Danh sách câu hỏi tự luận ( Có 28,949 câu hỏi trên 579 trang )

Thực hiện một trong hai đề bài sau: Đề 1: Viết bài văn nghị luận phân tích đoạn trích Kiều mắc lừa Hồ Tôn Hiến (trích Truyện Kiều, Nguyễn Du). Đề 2: Viết bài văn nghị luận phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều, Nguyễn Du). Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm, yên ngựa, lên đường thẳng dong Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”. Từ rằng: “Tâm phúc tương tri Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường; Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia. Bằng nay bốn bể không nhà. Theo càng thêm bận, biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu Chầy chăng là một năm sau, vội gì!” Quyết lời dứt áo ra đi, Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi. (In trong Truyện Kiều, Đặng Thanh Lê giới thiệu và chú thích, in lần thứ 4, có bổ sung, NXB Giáo dục, 1984) Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm, yên ngựa, lên đường thẳng dong Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”. Từ rằng: “Tâm phúc tương tri Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường; Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia. Bằng nay bốn bể không nhà. Theo càng thêm bận, biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu Chầy chăng là một năm sau, vội gì!” Quyết lời dứt áo ra đi, Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi. (In trong Truyện Kiều, Đặng Thanh Lê giới thiệu và chú thích, in lần thứ 4, có bổ sung, NXB Giáo dục, 1984)

Xem chi tiết 1 K lượt xem 7 tháng trước

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi: KIỂU MẮC LỬA HỒ TÔN HIẾN (Trích Truyện Kiều) Nguyễn Du Có quan tổng đốc trọng thần, Là Hồ Tôn Hiến, kinh luân gồm tài Đẩy xe vâng chỉ đặc sai Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung 2455. Biết Từ là đấng anh hùng, Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn. Đóng quân, làm chước chiêu an, Ngọc vàng gấm vóc, sai quan thuyết hàng. Lại riêng một lễ với nàng, 2460. Hai tên thể nữ, ngọc vàng nghìn cán. Tin vào gửi trước trung quân, Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ. Một tay gây dựng cơ đồ, Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành! 2465. Bó thân về với triều đình, Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu? Áo xiêm ràng buộc lấy nhau, Vào luồn ra cúi công hầu mà chi? 2470. Sao bằng riêng một biên thuỳ, Sức này đã dễ làm gì được nhau? Chọc trời, khuấy nước, mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai? Nàng thời thật dạ tin người, Lễ nhiều, nói ngọt, nghe lời dễ xiêu. 2475. Nghĩ mình mặt nước cánh bèo, Đã nhiều lưu lạc, lại nhiều gian truân. Bằng nay chịu tiếng vương thần, Thênh thênh đường cái, thanh vân hẹp gì! 2480. Công tư vẹn cả hai bề, Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương. Cũng ngôi mệnh phụ đường đường, Nở nang mày mặt, rõ ràng mẹ cha. Trên vì nước, dưới vì nhà, Một là đắc hiếu, hai là đắc trung. 2485. Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng, E dè sóng gió, hãi hùng cỏ hoa. Nhân khi bàn bạc gần xa, Thừa cơ, nàng mới bàn ra nói vào. Rằng: “Trong Thánh trạch dồi dào, 2490. Tưới ra đã khắp, thấm vào đã sâu. Bình thành công đức bấy lâu, Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao! Ngẫm từ gây việc binh đao, Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu. 2495. Làm chi để tiếng về sau, Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào! Sao bằng lộc trọng, quyền cao, Công danh ai dứt lối nào cho qua?” Nghe lời nàng nói mặn mà, 2500. Thế công Từ mới trở ra thế hàng. Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng, Hẹn kì thúc giáp, quyết đường giải binh. Tin lời thành hạ yêu minh, Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng. 2505. Việc binh bỏ chẳng giữ giàng, Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư. Hồ công quyết kế thừa cơ, Lễ tiên, binh hậu, khắc cờ tập công”. Kéo cờ chiêu phủ tiên phong, 2510. Lễ nghi dàn trước, bác đồng phục sau. Từ công hờ hững biết đâu? Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên. Hồ công ám hiệu trận tiền, Ba bề phát súng, bốn bên kéo cờ. 2515. Đương khi bất ý chẳng ngờ, Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn! Tử sinh, liều giữ trận tiền, Dạn dày cho biết gan liền tướng quân! Khí thiêng khi đã về thần, 2520. Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng! Trơ như đá, vững như đồng, Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời. Quan quân truy sát đuổi dài, Ầm ầm sát khí, ngất trời ai đang! 2525. Trong hào ngoài luỹ tan hoang, Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi. Trong vòng tên đá bời bời, Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ, Khóc rằng: “Trí dũng có thừa, 2530. Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này! Mặt nào trông thấy nhau đây? Thà liều sống thác một ngày với nhau!” Dòng thư như xối cơn sầu, Dứt lời, nàng cũng gieo đầu một bên. 2535. Lạ thay oan khí tương triền! Nàng vừa phục xuống, Từ liền ngã ra! (In trong Truyện Kiều, Đặng Thanh Lê giới thiệu và chú thích, in lần thứ 4 có bổ sung, NXB Giáo dục, 1984) a. Nêu nội dung bao quát và xác định bố cục của văn bản. b. Liệt kê những chi tiết miêu tả suy nghĩ, lời nói, hành động của Thuý Kiều trong văn bản. Những chi tiết ấy cho em biết Thuý Kiều là người như thế nào? c. Phân tích đặc điểm của nhân vật Từ Hải và Hồ Tôn Hiến thể hiện trong văn bản trên. Em có nhận xét gì về cách tác giả xây dựng hai nhân vật này? d. Xác định chủ đề của văn bản và phân tích các căn cứ giúp em xác định được chủ đề ấy. đ. Tác giả muốn gửi gắm thông điệp gì qua văn bản? Theo em, thông điệp ấy có còn ý nghĩa trong thời đại ngày nay không? Vì sao?

Xem chi tiết 1.3 K lượt xem 7 tháng trước

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Tư Lập cười mà nói: – Té ra lâu nay vẫn ngờ oan cho lũ kẻ trộm, kì thực đó là loài ma quỷ, hưng yêu tác quái đó mà thôi. Những sự quấy rối bấy nay, đều tự vật này cả. Sau đấy đi mời khắp các thầy phù thuỷ cao tay, xin bùa yểm trấn, làm thuyền bè mã mà tống tiễn. Song càng bùa bèn trừ yểm, sự quấy nhiễu càng tệ hơn trước. Tư Lập cả sợ, họp người dân thôn lại bàn rằng: Các người khi trước vẫn thờ Phật rất kính cẩn, lâu nay vì việc binh hoả mà đèn hương lễ bái không chăm, cho nên yêu nghiệt hoành hành mà Phật không cứu giúp. Nay sao chẳng đến chùa kêu cầu với Phật, tưởng cũng là một cách quyền nghi may có thể giúp ích cho mình. (Nguyễn Dữ, Cái chùa hoang ở Đông Triều) a. Xác định lời nói của nhân vật Tư Lập trong đoạn trích trên. Chỉ ra cách Nguyễn Dữ đã sử dụng để dẫn lời nói của nhân vật và nêu tác dụng của lời dẫn trong đoạn trích. b. Thuật lại lời nói của nhân vật Tư Lập theo cách dẫn gián tiếp. c. Chỉ ra điểm khác biệt giữa lời nói của nhân vật Tư Lập trong đoạn trích trên và phần thuật lại của em.

