Câu hỏi:

29/10/2025 49 Lưu

CHA CON TƯƠNG TÀN*

(Trích tuồng “Tam nữ đồ”)

***

DINH KIM HÙNG

QUÂN: (Dạ... Dạ!) Rất kinh hoàng

Vội bẩm quan.

Nhân đêm nay vừa lúc canh ba

Khắc Minh đã trốn ra khỏi ngục.

KIM HÙNG: Truyền quân nhân gấp rút

Nối đèn đuốc sáng ngoài

Mau đón khắp mọi nơi

Quyết chẳng cho thoát chạy.

(Kim Hùng tiến binh bị ông Tạ xuất kỳ bất ý từ trong bụi nhảy ra đánh phủ đầu. Kim Hùng chỉ còn biết đỡ đòn, nhưng không biết ai đánh).

QUÂN: (Dạ! Dấu thiết giản) (1)

KIM HÙNG: (Dấu thiết giản à! Ai đó? Chỉ có ông già tao có mà thôi)

Hay cha già ỷ sức dọc ngang,

Khiến con trẻ khôn phương chống chế...?

(Mà ta lại sợ gì)

Một hùm dầu mạnh mẽ,

Bẩy cáo khá trở đương

Truyền chúng tướng thẳng đường,

Chỉ Hồng Sơn vội vã.

(hạ)

CẢNH CĂN CỨ HỒNG SƠN

HOÀNG TỬ: Tác bé thơ trong cảnh lạc loài,

(Nhờ các quan)

Lòng lo liệu chung tay dìu dắt

Cũng vì lũ tôi luan con giặc,

Đành số ng nơi góc núi đầu non,

(Vậy, nhờ các quan) Làm sao cho đã mất lại còn

Lẽ cùng có hết quy rồi thịnh.

QUÂN: Dạ!

Chúng tôi theo lịnh,

Dò xét rõ ràng,

Binh Kim Hùng đóng khắp Hồng Sơn,

Xin Điện hạ sai người cự địch.

TƯ CUNG KHƯƠNG HOÀN:

Cam thay loài phản nghịch,

Còn lung thói bạo tàn.

Dưới trướng xin một lệnh truyền ban,

Ngoài núi để hai tôi ra trận.

KHẮC MINH:

Hàng máu nóng, trẻ toan rửa hận,

Gắng sức tàn, già quyết trừ gian.

Cho lão phu ra chốn chiến trường,

Trừ tặc bối an lòng điện hạ.

LÃO TẠ: (Nay quân về thưa rằng binh thằng Kim Hùng vây Hồng Sơn, các quan xin ra đánh cùng nó, lão nghĩ như việc ấy là).

Trẻ già đều gan dạ,

Mạnh yếu xét sức mình.

Xin cho già vào chốn địch dinh,

Quyết dùng chước giết loài tặc bối.

KHẮC MINH:

(Chẳng hay người liệu kế gì?)

LÃO TẠ: (Lão xuống dò đâu đó xong xuôi, rồi lão sẽ thừa cơ đốt dinh trung gây rối)

Cố sức ngăn giặc trẻ bí đường.

TỰ CUNG, KHƯƠNG HOÀN: (Vậy giết được giặc nhưng ngài làm sao mà sống)

LÃO TẠ: (Sống sao được?)

Trong lửa hồng cha con lão thiêu xương,

(Thời)

HOÀNG TỬ: Nghe mấy lời cặn kẽ,

Xui tấc dạ thương đau.

Để muốn đẩy, nghiệp vững ngôi cao,

Nỡ xui đó, thân tàn cốt rụi?

LÃO TẠ: Bởi vô phúc sanh loài tặc bối,

Phải ra công chuộc tội lão phu.

Miễn đem về nghiệp cũ nghìn thu,

Nào xá kể xương tàn một nắm.

PHƯƠNG CƠ:

Lời trung nghĩa chứa chan dòng máu thắm,

Nỗi hiếu tình đau xót tấm lòng riêng.

Theo nghiêm phụ địch cùng huynh trưởng.

Cho ấu nhi (2) ra chốn trận tiền,

LÃO TẠ:

Nghe lời con rất chướng,

Xui lòng lão chẳng ưng.

(Trông thế mày tưởng tao)

Mãi sống lâu trăm tuổi không chừng,

(Nên chỉ mày)

Học nói bậy đôi điều cho tốt.

(Bẩm Điện hạ! Lão còn lại một chút nầy)

Trái một gốc khác mùi đắng ngọt,

(Nó cũng khá, nên chi lão)

Phải đôi lời gởi chút thơ ngây.

(Như nó lâu nay)

Vì non sông chung đóng góp tay,

(Chớ lão đây)

Dù sống thác quyết toàn tấc dạ,

HOÀNG TỬ:

Sự cực cùng chẳng đã,

Còn chi nữa mà mong.

Một lạy dưa, lòng khó cắt lòng,

Ba chung rót, bước khôn chia bước.

(Xướng): Đành e thân già lo việc nước

LÃO TẠ: (Xướng): Quyết vì nghiệp cả diệt loài gian.

PHƯƠNG CƠ: (Xướng): Tình sâu chia cắt trong giây phút,

MỌI NGƯỜI (Xướng): Già trẻ nhìn nhau lệ chứa chan.

HOÀNG TỬ: (Nam): Lệ chứa chan đôi đàng ly biệt,

Gẫm sự tình chi xiết người than

LÃO TẠ: (Nam): Thà cam liều một thân tàn,

Thịt xương xây đắp giang san muôn đời.

KHẮC MINH, HOÀNG TỬ, TƯ CUNG:

(Nam): Nghìn năm dù vắng bóng người, Khí xây sông núi, tiết đời trăng sao.

PHƯƠNG CƠ: (Nam): Nỗi niềm càng nghĩ càng đau,

Thà rằng tử biệt nỡ nào sinh ly.

HOÀNG TỬ: (Nam): Nhìn nhau đôi giọt lệ đầy,

PHƯƠNG CƠ: (Nam): (Tội lắm cha ôi!)

Tình kia đành đoạn!...

LÃO TẠ: (Nam): (Á thôi) Phút này chia tay

(Hạ)

DINH KIM HÙNG

QUÂN: Có một người già cả đến đây,

Xưng thân phụ đại quan vào viếng.

KIM HÙNG:

Nghe qua câu chuyện,

Thật rất hổ nghi.

Ông nào đã chết đi,

Ông nào còn sống đó?

Cự tuyệt thời cũng khó

Hỏi han lại sẽ hay.

Truyền với quân bay,

Mời ngay ông nọ.

(Chào ông!)

Cách mặt lâu cũng nhớ, (Té ra!...)

Coi bộ khỏe như thường

(he! Tôi hỏi lâu nay)

Ông ở đâu, mau khá tỏ tường,

Rày tới đó, việc gì nói thử?

LÃO TẠ:

Phương Cơ đã bỏ đi mất xứ,

Lão phu nay trơ trọi một thân.

Riêng xét mình quá nỗi cơ bần (3)

Tìm tới cửa, nhờ hơi phú quý.

Mừng ông đặng làm tôi Triệu thị,

Thật trông lên đúng bậc oai quyền.

(Lão đây)

Tác tuy già, sức hãy còn hãng,

Việc sai khiến, lão xin cố gắng

KIM HÙNG:

Nhắc chuyện cũ, càng thêm hổ thẹn,

Nghĩ tình xưa cũng phải phôi pha.

Ông đã đành làm trảo làm nha (4)

Việc cần phải hết lòng hết dạ, (nghe!)

(Hạ hết, lão Tạ ra)

LÃO TẠ:

Gây tội ác, con đà thái quá,

Đoạn nhân tình cha khó nhiêu dụng (Lão bây giờ)

Vẹn niềm ngay vì nước hết lòng,

Nhân đêm vắng ra tay nổi lửa.

(Âu là) (Phóng hỏa)

KIM HÙNG:

Ngọn lửa lên rất dữ,

Thế nước cứu khôn qua.

Cả tiếng kia kìa hỡi cha già.

Mau giúp sức cứu cho con trẻ.

LÃO TẠ: (Như mày) Tày trời đất, tội khôn xiết kể,

(Nói thiệt) Cắt ruột già, tao quyết chẳng tha.

Chói lòng son coi nhẹ thân già,

Mượn ngọn lửa diệt trừ giặc trẻ.

(Cha con đánh nhau, cùng chết trong lửa. Lão Tạ còn cố gượng dậy nhìn lại mặt Kim Hùng và vuốt mắt cho nó).

HẾT

(Trích Tổng tập văn học Việt Nam, tập 11, Chủ biên Hoàng Châu Ký, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)

Chú thích:

Tóm tắt vở tuồng: Nguyên vương già yếu, Bà Chánh cung đương có thai. Tên Thái sư Triệu Văn Hoán có âm mưu tiếm ngôi vua. Con trai cả của hắn là Bích Long hùa theo cha, còn con trai thứ là Tư Cung chống lại, bỏ đi tu.

Trên đường tìm đến chùa Trúc Tự, Tư Cung gặp ông già Tạ Ngọc Lân. Hai người hiểu lòng nhau, hẹn cùng nhau giúp nước khi giang sơn biến loạn. Tạ Ngọc Lân vốn là một huân thần nhưng chống đối với Triệu Văn Hoán nên đã từ quan về cày ruộng. Ông có hai con, con gái là Phương Cơ hiếu trung, hết lòng vì đại nghĩa nhưng thằng con trai lớn là Kim Hùng ngỗ nghịch, hung bạo, phản trắc và bỏ nhà chạy theo tôn phò Triệu Văn Hoán.

Vua băng, Triệu Văn Hoan định tiếm ngôi vì chưa có người kế vị, nhưng lão thần Lý Khắc Minh đã tuyên di chiếu của Nguyên vương, trao quyền cho Chánh cung nhiếp chính. Văn Hoán rất ức, bèn cùng Kim Hùng lập mưu vu oan cho bà Chánh hậu là quan hệ bí mật với một người đàn ông và đồng mưu để người ấy cướp ngôi. Thế là bà Chánh cung bị phế truất và hạ ngục. Văn Hoán tiếm ngôi.

Lý Khắc Minh lập kế lãnh tù Chánh cung về dinh mình để giam và tra hỏi kẻ đồng mưu rồi sẽ giết sau. Đưa được bà nầy về dinh rồi, nhưng Khắc Minh lo nghĩ không biết làm sao để cứu sống bà ta. Con gái ông là Xuân Hương rồi tỳ nữ là Bích Hà đều tình nguyện xin vào ngục đổi xiêm y để chết thay cho Chánh cung. Cuối cùng Bích Hà được làm việc này và Xuân Hương phải lãnh nhiệm vụ đưa bà Chánh cung đi lánh nạn.

Phương Cơ vâng lệnh cha, giả điên dại đến Kinh đô do thám tình hình và quay về báo với cha là Văn Hoán sắp giết Chánh cung. Ông Tạ Ngọc Lân đến chùa báo với Tư Cung rồi hai người lập tức ra đi, Tư Cung nói: “Thế nầy là chốn an thiềm dậy lửa trần ai!”

Giữa đêm, Kim Hùng hiệp đồng với Khắc Minh đưa Chánh cung đi nịch sát. Giữa đường bị một tráng sĩ xông vào đánh cướp tù nhân. Khắc Minh xin đi tiên phong đuổi bắt kẻ địch, ông bị thương nằm lại. Kim Hùng kéo quân đến thấy lão tướng bị thương phải dừng lại hỏi han và điều người khiêng Khắc Minh về lo điều trị. Khắc Minh làm việc này nhằm làm cho người cướp Chánh cung chạy thoát; ông chưa biết được người đó là Tư Cung. Kim Hùng vừa kéo quân đuổi tiếp thì thình lình gặp một người che mặt từ trong bụi nhảy ra đánh cho tối tăm mặt mày và phải rút quân. Người che mặt đó chính là ông Tạ Ngọc Lân.

Tư Cung và ông Ngọc Lân mừng là đã cứu được Chánh cung, hóa ra đó là Bích Hà.

Phương Cơ trở lên kinh sư và về báo với cha là mưu cơ của Khắc Minh đã bị bại lộ, nên Kim Hùng đã hạ ngục vị lão tướng và kéo quân đi vây bắt Chánh cung và Xuân Hương. Tình thế nguy cấp. Tư Cung và Bích Hà vội vã đi giải cứu Chánh cung. Phương Cơ lại lên Kinh đô, lập kế vào dinh Kim Hùng và cứu được Khắc Minh

Những người trung thành qua bao gian nguy, đã tụ tập đông đủ ở Hồng Sơn. Hoàng tử, con Chánh cung đã khôn lớn. Kim Hùng mang đại binh đến vây đánh Hồng Sơn. Không ai chống cự nổi tên hổ tướng tàn bạo này. Ông già Tạ Ngọc Lân xin ra đi, lập kế vào dinh để giết Kim Hùng. Ông nói: “Trong lửa hồng cha con lão có thiêu xương - Ngoài trời thẩm nước non nhà mới rạng vẻ”.

Mọi người làm lễ tế sống tiễn ông đi.

Khi doanh trại chảy, Kim Hùng chạy ra, bị ông Lân chặn lại. Nó đánh và bóp cổ ông, ông dùng thế võ kìm nó lại. Hai cha con cùng chết trong ngọn lửa rực hồng. Ông Lân cố gượng dậy phút cuối cùng để nhìn mặt đứa con và vuốt mắt cho nó. Diệt được Kim Hùng, phe trung thần thừa thắng tiến về Kinh đô giết loài gian nịnh và phục quốc.

* Tên đoạn trích do người soạn đề đặt: Nằm ở phần cuối vở tuồng (Tại Dinh Kim Hùng), Ông Lân (Tạ Lân) diệt được Kim Hùng (con trai mình), hai cha con chết trong ngọn lửa. Ông Lân cố gượng dậy phút cuối để nhìn mặt con và vuốt mắt cho con

(1) Thiết giản: roi sắt, một loại vũ khí bằng sắt như gươm, nhưng không sắt nhọn, dùng để đập

(2) Ấu nhi: Con nhỏ

(3) Cơ bần: Đói nghèo

(4) Trảo nha: Vuốt và nanh

Xác định thể loại của văn bản.

Quảng cáo

Trả lời:

verified Giải bởi Vietjack

Thể loại: Tuồng pho

Câu hỏi cùng đoạn

Câu 2:

Văn bản kể lại sự việc gì?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Cuộc đối thoại và chiến đấu cuối cùng giữa hai cha con Tạ Ngọc Lân và Kim Hùng để tiêu diệt phe phản trắc.

Câu 3:

Lời thoại sau thể hiện phẩm chất nào của ông lão Tạ Ngọc Lân?

LÃO TẠ: (Nam): Thà cam liều một thân tàn,

Thịt xương xây đắp giang san muôn đời

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Dũng cảm, khí phách, dám hi sinh kể cả tình riêng để bảo toàn sự trung nghĩa.

Câu 4:

Trước sự ngông cuồng của chính con trai Kim Hùng, lão Tạ (Tạ Ngọc Lân) đã đưa ra kế sách gì để dẹp trừ bạo tàn?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Đối mặt và cùng Kim Hùng thiêu cháy để diệt trừ tận gốc quân phản trắc

Câu 5:

Lời thoại của mọi người tại căn cứ Hồng Sơn cho thấy được tìnhcảm của họ với lão Tạ trước hành động quyết hi sinh của lão như thế nào?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Cảm thương, xót xa, không nỡ để lão ra đi và chấp nhận hi sinh.

Câu 6:

Đoạn trích trên thể hiện rõ được tình cảm cao đẹp thiêng liêng nào?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Tinh thần chính nghĩa và đứng về lẽ phải sâu sắc, sẵn sàng hi sinh cả tình cảm cá nhân.

Câu 7:

Liệt kê và phân tích lời thoại của nhân vật Kim Hùng và nhân vật Tạ Lân để thấy được sự đối lập của hai nhân vật này.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

 

Kim Hùng

Tạ Lân

Lời thoại tiêu biểu

- Nhắc chuyện cũ, càng thêm hổ thẹn,

Nghĩ tình xưa cũng phải   phôi pha.

Ông đã đành làm trảo làm nha

Việc cần phải hết lòng hết dạ, (nghe!)

- Truyền quân nhân gấp rút

Nối đèn đuốc sáng ngoài

Mau đón khắp mọi nơi

- Cách mặt lâu cũng nhớ, (Té ra!...)

Coi bộ khỏe như thường (he! Tôi hỏi   lâu nay)

Ông ở đâu, mau khá tỏ tường,

Rày tới đó, việc gì nói thử?

-   Bởi vô phúc sanh loài tặc bối,

Phải ra công chuộc tội   lão phu.

Miễn   đem   về nghiệp      nghìn thu,

Nào xá kể xương tàn một nắm

- Quyết vì nghiệp cả diệt loài gian.

- Tác tuy già, sức hãy còn hãng,

Việc   sai   khiến, lão xin cố gắng

- Gây tội ác, con đà thái quá,

Đoạn nhân tình cha con khó nhiêu dụng (Lão bây giờ)

- Tày trời đất, tội khôn xiết kể,

(Nói   thiệt)   Cắt ruột   già,   tao quyết chẳng tha.

Chói lòng son coi nhẹ thân già,

Mượn ngọn lửa diệt trừ giặc trẻ

Phẩn chất tính cách

- Bất hiếu, ngông cuồng

- Phản trắc sẵn sàng đấu với   cả cha mình

- Dũng cảm, anh hùng vì nghĩa lớn

- Tự nhận bản thân sinh ra kẻ nghịch tử và phải chịu trách nhiệm

- Sẵn sàng chấp nhận cái chết (cùng   con) để thực hiện lí tưởng lớn vì đất nước

Câu 8:

Chất bi hùng của sự kiện và tinh thần vì chính nghĩa được thể hiện trong đoạn trích trên như thế nào?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Chất bi hùng: Sự kiện diễn ra tại các dinh, căn cứ chiến đấu, sự đối đầu giữa hai phe chính nghĩa và phản trắc trong trận chiến phân thắng bại cuối cùng.

- Tinh thần chính nghĩa: Ông Tạ Lân sẵn sàng hi sinh tình riêng (cha con) để tiêu diệt bạo tàn, mở ra con đường tấn công cho phe chính nghĩa.

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận

+ Trình bày suy nghĩ về tinh thần chính nghĩa và vì lẽ phải trong cuộc sống ngày nay.

- Hệ thống ý:

+ Giải thích:

. Chính nghĩa là điều đúng đắn, hợp đạo lý, bảo vệ chân lý, lẽ phải và lợi ích chung của cộng đồng.

. Tinh thần vì lẽ phải là thái độ sống công minh, dám đấu tranh bảo vệ cái đúng, chống lại cái xấu, cái ác, dù có thể phải chịu thiệt thòi.

+ Biểu hiện:

. Trong đời sống hiện nay, tinh thần chính nghĩa thể hiện qua việc con người sống trung thực, công bằng, không thờ ơ trước bất công, lên tiếng bảo vệ người yếu thế.

. Trong học tập và lao động, đó là thái độ dám nhận sai, dám nói thật, tôn trọng quy tắc, giữ đạo đức nghề nghiệp.

+ Ý nghĩa:

. Giúp xã hội trở nên nhân văn, công bằng, phát triển bền vững.

. Giúp con người trở nên mạnh mẽ, bản lĩnh và được người khác tin yêu, kính trọng.

+ Phản đề:

. Ngược lại, kẻ thờ ơ, nhu nhược, bao che cho cái ác hoặc thỏa hiệp với sai trái sẽ góp phần làm xã hội tha hóa, suy đồi.

- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục

+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.

+ Thể hiện được suy nghĩ về tinh thần chính nghĩa và vì lẽ phải trong cuộc sống ngày nay.

- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:

+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.

- Sáng tạo

+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Đoạn văn tham khảo

Trong mọi thời đại, tinh thần chính nghĩa và vì lẽ phải luôn là giá trị cao đẹp của con người. Chính nghĩa là sự ngay thẳng, đúng đắn, hướng con người đến điều thiện, còn tinh thần vì lẽ phải là dám bảo vệ cái đúng, dám chống lại cái sai, dù phải đối diện với hiểm nguy hay mất mát. Trong đoạn trích Cha con tương tàn, hình tượng ông Tạ Ngọc Lân tiêu biểu cho tinh thần ấy – ông dám hi sinh tình thân để diệt trừ cái ác, bảo vệ chính nghĩa, đem lại bình yên cho đất nước. Trong cuộc sống hôm nay, tinh thần chính nghĩa được thể hiện qua thái độ trung thực, công tâm, dám lên tiếng trước bất công, bảo vệ những giá trị nhân văn. Người sống vì lẽ phải không chỉ góp phần làm xã hội tốt đẹp hơn mà còn khẳng định bản lĩnh và nhân cách của chính mình. Mỗi người trẻ hôm nay cần nuôi dưỡng tinh thần ấy trong học tập, trong công việc và trong cách ứng xử hằng ngày, để ánh sáng của chính nghĩa luôn soi đường cho cuộc sống con người.

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Trình bày suy nghĩ về bi kịch của người anh hùng trong mối xung đột giữa tình thân và nghĩa nước.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về tuồng Tam nữ đồ – tác phẩm thể hiện sâu sắc tinh thần trung nghĩa, đạo hiếu và lòng yêu nước trong văn học trung đại Việt Nam.

- Dẫn vào vấn đề: Bi kịch của người anh hùng khi phải lựa chọn giữa tình cha con và nghĩa nước là một trong những chủ đề cảm động nhất của vở tuồng, thể hiện rõ trong đoạn “Cha con tương tàn.”

* Thân bài:

a. Khái quát nội dung đoạn trích

- Ông Tạ Ngọc Lân – vị trung thần yêu nước, hết lòng vì đại nghĩa.

- Con trai ông – Kim Hùng – phản nghịch, đi theo kẻ gian Triệu Văn Hoán.

- Để cứu nước, trừ gian, ông Lân đành ra tay giết chính con mình – kẻ phản tặc, và cả hai cha con cùng chết trong ngọn lửa.

=> Bi kịch “cha con tương tàn” là cao trào bi thương nhưng cũng rực rỡ nhất của tinh thần trung nghĩa trong tuồng.

b. Phân tích ý nghĩa và chiều sâu bi kịch

- Bi kịch của người anh hùng trung nghĩa:

+ Ông Lân không chọn con mà chọn nước, không chọn tình thân mà chọn chính nghĩa.

+ Trong lựa chọn đó, ông chịu nỗi đau tột cùng – phải tự tay hủy diệt giọt máu của mình.

+ Cái chết của ông là sự hy sinh của đạo hiếu để giữ trọn đạo trung.

- Bi kịch của đạo lý làm người:

+ Giữa hai giá trị lớn – hiếu và trung – người anh hùng bị giằng xé.

+ Trong xã hội phong kiến, trung quân, ái quốc là nghĩa lớn; nhưng tuồng không miêu tả ông Lân như kẻ tàn nhẫn, mà như người đau đớn trong sáng suốt.

+ Cảnh ông vuốt mắt cho con cho thấy: ông giết giặc, không giết con; ông trừ cái ác, không dứt tình cha.

- Giá trị nhân đạo sâu sắc:

+ Tác phẩm đề cao tinh thần trung nghĩa, nhưng cũng khẳng định nỗi đau của con người trong thời loạn.

+ Bi kịch ấy khiến người đọc cảm phục và thương xót: lòng trung nghĩa của người cha hòa cùng nước mắt của tình thân.

c. Liên hệ – mở rộng

- Trong nhiều tác phẩm khác của văn học trung đại Việt Nam (như Truyện Kiều, Bình Ngô đại cáo, Chinh phụ ngâm), xung đột giữa cá nhân và đạo lý chung cũng được thể hiện, nhưng ở đây, nó đạt đến đỉnh điểm bi thương.

- Bi kịch của ông Tạ Ngọc Lân gợi nhắc đến hình tượng người trung nghĩa trong lịch sử Việt Nam: coi trọng quốc gia hơn bản thân, dẫu phải chịu mất mát riêng.

- Trong thời hiện đại, dù hoàn cảnh khác, bài học về sự lựa chọn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng vẫn còn nguyên giá trị.

* Kết bài:

- Khẳng định: Bi kịch “cha con tương tàn” không chỉ là nỗi đau riêng của một gia đình, mà là biểu tượng của lòng trung nghĩa, của đạo lý “vì nước quên thân.”

- Đó là vẻ đẹp lớn lao nhưng cũng thấm đẫm nước mắt – nơi con người đạt đến đỉnh cao của nhân cách trong hy sinh.

Bài viết tham khảo

Trong kho tàng tuồng cổ Việt Nam, Tam nữ đồ là một trong những vở diễn tiêu biểu cho tinh thần trung hiếu, cho vẻ đẹp bi tráng của con người thời loạn. Đoạn trích “Cha con tương tàn” là điểm kết đầy xúc động của vở, nơi người cha – ông Tạ Ngọc Lân – phải tự tay giết đứa con phản nghịch để bảo vệ giang sơn. Bi kịch ấy không chỉ gợi nỗi xót xa, mà còn khiến ta suy ngẫm sâu sắc về thân phận người anh hùng khi bị giằng xé giữa nghĩa nước và tình nhà.

Ông Tạ Ngọc Lân vốn là bậc trung thần nghĩa sĩ, luôn đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Trong khi đó, con trai ông – Kim Hùng – lại theo kẻ gian thần Triệu Văn Hoán làm loạn triều đình. Khi cuộc khởi nghĩa trung nghĩa ở Hồng Sơn bị bao vây, ông Lân hiểu rằng chỉ bằng cái chết của cha con ông mới có thể cứu nước nhà. Ông quyết định vào dinh Kim Hùng, giả hàng để tiêu diệt giặc. Giữa ngọn lửa hồng, cha con gặp nhau – không phải để đoàn tụ, mà để kết thúc bi kịch. Ông Lân giết con, rồi cũng ngã xuống trong lửa. Trước khi chết, ông còn gắng gượng vuốt mắt cho con. Khoảnh khắc ấy bi thương đến tột cùng: một người cha giết giặc bằng tay, nhưng vuốt mắt cho con bằng tim.

Bi kịch của ông Tạ Ngọc Lân là bi kịch của người trung nghĩa bị dồn đến chỗ phải hy sinh tình thân để giữ trọn nghĩa nước. Ông hiểu rằng Kim Hùng không còn là con, mà đã thành kẻ phản quốc, là “giặc trẻ” phải trừ. Giết nó, ông đau đớn tột cùng, nhưng không thể khác. Cái chết của ông vì thế vừa bi vừa hùng: bi vì máu thịt bị chia lìa, hùng vì chính nghĩa được bảo toàn. Hành động ấy thể hiện lý tưởng đạo đức cao đẹp của con người Việt Nam xưa: trung với nước, hiếu với cha mẹ, nhân với dân, dù trong hoàn cảnh nào cũng giữ trọn tiết tháo.

Tuy nhiên, đằng sau bi tráng ấy là nỗi nhân đạo sâu sắc. Tuồng không khắc họa ông Lân như kẻ lạnh lùng, mà như một con người bằng xương thịt – có nước mắt, có tình yêu, có đớn đau. Khi ông vuốt mắt cho con, ta hiểu: ông giết tội ác, chứ không giết tình cha. Tác phẩm vì thế vừa ca ngợi trung nghĩa, vừa thương cho thân phận con người trong cơn biến loạn.

Ngày nay, khi đất nước không còn khói lửa chiến tranh, bài học từ bi kịch “cha con tương tàn” vẫn còn nguyên giá trị. Nó nhắc nhở mỗi người biết đặt lợi ích chung lên trên cái riêng, dám lựa chọn chính nghĩa, dẫu phải chịu thiệt thòi. Đó chính là ánh sáng đạo lý mà văn học truyền thống gửi gắm cho hậu thế.

Bi kịch của người anh hùng Tạ Ngọc Lân là tấm gương sáng về lòng trung nghĩa và nhân cách lớn. Trong ngọn lửa cháy rực, người cha già chết đi, nhưng ngọn lửa ấy không chỉ thiêu đốt thân xác – nó còn thắp sáng một niềm tin bất diệt vào sức mạnh của chính nghĩa và của tình người.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP