đưa tiễn (“ta”).
- Các yếu tố hình thức nghệ thuật như thể thơ, từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp, biện pháp tu từ,... có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện khung cảnh, nhân vật được nêu ở mục a?
c. Phân tích 12 dòng thơ cuối và cho biết:
- Giữa thái độ “một giã gia đình một dửng dưng” (mười dòng thơ đầu) với nỗi “buồn” (tám dòng thơ giữa) và việc “đi thực” (bốn dòng thơ cuối) của người ra đi có gì mâu thuẫn không? Vì sao?
- Hình ảnh “mẹ già”, “một chị, hai chị...”, “em nhỏ ngây thơ...” được nhắc đến trong bài thơ có tác dụng gì trong việc thể hiện hình ảnh người ra đi?
d. Bài thơ cùng lúc thể hiện tình cảm, tâm sự của nhiều nhân vật nhưng chung quy vẫn là để thể hiện tình cảm, tâm sự của nhân vật xưng “ta”, có thể nói như vậy được không? Vì sao?
d. Theo em, về hình thức, bài thơ có những điểm gì độc đáo?
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
KHÔNG CÒN AI KHỐN KHỔ HƠN ANH
(Trích Âm mưu và ái tình)
Si-le (Sile/ Schiller)
Âm mưu và ái tình là một trong những vở kịch gây xúc động sâu sắc nhất của Si-le (nhà soạn kịch nổi tiếng người Đức).
Cốt truyện như sau: Phúc-đi-năng (Ferdinand) là một thanh niên giàu ý chí tự do, con trai tể tướng Phôn Van-te (Von Walter). Bất chấp thành kiến xã hội, sự phân biệt đẳng cấp, chàng quyết tâm lấy Luy-dơ (Luise), cô gái mà chàng yêu tha thiết, con của nhạc công Min-le (Miller) làm vợ. Tể tướng Van-te kiên quyết chống lại cuộc tình duyên này. Ông bắt Phéc-đi-năng phải cầu hôn nàng Min-pho (Milford), nhân tình của Hoàng thân mà Hoàng thân đang muốn rũ bỏ. Bất bình, phẫn nộ, Phéc-đi-năng doạ sẽ tố cáo tội ác giết quan tể tướng trước đây của cha nếu ông cứ khăng khăng ép chàng bỏ người mà mình yêu quý để lấy ả “gái điếm thượng lưu” kia.
Tể tướng Van-te dùng kế li gián Phéc-đi-năng với Luy-dơ do tên thư kí Vuôm (Wurm) dàn dựng. Chúng bắt giam vợ chồng nhạc công Min-le và ra điều kiện với Luy-dơ: Nếu nàng thuận viết một lá thư hò hẹn gặp gỡ với Thị vệ trưởng Ka-bơ (Calb, kẻ mà nàng chưa hề quen biết) thì bố mẹ nàng sẽ được thả ra. Vì muốn cứu bố mẹ, Luy-dơ đành phải viết thư theo lời đọc của chúng và thề giữ kín việc này. Chúng làm như vô tình để bức thư đó rơi vào tay Phéc-đi-năng.
Phéc-đi-năng ngờ vực sự trong trắng, ngây thơ và chung thuỷ của Luy-dơ. Trong khi đó, vì lo sợ cho tính mạng của bố mẹ, Luy-dơ đành phải cắn răng chịu đựng nỗi đau oan ức. Nghĩ rằng Luy-dơ đã phản bội niềm tin và tình yêu của mình, Phéc-đi-năng bèn lén bỏ thuốc độc vào cốc nước rồi cả hai người cùng uống. Mãi khi biết mình sắp chết, Luy-dơ mới dám nói lên sự thật về lá thư oan nghiệt kia.
