Câu hỏi:

13/10/2025 37 Lưu

KHÔNG MỘT TIẾNG VANG

Cảnh I

Ông lão lòa, chị Cả Thuận, anh cả Thuận.

[…] ÔNG LÃO: – Thế chốc nữa lão Thông Xạ nó quay xe lại thì biết nói thế nào với nó đây? Thôi hai con nghe thầy, nên lánh mặt nó đi, cứ để thầy ở nhà một mình, thầy tìm cách khất khứa với nó, họa may nó thấy mù lòa, ốm yếu, nó có động lòng thương chăng…

CHỊ CẢ: – Lão ấy nó còn thương ai. Nếu nó có lòng thương người, nó đã chẳng xử với mình đến thế.

ÔNG LÃO: – Chả hơn cả ba bố con ngồi trơ ra đây mà tiền không có trả nó, để điên tiết lên nó thẳng tay quăng đồ đạc ra đường hoặc gọi đội xếp thưa bắt hai chúng mày về bóp thì có phải khổ cả không…

CHỊ CẢ: – Nào, thế cậu định ra sao đây?

ANH CẢ: – Định à? Chỉ còn một sống một chết, muốn đằng nào thì muốn, chứ sống ngắc ngoải thì không nên sống. Bàn đến kế tránh mặt nó đi thì không xong rồi. Liệu có tránh được mãi không? Dẫu nó không thưa để mình phải vào bóp mà chỉ vứt đồ ra đường, thì tôi cũng không còn bụng dạ nào làm ăn gì nữa… Ruột gan tôi có phải sắt đá đâu? Giời ơi, nghĩ đến vợ đang dắt bố già lang thang đầu đường xó chợ mà vẫn thản nhiên đi làm cho thằng khác ăn, có là con vật không thương yêu ai, dại như chó thì mới thế được. Mà đi làm về thì ăn vào đâu? Không được ăn mà vẫn đi làm à? Đây này: tôi bây giờ chán cả mọi sự rồi, đi làm tôi cũng không thiết nữa. Phải biết thời buổi này mới được. Tôi mà vô gia cư, tất không thoát tù tội. Vợ tôi mà vô gia cư, tất không thoát được lục sì. Ông mà vô gia cư, rồi người ta sẽ nhét ông vào bọn ăn mày ngoại ô. Sống ngắc ngoải thế này mà vẫn còn tưởng sống.

CHỊ CẢ: – Nông nỗi đã thế này, chẳng nhẽ cứ để mặc nó muốn nghiêng thì nghiêng, muốn ngửa thì ngửa, đành bó tay chịu chết?

[…] ANH CẢ: – (…) Ăn ở hiền hậu mà cứ vận hạn mãi… Đến thế mà còn tin được Giời, Phật nữa à? (thất vọng). (…) Giời Phật, có để làm gì, hở? Có phải chỉ để làm bù nhìn mặc cho loài người chúng nó ăn thịt nhau, thằng nào xỏ lá, bất nhân, lắm ngón xoay tiền thì được vợ đẹp, con khôn, lên xe xuống ngựa; còn người hiền lành thật thà thì bị lợi dụng, bị đè nén, bị hắt hủi, kiếm chẳng đủ áo mặc cơm ăn có phải không? Có Giời, có Phật mà đến thế à? Không có Giời, Phật nào cả. Hoặc có Giời, có Phật nhưng Giời, Phật không đủ quyền phép thiêng liêng, không công minh, không đáng cho ai kính thờ! Bây giờ ấy à? Chỉ có đồng tiền là Giời, là Phật, chỉ có đồng tiền là đáng kính thờ vì nó sai khiến được mọi người, ai ai cũng phải kính thờ nó mới sống được. Lương tâm à? Còn thua đồng tiền! Luật pháp à? Chưa bằng đồng tiền! Giời Phật à? Còn kém đồng tiền!