Xem chi tiết 663 lượt xem 7 tháng trước

Đọc văn bản dưới đây và trả lời các câu hỏi phía dưới văn bản: CÁI CHÙA HOANG Ở ĐÔNG TRIỀU (Trích Truyền kì mạn lục) Nguyễn Dữ Đời nhà Trần, tục tin thần quỷ, thần từ, phật tử chẳng đâu là không có. Các chùa như chùa Hoàng Giang, chùa Đồng Cổ, chùa An Sinh, chùa An Tử, chùa Phổ Minh, quán Ngọc Thanh dựng lên nhan nhản khắp nơi; những người cắt tóc làm tăng, làm ni, nhiều gần bằng nửa số dân thường. Nhất là vùng huyện Đông Triều, sự sùng thượng lại càng quá lắm. Chùa chiền dựng lên, làng lớn có đến hơn mười nơi, làng nhỏ cũng chừng năm, sáu. Bao ngoài bằng rào luỹ, tô trong bằng vàng son, phàm người đau ốm, chỉ tin theo ở sự hư vô; gặp các tuần tiết thì đàn tràng cúng vái rất là rộn rịp. Thần, Phật xem chừng cũng ứng giáng, nên cầu gì được nấy, linh ứng lạ thường. Bởi vậy người dân càng kính tin, không dám ngạo mạn. Song đến đời vua Giản Định nhà Trần, binh lửa liên miên, nhiều nơi bị đốt; số chùa chiền còn lại mười không được một mà cái số còn lại ấy, cũng mưa bay gió chuyển, đổ ngã xiêu nghiêng, tiêu điều đúng rũ ở giữa áng cỏ hoang bụi rậm. Sau khi quân Ngô lui, dân trở về phục nghiệp, có viên quan là Văn Tư Lập đến trị huyện ấy, thấy những cảnh hoang tàn đổ nát bèn róng rả dân định các xã, đánh tranh ken nửa mà sửa chữa lại ít nhiều. Ngồi ở huyện ấy được một năm, thấy dân quanh huyện khổ về cái nạn trộm cắp, từ gà, lợn, ngỗng, ngan đến cá trong ao, quả trong vườn, phàm cái gì có thể ăn được đều bị mất hết, Tư Lập than rằng: – Ta ở vào địa vị một viên ấp tể, không có cái minh để xét ra kẻ gian, cái cứng để chế phục kẻ ác, vì nhân nhu mà hỏng việc, chính là cái lỗi tự ta. Song Tư Lập cho là những đám trộm cắp vặt ấy, cũng không đến nỗi đáng lo ngại lắm, nên chỉ sức các thôn dân, đêm đêm phải canh phòng cẩn mật. Trong khoảng một tuần, tuy canh phòng chẳng thấy gì cả, nhưng những việc trộm cắp vặt cũng vẫn như trước. Lâu dần càng không thấy chúng kiêng sợ gì, đến nỗi lại vào bếp để khoắng hũ rượu của người ta, vào buồng ghẹo vợ con người ta, khi mọi người đổ đến vây bắt, thì kẻ gian đã biến đi đằng nào mất, chẳng thấy gì cả. Tư Lập cười mà nói: – Té ra lâu nay vẫn ngờ oan cho lũ kẻ trộm, kì thực đó là loài ma quỷ, hưng yêu tác quái đó mà thôi. Những sự quấy rối bấy nay, đều tự vật này cả. Sau đấy đi mời khắp các thầy phù thuỷ cao tay, xin bùa yểm trấn, làm thuyền bè mã mà tống tiễn. Song càng bùa bèn trừ yểm, sự quấy nhiễu càng tệ hơn trước. Tư Lập cả sợ, họp người dân thôn lại bàn rằng: – Các người khi trước vẫn thờ Phật rất kính cẩn, lâu nay vì việc binh hoả mà đèn hương lễ bái không chăm, cho nên yêu nghiệt hoành hành mà Phật không cứu giúp. Nay sao chẳng đến chùa kêu cầu với Phật, tưởng cũng là một cách quyền nghi may có thể giúp ích cho mình. Mọi người bèn đi đốt hương lễ bái ở chùa chiền khấn rằng: “Lũ chúng sinh này kính thờ Trời Phật, quy y đã lâu, hết lòng trông cậy ở Phật pháp. Nay ma quỷ nổi lên, quấy nhiễu dân chúng, hoạ hại cả đến loài lục súc, vậy mà Phật ngồi nhìn im lặng, chẳng cũng từ bi quá lắm ư? Cúi xin mở lượng thương xót, ra uy trừng phạt, khiến thần, người chẳng lẫn, dân vật đều yên, hết thảy chúng sinh, đều được đội ơn nhiều lắm. Song loạn lạc vừa yên, sinh kế chưa khôi phục được, tấc gỗ mảnh ngói khó lòng xoay xở vào đâu. Đợi khi làm ăn giàu có sẽ lại xin sửa lại chùa chiền đền công đúc ấy”. Đêm hôm ấy, trộm cắp hoành hành lại dữ hơn trước. Tư Lập chẳng biết làm sao được; nghe Vương tiên sinh ở huyện Kim Thành là người giỏi bói dịch, bèn đến bói một quẻ xem sao. Vương tiên sinh bói rồi nói rằng: Cưỡi trên ngựa tốt, Mặc áo vải săn. Túi da tên thiếc, Đích thị người thần. Lại dặn rằng: – Ông muốn trừ được nạn ấy, sáng mai nên theo phía tả của huyện đi về phương Nam, hễ thấy người nào vận mặc như thế, mang xách như vậy, quyết là người ấy có thể trừ hại được, nên cố thỉnh mời, dù từ chối cũng đừng nghe. Hôm sau, Tư Lập cùng các phụ lão đúng theo lời của Vương tiên sinh để trông ngóng xem, những kẻ đi, người lại đầy đường, chẳng thấy ai giống như thế cả. Trời đã xế chiều, ai nấy chán nản sắp muốn về, chợt có một người từ trong núi bước ra, mình mặc áo vải, đeo cung cưỡi ngựa. Mọi người cùng chạy ra phục lạy ở phía trước mặt. Người ấy ngạc nhiên hỏi, mọi người cũng kể rõ bản ý của mình. Người ấy cười mà nói rằng: – Các ông sao mà quá tin bói toán thế. Tôi từ nhỏ làm nghề săn bắn, mình không rời yên ngựa, tay không rời cung tên. Hôm qua nghe nói ở núi An Phụ có nhiều giống nai, báo, thỏ tốt nên nay định đến để săn, nào có biết lập đàn thầy pháp, bắt ma vô hình là công việc thế nào. Tư Lập nghĩ bụng người này tất là một vị pháp đàn cao tay vì không muốn nổi tiếng về thuật bùa, vì sợ mang luy vào thân, nên mới nhỏ nhơ trong chốn khe núi, giấu mình ở thú chơi cung mã, bèn nhất định cố mời kì được. Người kia xem chừng không thể từ chối, phải gượng nghe lời. Tư Lập mời người ấy về huyện để ở trong nhà quán xá, giường chiếu màn đệm rất sang trọng, săn sóc kính cẩn như một vị thần minh. Người ấy nghĩ riêng rằng: – Họ tiếp đãi kính cẩn với ta như thế này, chỉ vì cho ta là có tài trừ quỷ. Nhưng thực thì ta chẳng có tài gì về việc đó, thế mà đi hưởng sự cung cấp của người, sao cho đành tâm. Nếu không sớm liệu trốn đi thì có ngày xấu hổ. Hôm ấy ước chừng nửa đêm, thừa lúc mọi người đã ngủ say, người ấy bèn rón rén ra khỏi huyện lị. Khi đến phía Tây cái cầu ván bấy giờ trời tối lờ mờ, trăng khuya chưa mọc, thấy có người hình thể to lớn, hớn hở từ dưới đồng đi lên, người ấy bèn lẻn vào chỗ khuất, ngồi rình để xem họ làm trò gì. Một lát, thấy họ thò tay khoắng xuống một cái ao rồi bất cứ vớ được cá lớn cá nhỏ, đều bỏ vào mồm nhai nuốt hết, lại nhìn nhau mà cười mà nói: – Những con cá con ăn ngon lắm nên ăn dè dặt mới thấy thú, há chăng hơn những thức hương hoa nhạt nhẽo họ thường dâng cúng chúng mình ư? Đáng tiếc là đến bây giờ, chúng mình mới được biết những vị ngon ấy. Một người cười mà nói: – Chúng mình thật to đầu mà dại, bấy nay bị người đời chúng nó lừa dối; ai lại đem cái oản, một vài lẻ gạo để lấp cái bụng nặng nghìn cân mà đi giữ của cho chúng nó bao giờ. Nếu không có những buổi như buổi hôm nay mà cứ trường chay mãi như trước thì thật là một đời sống uổng. Một người nói: – Tôi xưa nay vẫn ăn đồ mặn không phải ăn chay tịnh như các ông. Nhưng hiện giờ dân tình nghèo kiết, chúng nó chẳng có gì để cúng vái mình. Bụng đói miệng thèm, không biết mùi thịt là cái gì đã trải qua một thời gian lâu lắm, chẳng khác chi Đức Khổng Tử ở nước Tề ba tháng không được đụng đến miếng thịt. Song đêm nay, trời rét, nước lạnh, khó lòng ở lâu chỗ này được, chi bằng lên quách vườn mía mà bắt chước Hổ đầu tướng quân ngày xưa. Đoạn rồi họ dắt nhau đi lên, vào vườn mía, nhổ trộm mà tước, mà hít. Người kia đang ngồi núp một chỗ, liền dương cung lắp tên, thình lình bắn ra, tin luôn ngay được hai người. Bọn gian kêu ấm ở mấy tiếng rồi ồ chạy cả, chừng độ mấy chục bước đều mờ khuất hết. Song lúc đó còn thấy có tiếng mắng nhau: – Đã bảo ngày giờ không tốt thì đừng nên đi, không nghe lời ta, bây giờ mới biết. Người kia kêu réo ầm ĩ lên, dân làng quanh đấy giật mình tỉnh dậy, cùng đốt đèn thắp đuốc chia nhau mỗi người đi đuổi một ngả. Họ soi thấy dấu máu vấy trên mặt đất, bèn theo dấu máu ấy đi về phía Tây. Chừng hơn nửa dặm đến một cái chùa hoang, vào thấy hai pho tượng Hộ pháp xiêu vẹo trong chùa, trên lưng mỗi tượng đều có một phát tên cắm vào sâu lắm. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, cho là một sự lạ xưa nay chưa có bao giờ. Họ liền hay đổ hai pho tượng. Trong lúc ấy còn nghe có tiếng nói rằng: – Vẫn tưởng kiếm cho no bụng, ai ngờ phải đến nát thân. Nhưng bầy ra mưu mẹo là tự lão thuỷ thần kia. Hắn là chủ mưu mà được thoát nạn còn chúng ta theo hắn mà phải chịu vạ, thật cũng đáng phàn nàn lắm. Đó rồi họ sai người đến miếu Thuỷ thần, thấy pho tượng thần đắp bằng đất, bỗng biến sắc, mặt tái đi như chàm đổ, mấy cái vẩy cá còn dính lèm nhèm trên mép, lại phá huỷ luôn cả pho tượng ấy. Quan huyện Văn Tư Lập dốc hết hòm rương để trả ơn, người kia chở nặng mà về. Từ đấy, yêu tà tuyệt tịch không còn thấy bóng tăm đâu nữa. (In trong Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ, Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch, NXB Văn hoá, 1962) a. Tóm tắt các sự việc chính được kể trong văn bản và xác định bối cảnh lịch sử xã hội của câu chuyện. b. Liệt kê các nhân vật xuất hiện trong truyện và cho biết (các) nhân vật nào là nhân vật được xây dựng bằng yếu tố kì ảo? Căn cứ vào đâu để em khẳng định như vậy? c. Những kẻ trộm cắp, quấy nhiễu cuộc sống của người dân ở Đông Triều thực chất là ai? Nhận xét về cách tác giả miêu tả các nhân vật này trong truyện. d. Phân tích vai trò của nhân vật Tư Lập, Vương tiên sinh, người thợ săn có công trong việc phát giác, trừ khử thủ phạm trộm cắp quấy nhiễu để mang lại cuộc sống yên bình cho người dân ở Đông Triều. đ. Nêu chủ đề và thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc. Theo em, yếu tố kì ảo có vai trò thế nào trong việc thể hiện chủ đề, thông điệp đó?

Xem chi tiết 6.6 K lượt xem 7 tháng trước