Phân Van-te và tay chân của hắn đã hiện nguyên hình là một lũ mặt người dạ sói, độc ác, quỷ quyệt và ti tiện. Tỉnh ngộ, Phéc-đi-năng vùng lên. Chàng muốn trừng phạt người cha đao phủ cùng với “lũ dòi bọ. Nhưng thuốc độc đã ngấm, chàng gục xuống bên xác người yêu với niềm tin tưởng rằng từ nay họ sẽ bên nhau mãi mãi. Văn bản đã được điều chỉnh một vài từ ngữ cho phù hợp với học sinh.
Không còn ai khốn khổ hơn anh! là cảnh gần kết thúc của vở kịch. Trước đó là cảnh Phéc-đi-năng đến nhà ông Min-le, gặp ông để bày tỏ lòng thương xót đối với cảnh ngộ gia đình họ. Phéc-đi-năng đã rắp tâm dùng thuốc độc để giết chết Luy-dơ, trừng phạt tội phản bội của nàng như chàng lầm tưởng, rồi sau đó chàng cũng tự sát theo nàng. Chàng đã bỏ thuốc độc vào li nước chanh và bảo nàng uống trước rồi chàng sẽ uống nốt phần còn lại.
Phéc-đi-năng (giọng mệnh lệnh): – Uống đi!
(Luy-dơ miễn cưỡng nâng cốc, và uống – Phéc-đi-năng tái mặt quay vụt đi, khi thấy nàng đưa cốc lên môi, chàng vội vã lui vào một góc phòng).
Luy-dơ: – Tôi thấy cốc nước này uống được đấy chứ!
Phéc-đi-năng (rùng mình, không quay lại): – Càng thoải mái cho ngươi.
Luy-dơ (sau khi đã đặt cốc nước xuống): - Ôi, Van-te, ông biết đâu rằng ông đã sỉ nhục linh hồn tôi ghê gớm biết chừng nào!
Phéc-đi-năng: - Hừ!
Luy-dơ: – Ông Van-te, rồi sẽ đến lúc...
Phéc-đi-năng (lại trở về đằng trước): – Ồ, chúng ta xong chuyện với thời gian rồi.
Luy-dơ: – Vâng, rồi sẽ đến lúc mà những việc buổi tối hôm nay sẽ đè nặng lên trái tim ông...
Phéc-đi-năng (bắt đầu bồn chồn đi đi lại lại, vẻ bứt rứt hơn, cởi thanh gươm và dây đeo ném ra xa): – Hãy ngủ ngon hỡi sứ mệnh của cung đình!
Luy-dơ: – Trời ơi, ông làm sao thế?
Phéc-đi-năng: – Bức bối, chật chội quá! Ta muốn cho thoáng một chút.
Luy-dơ: – Uống đi, uống đi! Cốc nước này sẽ làm cho ông mát mẻ, dễ chịu hơn.
Phéc-đi-năng: – Ừ, đã hẳn rồi, nó sẽ khiến ta mát mẻ, dễ chịu hơn. Hừ, một đứa con gái hư hỏng mà cũng biết có lòng ái ngại... Lòng chúng nó đứa nào mà chả thế!
Luy-dơ (với một vẻ yêu thương vô hạn, chạy vào vòng tay yêu thương của Phúc-đi-năng): - Anh nói Luy-dơ của anh những lời như vậy ư, anh Phéc-đi-năng?
Phéc-đi-năng (đẩy nàng ra xa): – Xéo đi, xéo đi! Lánh xa ta đi hỡi cặp hiện nguyên hình xấu xa, khủng khiếp của ngươi đi! Hỡi loài trùng đốn mắt dịu dàng thảm thiết này! Trời, ta sa ngã mất! Hỡi con rắn độc, hãy mạt, hãy chồm lên người ta đi! Hãy trải ra trước mắt ta và hãy vươn cao lên đến tận trời những khúc rắn quái gở của người đi! Hãy phơi bày ra đây phần xấu xa, gớm ghiếc mà vực thẳm địa ngục vẫn hằng ngắm nghía ngươi... Đừng là thiên thần nữa! Muộn quá rồi! Ta phải giẫm nát ngươi như một con rắn độc hoặc phải chìm đắm trong tuyệt vọng... Ôi thương hại thay cho ta!
Luy-dơ: – Trời! Đến nông nỗi này sao?
Phéc-đi-năng (liếc nhìn nàng): - Cái công trình tuyệt diệu này của tay Thợ Trời... Ai có ngờ đâu... Ai nỡ tin được rằng... (nắm lấy tay Luy-do và giơ lên trời). Hỡi tạo hoá, ta không muốn có ý nghĩ đòi Người đến trước mặt ta để nghe ta chất vấn! Nhưng sao Người lại chứa thuốc độc trong cái bình đẹp đẽ như thế này? Sao nó lại sinh sôi, nảy nở trong miền trời dịu dàng đến thế này được? Thực là quá đỗi lạ lùng!
Luy-dơ: – Chao ôi! Tai nghe những lời cay đắng này mà phải lặng câm!
Phéc-đi-năng: – Lại còn cái giọng thấm thía ngọt ngào kia nữa!... Dây đàn đứt nát, mà sao lại nảy lên được những âm thanh êm dịu tới bậc này! (Mắt say sưa, chăm chú nhìn Luy-dơ) – Tất cả đẹp đẽ đến thế, cân đối đến thế, hoàn thiện đến tuyệt trần... Tất cả đều là công trình của phút cảm hứng đắc ý nhất của tạo hoá! Ta nói có trời! Dường như vũ trụ này sinh ra là để gây hứng khởi cho tạo hoá dụng công trình kiệt tác này của Người... Vậy ra chỉ trong linh hồn người đàn bà này là Chúa có sự lầm lẫn chăng? Có thể nào một linh hồn méo lệch, quái gở đến thế lại trú ngụ trong một thể xác toàn mĩ như thế này được chăng? (Đột ngột rời xa nàng). Hay là đấng tạo hoá chợt nhận ra ngọn dao điêu khắc của mình đã lỡ dựng lên một thiên thần, Người liền vội vã sửa lại cái lầm mà đặt vào công trình của Người một trái tim càng quỷ quái hơn?
Luy-dơ: – Cương ngạnh và ác độc! Chàng đang chửi rủa Chúa, chứ không chịu nhận rằng mình đã buông những lời xét đoán quá vội vàng!
Phéc-đi-năng (Chạy lại ôm cổ Luy-dơ khóc nức nở): – Thêm một lần nữa, Luy-dơ! Thêm một lần nữa thôi, như ngày chúng ta hôn nhau lần đầu tiên, khi lần đầu tiên em thì thầm gọi “anh”! Ôi, trong giây phút ấy đã chứa đựng hạt giống của những niềm vui vô cùng vô tận không lời nào diễn tả nổi, trong một nụ hôn... Khi ấy vĩnh cửu đã hiện ra trước mắt chúng ta tưng bừng như một ngày tháng Năm rực rỡ. Khi ấy, những thiên kỉ hoàng kim đã nhảy múa vui say như những đôi tình nhân trước linh hồn chúng ta! Ôi, khi ấy anh đã là kẻ hạnh phúc. Luy-dơ! Luy-dơ sao em nỡ làm điều ấy đối với anh?
Luy-dơ: – Khóc đi, khóc đi, Van-te! Nỗi đau thương của anh công bằng đối với em hơn là cơn giận dữ của anh.
Phéc-đi-năng: – Cô làm rồi, đây không phải là những giọt nước mắt đau thương! Đây không phải là giọt sương ấm áp, khoái lạc có sức thấm đượm hương thơm vào những vết thương của linh hồn, và làm sống động bánh xe cảm xúc đã cứng đờ. Đây là những giọt cô đơn, giá ngắt như băng... Đây là lời vĩnh biệt khủng khiếp đối với tình yêu của ta. (Giọng trang nghiêm dữ dội, nặng nề đặt tay lên đầu Luy-dơ). Luy-dơ! Đó là những giọt nước mắt của ta khóc linh hồn cô... Những giọt nước mắt ta khóc than đấng tạo hoá mà lòng nhân từ vô cùng đến đây đã thất bại và bởi một ý oái oăm đã bỏ dở dang cái tác phẩm đáng lẽ là huy hoàng nhất của Người. Ôi, dường như cả tạo vật sẽ phải choàng tấm khăn tang, sẽ phải sửng sốt kinh hoàng trước tai biến đã xảy ra giữa lòng tạo vật... Con người ta sa ngã, và đánh mất thiên đường, đó là điều thường thấy; nhưng khi ôn dịch lại hoành hành ngay trong các thiên thần, thì khi đó, ôi, khi đó cần phải nổi hiệu báo tang trong khắp cả tạo vật.
Luy-dơ: – Van-te, xin đừng dồn tôi đến chỗ cùng đường. Linh hồn tôi có sức mạnh không kém bất kì ai, nhưng xin đừng bắt tôi phải chịu thử thách quá sức chịu đựng của loài người. Van-te, một lời nữa thôi, rồi chúng ta hãy xa lìa nhau đi! Một số mệnh ghê gớm đã gieo sự hỗn loạn vào tiếng nói của trái tim chúng ta. Nếu em có quyền mở miệng, thì em sẽ nói anh nghe những điều... em sẽ có thể... Nhưng số mệnh khắc nghiệt đã trói chặt miệng lưỡi em và tình yêu của em. Em đành phải chịu để anh hành hạ em như một đứa con gái hư hỏng, đê hèn.
Phéc-đi-năng: – Cô tự thấy cô có thoải mái không, Luy-dơ?
Luy-dơ: – Sao ông lại hỏi tôi câu ấy?
Phéc-đi-năng: – Bởi vì nếu không phải như vậy thì ta rất lấy làm tiếc rằng sẽ phải thấy cô đi khỏi nơi này mà lương tâm còn nặng trĩu một điều gian dối.
Luy-dơ: – Tôi xin thề với ông, ông Van-te...
Phéc-đi-năng (xúc động dữ dội): – Không, không! Như vậy thì sự trả thù này ma quỷ quá! Không, xin Chúa tránh cho ta điều đó! Ta không muốn trả thù như vậy ở cả thế giới bên kia... Luy-dơ! Cô có yêu Thị vệ trưởng không? Cô sẽ không ra khỏi gian phòng này được nữa đâu!
Luy-dơ: – Ông muốn hỏi gì thì hỏi, tôi sẽ không trả lời nữa (ngồi xuống).
Phéc-đi-năng (càng thêm nghiêm nghị): – Hãy nghĩ đến linh hồn vĩnh cửu của em, em không thể... Luy-dơ! Cô có yêu Thị vệ trưởng không? Cô sẽ không ra khỏi gian phòng này được nữa đâu.
Luy-dơ: – Tôi sẽ không trả lời nữa.
Phéc-đi-năng (hoảng loạn cực độ, quỳ sụp xuống chân Luy-dơ): – Luy-dơ, cô có yêu Thị vệ trưởng không? Trước khi ngọn đèn này tắt... cô sẽ phải... đứng trước mặt Chúa rồi!
Luy-dơ (vùng đứng dậy, kinh sợ): – Giê-xu! Sao?... Tôi thấy khó chịu quá! (ngã người xuống ghế).
Phéc-đi-năng: – Nhanh chóng đến thế sao? Cái giống đàn bà các người thật là điều bí ẩn muôn đời! Thân hình mỏng manh của họ vững vàng chẳng núng trước những tội ác có sức đục khoét loài người đến tận gốc rễ, vậy mà một hạt nhân ngôn đã đủ quật ngã họ rồi!
Luy-dơ: – Thuốc độc! Thuốc độc! Trời đất ơi!
Phéc-đi-năng: – Có lẽ đúng đấy. Cốc nước chanh của cô đã được địa ngục thêm gia vị, và cô vừa mới nâng cốc chúc sức khoẻ thần Chết đó.
Luy-dơ: – Phải chết, phải chết ư? Hỡi Chúa vô cùng nhân từ! Trong nước chanh có thuốc độc! Tôi chết mất! Lạy Chúa vô cùng nhân từ, xin thương xót linh hồn tôi.
Phéc-đi-năng: – Đó chính là điều cần nhất! Ta cũng cầu xin nơi Chúa điều đó.
Luy-dơ: – Còn mẹ tôi... còn cha tôi... Lạy Chúa cứu thế xin thương xót cha mẹ tôi! Ôi, người cha tội nghiệp vô vọng của tôi! Không còn cứu được nữa sao? Cuộc đời non trẻ của tôi không còn cứu được nữa sao? Tôi phải ra đi rồi ư?
Phéc-đi-năng: – Không, không thể nào cứu được nữa. Cô phải ra đi rồi... Nhưng hãy yên tâm, chúng ta sẽ cùng đi với nhau.
Luy-dơ: – Cả anh nữa ư, Phéc-đi-năng? Thuốc độc... Phéc-đi-năng Thuốc độc do chính tay anh ư! Lạy Chúa xin tha thứ cho chàng! Xin Chúa nhân từ xoá tội cho chàng!
Phéc-đi-năng: – Hãy cứ lo món nợ của chính thân cô đi! Ta lo rằng món nợ ấy không dễ gì trang trải được đâu.
Luy-dơ: – Phéc-đi-năng! Phéc-đi-năng! Ôi, bây giờ em không thể cảm lặng được nữa... cái chết... cái chết cởi hết mọi lời thề'... Phéc-đi-năng ơi, nữa! Anh Phéc-đi-năng ơi, em chết oan! lúc này đây, trong khắp cõi trời đất này không còn ai khốn khổ hơn anh
Phéc-đi-năng (giật mình, kinh hãi): – Nàng vừa nói gì vậy!
Những kẻ ra đi trong cuộc lữ hành ghê gớm này vẫn không có thói quen mang theo sự gian dối.
Luy-dơ: – Em không nói dối, em không nói dối!... Cả đời em, em chỉ nói dối có một lần... Trời ơi, băng giá rùng rợn đang luồn vào mạch máu ta... Em chỉ nói dối một lần khi em viết bức thư cho Thị vệ trưởng.
Phéc-đi-năng: - A, bức thư.... Cảm tạ Chúa! Ta lại khôi phục được sức quả quyết nam nhi của ta rồi.
Luy-dơ (lưỡi đã ríu lại, ngón tay bắt đầu run giật, co rút): – Bức thư ấy... anh hãy đứng vững mà nghe một lời khủng khiếp... Tay em đã viết những điều mà lòng em nguyền rủa. Bức thư ấy...là do cha anh đọc bắt em viết.
(Phéc-đi-năng đứng sững như pho tượng bị chôn chân xuống đất. Ngừng lặng như chết, dài dặc. Rồi chàng ngã vật xuống đất như bị sét đánh).
Luy-dơ: – Ôi, sự hiểu lầm đáng thương!... Anh Phéc-đi-năng ơi, người ta đã cưỡng bức em... anh tha tội cho em... Luy-do của anh đã muốn thà chọn cái chết còn hơn..., nhưng cha em... gặp nguy hiểm... Ôi! Chúng nó thực xảo quyệt vô cùng.
Phéc-đi-năng (bật dậy, ghê gớm): – Cảm tạ Chúa! Thuốc độc vẫn chưa ngấm vào ta! (tuốt gươm).
Luy-dơ (yếu dần, gục xuống): – Trời! Anh định làm gì vậy? Người ấy là cha anh...
Phéc-đi-năng (điên cuồng, giận dữ): – Tên giết người đã đẻ ra tên giết người!... Mi cũng phải chết, để cho đấng phán xét tối cao chỉ trút con thịnh nộ lên đầu tên ác phạm (định ra).
Luy-dơ: – Đấng cứu thế của ta khi hấp hối cũng đã từng tha thứ... Xin Người tha tội cho anh và cha anh!... (Nàng thở hơi cuối cùng).
Phéc-đi-năng (quay phắt lại, trông thấy cử động cuối cùng của nàng khi hấp hối; đau đớn ngã gục xuống cạnh nàng): – Dừng lại, dừng lại đã! Đừng bỏ anh, hỡi đấng thiên thần của trời cao! (nắm tay nàng, lại vội buông xuống) – Đã lạnh ngắt và ẩm ướt, linh hồn nàng đã lìa xa rồi (đứng bật dậy). Ôi, hỡi Chúa trời của em... Luy-dơ... ta...! Xin tha tội cho cái đứa giết người ghê tởm hơn hết mọi đứa giết người! Đó là lời khẩn cầu cuối cùng của nàng! Cái xác không hồn này vẫn còn xinh đẹp, đáng yêu biết chừng nào! Thần Chết cũng phải cảm động vì nhan sắc tuyệt mĩ của nàng, đã nương nhẹ khi chạm đến đôi má xinh tươi này... Vẻ dịu hiền vô cùng này không hề giả dối; vẻ dịu hiền vô cùng này đã cưỡng lại được cả sự chết (một lát). Nhưng sao vẫn chưa cảm thấy thuốc độc ngấm vào ta? Sức trai tráng của ta muốn cứu ta chăng? Uổng công vô ích thôi! Ta không muốn như vậy (nắm lấy cốc).
(In trong Những tên cướp, Nguyễn Đình Nghi dịch, NXB Văn học, 1983)
a. Tóm tắt nội dung, xác định xung đột, hành động kịch trong văn bản.
b. Chỉ ra những mâu thuẫn được thể hiện trong vở kịch và cho biết các mâu thuẫn đó tác động qua lại với nhau như thế nào.
c. Phân tích tính cách của nhân vật Phéc-đi-năng.
d. Theo em, nét nổi bật trong tính cách của Luy-dơ được thể hiện trong văn bản là gì? Phân tích một số chi tiết trong văn bản để làm rõ nét tính cách đó.
đ. Nhận xét về:
- Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật trong văn bản.
- Vai trò của ngôn ngữ đối thoại trong việc thể hiện tính cách nhân vật.
e. Giải thích nguyên nhân dẫn đến bi kịch tình yêu của Phéc-đi-năng và Luy-dơ trong văn bản. Theo em, thông điệp mà tác giả gửi gắm đến người đọc, người xem đương thời, ngày nay có còn giá trị hay không? Vì sao?
Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu:
Nét đặc sắc nghệ thuật đầu tiên của bài thơ này là hình ảnh. Bài thơ có sự kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng mà đặc sắc nhất là loại hình ảnh thứ hai. Sau câu thơ mở đầu Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác như lời tâm sự của người con miền Nam nói với Bác, ba câu thơ tiếp theo tập trung khắc hoạ hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê Việt Nam: Tre quanh lăng. Từ lâu, cây tre, hàng tre bát ngát xanh đã trở thành biểu tượng của xứ sở với những phẩm chất cao quý như thẳng, thuỷ chung, can đảm. Nhưng với tác giả, một người vừa trải qua ngay cuộc chiến đấu ở chiến trường miền Nam, thì phẩm chất nổi bật của cây tre là kiên cường, vững vàng trước mọi giông bão bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng còn được nhắc lại ở khổ thơ cuối bài (cây tre trung hiếu) như một ấn tượng sâu đậm nhất của tác giả về khung cảnh quanh lăng Bác.
Khổ thơ thứ hai được tạo nên từ hai cặp câu với những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi. Câu Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng là một hình ảnh thực, còn một mặt trời trong lăng rất đỏ là một hình ảnh ẩn dụ vừa nói lên sự vĩ đại của Bác Hồ (như mặt trời) vừa thể hiện được sự tôn kính của nhân dân, của nhà thơ đối với Bác. Tương tự, dòng người đi trong thương nhớ là hình ảnh thực, còn câu Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân là một ấn dụ rất đẹp và sáng tạo về tình cảm yêu kính của nhân dân dành cho Bác. Ở khổ thơ thứ ba, hình ảnh ẩn dụ vầng trăng sáng trong dịu hiền gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Bác. Tâm trạng xúc động của tác giả còn được biểu hiện trực tiếp qua hai câu thơ:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Trời xanh cũng là một hình ảnh ẩn dụ về Bác. Bác tuy đã đi xa nhưng vẫn còn sống mãi với non sông, đất nước, như trời xanh kia là vĩnh cửu. Dù vẫn tin là thế nhưng không thể không đau xót vì sự ra đi của Người! Có thể nói những hình ảnh biểu tượng như mặt trời, tràng hoa, trời xanh, vầng trăng vừa quen thuộc, gần gũi (vì được tạo thành từ những hình ảnh thực) lại vừa có sức biểu cảm và giá trị biểu tượng lớn lao.
Điều tôi ấn tượng về nghệ thuật của bài thơ còn là giọng điệu. Bài thơ có giọng điệu rất phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc. Đó là giọng điệu vừa trang nghiêm, sâu lắng vừa tha thiết, đau xót, tự hào khi vào viếng lăng Bác. Giọng điệu ấy được tạo nên bởi nhiều yếu tố: Thể thơ, nhịp điệu, từ ngữ và hình ảnh. Thể thơ tám chữ, nhưng có những dòng thơ bảy hoặc chín chữ tuỳ theo cung bậc cảm xúc. Cách gieo vần trong từng khổ thơ cũng không cố định, có khi liền, có khi cách. Nhịp thơ nhìn chung là nhịp chậm; diễn tả sự trang nghiêm, thành kính, lắng đọng trong tâm trạng nhà thơ. Riêng khổ thơ cuối, nhịp thơ nhanh hơn, với điệp từ muốn làm được lặp lại ba lần, thể hiện mong ước thiết tha và nỗi lưu luyến của tác giả.
Nhưng đối với tôi, cái ấn tượng đậm nét về bài thơ không chỉ là đặc sắc về phương diện nghệ thuật mà còn là chủ đề của tác phẩm: Tấm lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ khi viếng lăng Bác. Tấm lòng tha thiết, chân thành ấy được thể hiện thông qua hệ thống hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng đặc sắc như trên đã phân tích cùng giọng điệu thơ trang trọng, đau xót xen lẫn tự hào. Vì thế, có thể nói bài thơ là minh chứng cho một chân lí trong sáng tạo thơ ca, từng được nhà thơ Viên Mai đời nhà Thanh khẳng định trong “Tuỳ Viên thi thoại” “Làm thơ cốt ở tấm lòng, hãy để tấm lòng điều khiển bàn tay”.
(Theo Phân tích tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại từ góc nhìn thể loại,
Nguyễn Văn Long, NXB Giáo dục, 2009)
a. Vẽ sơ đồ thể hiện các luận điểm, lí lẽ và bằng chứng trong văn bản.
b. Em có nhận xét gì về cách sắp xếp luận điểm của tác giả trong bài viết?
c. Nhận xét về cách văn bản phân tích chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật.
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
KHÓC DƯƠNG KHUÊ
Nguyễn Khuyến
1. Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
3. Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
7. Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có khi từng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
15. Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đẩu thăng chẳng dám than trời;
Bác già tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
19. Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần;
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.
23. Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.
27. Ai chẳng biết chán đời là phải,
Sao vội vàng đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
31. Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
Giường kia treo cũng hững hờ,
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
35. Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan!
(In trong Nguyễn Khuyến – Tác phẩm chọn lọc,
Lại Văn Hùng giới thiệu, tuyển chọn, NXB Giáo dục, 2009)
a. Liệt kê vào bảng sau những từ ngữ, hình ảnh bộc lộ tình cảm, cảm xúc của Nguyễn Khuyến đối với Dương Khuê (làm vào vở):
Từ ngữ
Hình ảnh
Tình cảm, cảm xúc
Khi mới hay tin bạn qua đời
Khi kể lại kỉ niệm với bạn
Khi nói về việc bạn đột ngột từ giã cõi đời
Khi bạn không còn nữa
Theo em, cách bộc lộ nỗi đau của Nguyễn Khuyến khi hay tin bạn qua đời có gì đặc biệt?
b. Qua tình cảm của Nguyễn Khuyến dành cho Dương Khuê, em nghĩ gì về nhân cách và tâm sự của tác giả?
c. Xác định bố cục, từ đó nêu mạch cảm xúc của văn bản.
d. Nêu chủ đề, tư tưởng và cảm hứng chủ đạo của văn bản. Cho biết một số căn cứ để xác định chủ đề.
đ. Thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm thông qua văn bản là gì?
e. Chọn một đoạn (từ tám đến mười hai dòng) trong văn bản và làm rõ một số yếu tố về thi luật của thơ song thất lục bát được thể hiện trong đoạn đó.
i dung/ vấn đề chính được đề cập trong văn bản.
Tư tưởng của văn bản: Những nhận thức và trải nghiệm sâu sắc về vai trò, giá trị lớn lao của tình bạn trong đời sống tình cảm của con người. Cảm hứng chủ đạo của văn bản: Ngợi ca tình bạn và bày tỏ niềm đau đón, tiếc thương vô hạn của Nguyễn Khuyến khi người bạn thân thiết của nhà thơ là Dương Khuê từ giã cõi đời.
đ. Thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm thông qua văn bản: Con người sống không thể thiếu tình bạn, nhất là tình bạn tri kỉ, tri âm; vì vậy, hãy trân trọng, yêu thương, đối xử chân thành với những người bạn, trân trọng, giữ gìn tình bạn và những kỉ niệm về tình bạn,..
e. Học sinh tự chọn một đoạn (từ tám đến mười hai dòng thơ) trong bài Khóc Dương Khuê và làm rõ một số yếu tố về thi luật của thơ song thất lục bát được thể hiện trong đoạn đó. Tham khảo cách phân tích một số yếu tố về thi luật của thơ song thất lục bát được thể hiện trong đoạn sau:
Ai chẳng biết chán đời là phải (T),
Sao vội vàng đã mải (T) lên tiên (B);
Rượu ngon không có bạn hiền (B),
Không mua không phải không tiền (B) không mua (B) .
Câu thơ nghĩ đắn đo (B) không viết (T),
Viết đưa ai, ai biết (T) mà đưa (B);
Giường kia treo cũng hững hờ (B),
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ (B) tiếng đàn (B).
Vần: Tiếng cuối của dòng thất đầu tiên hiệp vẫn với tiếng thứ năm của dòng thất tiếp theo (vần trắc): phải – tải. Tiếng cuối của dòng thất tiếp theo hiệp vần với tiếng cuối của dòng lục (vần bằng): tiên – hiền. Tiếng cuối của dòng bát hiệp vần với tiếng thứ năm của dòng thất kế đó (vần bằng): mua – đo và cứ thế tiếp tục.
Nhịp: Hai dòng thất ngắt nhịp 3/4, dòng lục ngắt nhịp 2/2/2 và dòng bát ngắt nhịp 2/2/2/2.