ÔNG LÃO: (không nói được nữa, chỉ kêu): Ôi giời ơi! Để tôi chết đi cho rảnh! Cho tôi chết đi!

CHỊ CẢ: (tất tả vào bếp, xách ra một chiếc chậu thau) – Cậu cứ ở nhà với thầy, tôi đi đằng này một lát.

ANH CẢ: – Định xách chậu đi đâu thế?

CHỊ CẢ: – Để lại cho bác phó. Hôm nọ sang chơi, bác ta có ý muốn mua lại, bây giờ tôi đem sang lấy vài hào về mua bát cháo với lọ dầu cho thầy. Thầy bảo cồn ruột chắc chỉ vì đói quá.

ANH CẢ: – Này, gượm! Người ta bảo đã mà lại. Lúc nãy tôi tạt chơi bên ấy rồi. Hiện bây giờ thằng bé con đang lên sởi, hai vợ chồng chạy thuốc đã méo mặt cả, mua bán gì? Chính tôi cũng còn nợ người ta năm hào mà chưa trả được, lúc nãy vào khất đấy…

CHỊ CẢ: (thất vọng đờ đẫn cả người, ra ngồi đắp chiếu cho bố).

ÔNG LÃO: (nằm trong chiếu, vẫn quằn quại kêu rên) – Ôi giời đất ơi, ôi giời đất ơi!

ANH CẢ: (ứa nước mắt, vùng đứng lên rảo bước ra đến cửa, dừng chân ngẫm nghĩ một lát, quay lại nhìn ông bố, rồi đẩy tung cửa ra đi).

CHỊ CẢ: (đang gục mặt, ngẩng lên nhìn rồi hốt hoảng, vùng dậy chạy theo) – Giời ơi! Cậu lại định đi đâu…Cậu! Cậu…Giời ơi, thầy ơi thầy, rõ khổ chưa!

ÔNG LÃO: (tung đống chiếu ra, lật đật ngồi lên gọi) – Ới cả! Ới Thuận!!! (vùng lên chạy ba bước, rồi lả người đi) con mau chạy theo gọi nó lại cho thầy (ngã gục xuống đất).

CHỊ CẢ: (nửa muốn chạy đi gọi chồng, nửa muốn lại nâng bố lên, luống cuống, sau cùng thì quay lại đỡ bố) – Thầy ơi, thầy ngã có đau không? Rõ khổ!

ÔNG LÃO: (khặc khừ, lắc đầu, lả đi)

CHỊ CẢ: (tay run lẩy bẩy, hết sức dìu bố, dẫn lại chỗ chõng tre, để cho ông lão ngồi được yên rồi lả xuống cạnh đấy bất tỉnh nhân sự).

(Trích vở bi kịch nhân sinh Không một tiếng vang, Vũ Trọng Phụng, in trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, Tr.358-364)

Những nhân vật nào xuất hiện trong đoạn trích?

Quảng cáo

Trả lời:

verified Giải bởi Vietjack

Những nhân vật xuất hiện trong đoạn trích: Ông lão lòa, chị Cả Thuận, anh Cả Thuận, lão Thông Xạ.

Câu hỏi cùng đoạn

Câu 2:

Theo chị Cả thì lão Thông Xạ là người như thế nào?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Theo lời chị Cả, lão Thông Xạ là người: không có tình thương.

Câu 3:

Nêu ngắn gọn nội dung của đoạn văn sau:

“Ăn ở hiền hậu mà cứ vận hạn mãi. Đến thế mà còn tin được Giời, Phật nữa à? (thất vọng). (…) Giời Phật, có để làm gì, hở? Có phải chỉ để làm bù nhìn mặc cho loài người chúng nó ăn thịt nhau, thằng nào xỏ lá, bất nhân, lắm ngón xoay tiền thì được vợ đẹp, con khôn, lên xe xuống ngựa; còn người hiền lành thật thà thì bị lợi dụng, bị đè nén, bị hắt hủi, kiếm chẳng đủ áo mặc cơm ăn có phải không? Có Giời, có Phật mà đến thế à? Không có Giời, Phật nào cả. Hoặc có Giời, có Phật nhưng Giời, Phật không đủ quyền phép thiêng liêng, không công minh, không đáng cho ai kính thờ! Bây giờ ấy à? Chỉ có đồng tiền là Giời, là Phật, chỉ có đồng tiền là đáng kính thờ vì nó sai khiến được mọi người, ai ai cũng phải kính thờ nó mới sống được”.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Nội dung của đoạn trích:

– Chỉ ra thực trạng bất công trong xã hội: những kẻ xỏ lá, bất nhân, lắm ngón, nhiều chiêu lại có tất cả; những người hiền lành, thật thà, tốt bụng thì bị đè đầu cưỡi cổ trở nên trắng tay.

– Con người sống vì đồng tiền, bất chấp luân lý, đạo đức, khiến cho những người lương thiện dần mất đi niềm tin về lẽ phải ở đời.

Câu 4:

Anh/ chị có đồng tình với quan điểm của nhân vật Cả Thuận: Lương tâm à? Còn thua đồng tiền! Luật pháp à? Chưa bằng đồng tiền! Giời Phật à? Còn kém đồng tiền! không? Lí giải vì sao?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Học sinh được tự do bày tỏ quan điểm, miễn là có lý giải thuyết phục. Tham khảo:

– HS có thể đồng tình/có thể không đồng tình hoặc vừa đồng tình vừa không đồng tình

– Lí giải:

+ Đồng tình, vì quan điểm của cả Thuận đã phản ánh đúng cái bộ mặt phi nhân tính của xã hội thành thị Việt Nam trước Cách mạng dưới sự cai trị của bọn thực dân, phong kiến: một xã hội xuống cấp về đạo đức, đồng tiền trở thành thước đo cho mọi giá trị.

+ Không đồng tình, vì dù cho đồng tiền có sức mạnh ghê gớm như vậy, nhưng nếu con người đủ bản lĩnh, vẫn có thể chiến thắng sức cám dỗ của nó để bảo vệ những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của bản thân mình (như ông già mù hay người con dâu trong đoạn trích, thà đói, thà chịu chết chứ nhất định không vi phạm đạo đức, không kiếm tiền bất chấp mọi thủ đoạn).

Câu 5:

Qua đoạn trích, anh chị hãy nhận xét nghệ thuật viết kịch của Vũ Trọng Phụng.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Nhận xét nghệ thuật viết kịch của Vũ Trọng Phụng

– Đoạn kịch được xây dựng theo lối kết cấu mở, cốt truyện vận động theo mạch phát triển của các sự kiện, biến cố rất tự nhiên và hợp lí

– Mâu thuẫn, xung đột kịch đầy lên cao trào, đầy kịch tính

– Xây dựng nhân vật trong tác phẩm kịch độc đáo, tinh tế. các tình huống kịch hấp dẫn gây ấn tượng sâu sắc.

– Ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao…

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Câu 1

Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật xây dựng bi kịch trong đoạn trích phần Đọc hiểu.

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 400 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật xây dựng bi kịch trong đoạn trích phần Đọc hiểu.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Vũ Trọng Phụng: cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam 1930–1945, nổi tiếng với những tác phẩm phơi bày sự thật trần trụi của xã hội đương thời.

- Giới thiệu vở kịch Không một tiếng vang: một bi kịch nhân sinh sâu sắc, phản ánh thân phận bế tắc, đau khổ của con người dưới ách áp bức và đồng tiền.

- Dẫn vào vấn đề: Nghệ thuật xây dựng nhân vật hoặc xây dựng bi kịch trong đoạn trích.

* Thân bài:

a. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

- Nhân vật ông lão:

+ Hình tượng người cha già mù lòa, nghèo khổ, bệnh tật, chịu đựng nỗi đau thể xác lẫn tinh thần.

+ Lời thoại ngắn, dồn dập, nhiều tiếng kêu than “Ôi giời ơi!”, thể hiện sự bế tắc đến tột cùng.

- Nhân vật chị Cả:

+ Người phụ nữ tảo tần, lo toan cho cha và chồng nhưng bất lực trước nghèo đói.

+ Hành động bán chậu thau, đắp chiếu cho cha… bộc lộ sự hiếu thảo, tình thương và nỗi tuyệt vọng.

- Nhân vật anh Cả:

+ Người đàn ông gánh nặng gia đình, phẫn uất với xã hội bất công, cay đắng nhận ra sức mạnh tuyệt đối của đồng tiền.

+ Lời thoại dài, chứa triết lý chua chát, tố cáo hiện thực tàn nhẫn.

→ Nghệ thuật: Khắc họa tính cách qua lời thoại chân thực, ngôn ngữ đời thường mà giàu sức gợi, hành động kịch tính đẩy bi kịch lên cao trào.

b. Nghệ thuật xây dựng bi kịch

- Hoàn cảnh: Gia đình nghèo khổ, nợ nần, bệnh tật, đứng trước bờ vực tan nát.

- Xung đột kịch: Giữa khát vọng sống, mong muốn hạnh phúc và hiện thực tàn nhẫn của nghèo đói, bất công xã hội.

- Cao trào: Lời thoại phẫn uất của anh Cả, tiếng kêu của ông lão, sự thất vọng bất lực của chị Cả → đẩy bi kịch đến tận cùng.

- Ý nghĩa: Phơi bày sự tha hóa của xã hội thực dân nửa phong kiến, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc với những phận người cơ cực.

* Kết bài:

- Khẳng định nghệ thuật xây dựng nhân vật/bi kịch đặc sắc của Vũ Trọng Phụng: hiện thực sâu cay, nhân đạo thấm thía.

- Nêu cảm nghĩ: Tác phẩm để lại ấn tượng mạnh mẽ về nỗi đau con người và sức tố cáo xã hội bất công.

Bài văn tham khảo

Vũ Trọng Phụng là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam giai đoạn 1930–1945. Với lối viết sắc lạnh, ông đã phơi bày sự thật trần trụi của xã hội thực dân nửa phong kiến, nơi con người bị dồn đến bước đường cùng bởi đói nghèo, bất công và đồng tiền. Vở bi kịch Không một tiếng vang là minh chứng rõ nét cho tài năng ấy, đặc biệt qua nghệ thuật xây dựng nhân vật và bi kịch đặc sắc, để lại ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc.

Ngay từ đoạn mở đầu, ta đã thấy hiện lên gia cảnh nghèo đói, bệnh tật của một gia đình lao động. Nhân vật ông lão mù lòa, yếu ớt, bệnh tật triền miên nhưng vẫn phải lo lắng cho con, cho gia đình, cho nợ nần. Tiếng kêu "Ôi giời ơi!" lặp đi lặp lại đầy tuyệt vọng, không chỉ là tiếng than cho số phận của chính mình mà còn là tiếng kêu xé lòng cho kiếp người nghèo khổ trong xã hội ấy. Bên cạnh đó, nhân vật chị Cả hiện lên với hình ảnh người phụ nữ tảo tần, thương cha, thương chồng, chạy vạy từng đồng để mua bát cháo, lọ dầu cho cha già. Hành động bán cả chiếc chậu thau để kiếm tiền càng khắc sâu sự túng quẫn, bế tắc. Còn nhân vật anh Cả, người đàn ông trụ cột gia đình, lại hiện lên với nỗi phẫn uất tột cùng. Lời thoại dài, chứa đầy chua chát khi anh nhận ra sức mạnh ghê gớm của đồng tiền: “Chỉ có đồng tiền là Giời, là Phật… Lương tâm à? Còn thua đồng tiền!” – lời tố cáo đanh thép xã hội tàn nhẫn, nơi cái ác, cái bất công lấn át mọi giá trị đạo đức.

Bi kịch của vở kịch không chỉ nằm ở cái đói, cái nghèo mà còn ở sự bế tắc về tinh thần. Gia đình ấy không tìm thấy lối thoát nào, chỉ còn nước mắt, tiếng kêu than và cả sự nổi loạn bất lực. Xung đột kịch được đẩy lên cao trào khi anh Cả bỏ đi trong tuyệt vọng, ông lão ngã gục, chị Cả hoảng loạn vừa chạy theo chồng vừa dìu cha, mọi thứ như vỡ tung trong một vòng xoáy bi thương. Đó là bi kịch của những con người hiền lành nhưng bị dồn ép đến tận cùng, nơi mà sự sống chỉ còn là tồn tại lay lắt.

Với nghệ thuật xây dựng nhân vật qua lời thoại chân thực, hành động giàu kịch tính, cùng cách đẩy xung đột lên cao trào, Vũ Trọng Phụng đã tạo nên một bi kịch nhân sinh thấm thía. Tác phẩm không chỉ phơi bày hiện thực xã hội bất công mà còn lay động lòng người bởi tình thương với những phận đời cơ cực, qua đó tố cáo sức mạnh tàn phá khủng khiếp của đồng tiền và chế độ thực dân nửa phong kiến.

Không một tiếng vang vì thế không chỉ là tiếng kêu than của một gia đình nhỏ bé mà còn là tiếng khóc lớn của cả một thời đại đầy bất công, để lại ám ảnh sâu sắc về số phận con người và giá trị nhân đạo của văn chương hiện thực.

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận

+ Trình bày cảm nhận về bi kịch của gia đình ông lão trong trích đoạn Không một tiếng vang

- Hệ thống ý:

+ Nêu rõ bi kịch gia đình ông lão: nghèo đói, bệnh tật, nợ nần chồng chất, bị xã hội dồn đến bước đường cùng.

+ Phân tích lời thoại và hành động của các nhân vật:

. Ông lão đau khổ, bất lực trước cảnh nhà tan nát.

. Chị Cả lo toan, bất lực, kiệt quệ cả thể xác lẫn tinh thần.

. Anh Cả Thuận phẫn uất, tuyệt vọng, phản kháng xã hội bất công.

+ Tố cáo xã hội bất công, đồng tiền thống trị, đẩy con người hiền lành vào đường cùng.

- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục

+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.

+ Thể hiện rõ suy nghĩ, cảm nhận về bi kịch của gia đình ông lão

- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:

+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.

- Sáng tạo

+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Đoạn văn tham khảo

Trong trích đoạn Không một tiếng vang của Vũ Trọng Phụng, bi kịch gia đình ông lão hiện lên thật xót xa và ám ảnh. Cả gia đình rơi vào cảnh cùng quẫn: nợ nần chồng chất, bệnh tật, đói khát, bị xã hội bất công đẩy đến bước đường cùng. Ông lão mù lòa, già yếu, đau đớn đến mức chỉ mong được chết đi cho rảnh nợ. Chị Cả lo lắng, vất vả đến kiệt sức, phải toan tính bán cả đồ đạc để lo miếng ăn cho cha. Còn anh Cả Thuận thì phẫn uất, tuyệt vọng, nhận ra đồng tiền mới là thế lực thống trị xã hội, còn lương tâm, luật pháp, thần thánh đều trở nên bất lực. Những lời thoại dồn dập, bế tắc của các nhân vật như tiếng kêu xé lòng, tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến tàn bạo, nơi con người hiền lành bị chà đạp, bần cùng hóa. Qua đó, tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc và tinh thần nhân đạo thấm thía của Vũ Trọng Phụng: cảm thương những kiếp người lầm than, đồng thời lên án một xã hội đầy bất công, tàn nhẫn. Đọc xong, ta càng thêm trân trọng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP