Câu hỏi:

29/10/2025 72 Lưu

NỖI OAN HẠI CHỒNG

(Trích Quan Âm Thị Kính)

THIỆN SĨ: (nói sử) Nàng ơi, đã bao lâu soi kinh bóng quế (1))

Ta dùi mài đợi hội long vân (2)

Đêm nay nghe mỏi mệt tâm thần

Mượn kỉ này ta nghỉ lưng một lát.

(Thị Kính dọn kỉ rồi ngồi quạt cho chồng. Thiện Sĩ thiu thiu ngủ. Một lát, Thị Kính chăm chú nhìn dưới cằm chồng, băn khoăn).

THỊ KÍNH: (nói sử) Đạo vợ chồng trăm năm kết tóc (3),

Trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta.

Râu làm sao một chiếc trồi ra?

Dị hình sắc dưới cằm mọc ngược

Khi chàng thức giấc biết làm sao được.

Nay đang cơn giấc ngủ mơ màng

Dạ thương chồng lòng thiếp sao an

Âu dao bén, thiếp xén tày một mực.

(Thị Kính cầm dao khâu xén chiếc râu. Thiện Sĩ chợt giật mình choàng thức dậy, hốt hoảng nắm lấy dao kêu lên).

THIỆN SĨ: Hỡi cha! Hỡi mẹ! Hỡi xóm! Hỡi làng!

Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm sao thấy sự bất thường...

(Sùng ông, Sùng bà cùng hốt hoảng chạy ra).

SÙNG BÀ: Làm sao đấy hở? Làm sao?

SÙNG ÔNG: Bất thường làm sao? Việc gì ban đêm không để xóm giềng ngủ. Vợ chồng lại rầm rĩ lên như thế?

THIỆN SĨ: (nói đếm)

Thưa cha mẹ, đêm qua con ngồi học đã khuya

Vừa chợp mắt thấy dao kia kề cổ.

Con nói đây, có quỷ thần hai vai chứng tỏ

Dầu thực hư đôi lẽ con chưa tường.

SÙNG ÔNG: Hú vía! Kề cổ mày hay kẻ cổ ai hở con?

SÙNG BÀ: (gắt Sùng ông)

Thôi đi, lại còn kề cổ ai vào đây nữa?

Cái con mặt sứa gan lim này! Mày định giết con bà à? (Dúi đầu Thị Kính ngã xuống) Úi chao! Tôi đã bảo ông mà!

Lấy vợ cho con thì phải kén họ. Tôi đã bảo là phải kén những nơi công hầu kia mà! (Múa hát sắp chợt)

Giống phượng giống công

Giống nhà bà đây giống phượng giống công.

Còn tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ.

Chứ bây giờ bay mới lộ cái mặt ra,

Chứ bây giờ sao chẳng mở cái mồm ra ?

THỊ KÍNH: (khóc)

Lạy cha, lạy mẹ! Cho con xin trình cha mẹ...

SÙNG BÀ: Thôi câm đi! Lại còn dám mở mồm nữa à?

(Tiến lại phía Thiện Sĩ) Úi chao! Hú hồn hú vía cho con tôi!

Giải kiếp! Giải kiếp! (Quay lại Thị Kính)

(Nói lệch) Cả gan! Cả gan! Cái con này thật cả gan! May cho con tao sực tỉnh giấc vàng,

Tỉnh tình tinh nữa còn gì mà không chết?

Này con kia! Mày có trót say hoa đắm nguyệt

Đã trên dâu dưới bộc hẹn hò...

THỊ KÍNH: (vật vã khóc) Giời ơi ! Mẹ ơi, oan con lắm mę ơi!

SÙNG BÀ: (nói tiếp) Mày cứ thú với bà, bà cũng thứ đi cho.

Can chi phải dụng tình bất trắc.

Mày ngửa mặt lên cho bà xem nào

SÙNG ỐNG: Thì mày ngửa lên cho bà ấy xem !

(Thị Kính ngửa mặt rũ rượi)

SÙNG BÀ: (nói lệch) Ôi chao ơi là mặt!

Chém bỏ băm vằm sả sích mặt!

Gái say trai lập chí giết chồng!

THỊ KÍNH: Oan cho con lắm mẹ ơi!

Chàng học khuya mỏi mệt.

Con thấy râu mọc ngược dưới cằm

SÙNG BÀ: Lại còn oan à?

Rõ rành rành mười mắt đều trông.

Phi mặt gái trơ như mặt thớt!

SÙNG ÔNG: Thì ra con Thị Kính này nó là gái giết chồng thật hở bà?

SÙNG BÀ: Úi giời ơi! Chồng với con! Ông chửa mở mắt được ra mà trông kia kìa (trỏ con dao dưới đất).

Lúc nào cũng rượu, lúc nào cũng say.

Ăn nói thì lèm bèm lèm bèm...

SÙNG ÔNG: Thì tôi biết đâu! Tôi cứ tưởng như tôi với bà ngày còn trẻ kia đấy. Tôi thì tôi đồ chừng chỉ là cái chuyện như tôi với bà cái thuở đương thì đấy thôi bà ạ.

SÙNG BÀ: (đay nghiến Sùng ông) Đương với chả thì... (kéo Sùng ông vào phản) Không biết gì thì ông ngồi chết xuống đây này!

SÙNG ÔNG: Ừ thì ngồi!

SÙNG BÀ: Này con kia ! Tam tòng tứ đức nhà mày để ở đâu hử? (nói lệch) Sao mày không sợ gươm trời búa nguyệt,

Cả gan thay cho bụng đàn bà.

Ngựa bất kham thôi về Bổng Báo (4)

Này, bà bảo cho mà hay này : đồng nát thì về Cầu Nôm (5) , con gái nỏ mồm thì về ở với cha, biết không ?

Trứng rồng lại nở ra rằng

Liu điu lại nở ra dòng liu điu.

(nói lệch) Này! Nhà bà đây cao môn lệnh tộc (6)

Mày là con nhà cua ốc

Cho nên chữ tam tòng mày ăn ở đơn sai

Chả công đâu bà đánh mắng cho hoài

Gọi Mãng tộc, phó về cho rảnh thôi ông ạ!

Ơ hay! ... Thế ông vẫn ngồi chết ở đấy à?

SÙNG ÔNG: Sao bà bảo tôi ngồi chết dí xuống đây thì tôi đừng ngồi à ?

SÙNG BÀ: Không biết gọi Mãng ông sang đây mà giao giả con Thị Kính kia đi. Để như vậy con mình có ngày chết oan vì nó đấy. Thôi ông đi đi!

SÙNG ÔNG: Ừ thì đi!

THỊ KÍNH: (với Thiện Sĩ) Oan thiếp lắm chàng ơi!

SÙNG BÀ: Thôi con vào rửa mặt mà đọc sách. Rồi đây mẹ lấy cho dăm bảy vợ, tiếc gì cái đồ sát chồng kia nữa!

THỊ KÍNH: Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!

SÙNG BÀ: Hãy còn oan à? (với Thiện Sĩ) Đi! Đi vào!

(Thị Kính chạy theo van xin, Sùng bà dúi tay ngã khuỵu xuống thì có tiếng Sùng ông nói từ ngoài cổng).

SÙNG ỐNG: Ông Mãng ơi, ông sang mà ăn cữ cháu!

MÃNG ÔNG: Đấy, tôi biết ngay mà! Mạ già ruộng ngấu, không cắm cây mạ thì thôi, chứ đã cắm là mọc ngay cây lúa cho mà xem.

SÙNG ÔNG: Ông khoe con ông nữ tắc nữ công nhỉ?

MÃNG ÔNG: Vâng thi cháu đủ nữ tắc nữ công đấy chứ

SÙNG ỐNG: Đây này! (cầm con dao giơ vào mặt Mãng ông) Đang nửa đêm nó cầm dao giết chồng đây này!

MÃNG ÔNG: Úi chao Thật thế hở ông?

SÙNG ÔNG: Ông chưa mở mắt ra mà trông đấy à? (chỉ Thị Kính) Đấy, con ông đấy, ông đem về mà dạy bảo. Từ giờ trở đi ông hãy bớt cái mồm mà khoe khoang, nữ tắc với chả nữ công. Về đi!

MÃNG ỐNG: Ông ơi! Ông cho tôi biết đầu đuôi câu chuyện với, ông ơi!

SÙNG ÔNG: Biết này !

(Sùng ông dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào. Thị Kính chạy vội lại đỡ cha. Hai cha con ôm nhau than khóc).

MĂNG ÔNG: Con bị! Con ăn ở ra sao mà nên nông nỗi này hở con?

THỊ KÍNH: Cha ơi! Oan cho con lắm cha ơi!

MẢNG ỐNG: Oan cho con lắm à? (sử rầu rồi vãn)

Con ơi! Dù oan dù nhẫn chẳng oan

Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào?

Thôi sự tình về nhà nói cho cha mẹ biết.

Dù oan, ngay, giờ biết kêu ai.

Thôi đứng dậy về cùng cha,

Rồi cha liệu cho con.

(Thị Kính dẫn cha đi một quãng, Mãng ông quay lại)

Về cùng cha, con ơi!

(Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa rồi dừng lại và thở than, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay).

THỊ KÍNH: (hát sử rầu)

Thương ôi! Bấy lâu sắt cầm tịnh hảo (7)

Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi.

Nghĩ trách mình phận hẩm duyên đi

Cho nên nỗi thế tình run rủi!

(nói thảm) Về cùng cha! Có trở về như vậy

Cũng không sao tránh khỏi tiếng mỉa mai.

Không không phải sống ở đời mới mong tỏ rõ là người đoan chính...

(sử rầu tiếp) Con vọng bái nghiêm từ (8) tôn kính

Con tìm nơi khuất mặt cho xong.

Trách lòng ai nỡ phụ lòng

Đang tay nỡ bẻ phím đồng làm đôi

Nhật nguyệt rạng soi

Thấu tình chăng nhẽ

Trước con lạy cha, sau con lạy mẹ

Thay áo quần giả dạng nam nhi

(hát ba than) Áo chít cài khuy

Nay tôi quyết tâm trá hình nam tử bước đi tu hành.

Cầu Phật tổ chứng minh.

(Thị Kính lặng lẽ bước ra khỏi nhà họ Sùng, hướng về phía chân trời chớm rạng đông thì màn từ từ khép lại).

(Theo ĐỖ BÌNH TRỊ, HOÀNG HỮU YÊN: Văn tuyển văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, H., 1983)

Chú thích:

Tóm tắt vở chèo:

Vở chèo có thể chia làm ba phần

1. Án giết chồng

Thiện Sĩ, con Sùng ông Sùng bà, kết duyên cùng Thị Kính, con gái Mãng ông, một nông dân nghèo. Một hôm, vợ ngồi khâu, chồng đọc sách rồi thiu thiu ngủ bên cạnh. Thấy chồng có sợi râu mọc ngược, Thị Kính cầm dao ở thủng toan xén đi. Thiện Sĩ giật mình, bất giác hô hoán lên. Cha mẹ chồng đổ riệt cho Thị Kính có ý giết Thiện Sĩ, đuổi Thị Kính về nhà bố đẻ.

2. Án hoang thai

Bị oan ức nhưng không biết kêu vào đâu, Thị Kính đi tu. Giả trai, vào tu ở chùa Vân Tự, lấy pháp hiệu là Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông vốn tính lẳng lơ, say mê Kính Tâm. Ve vãn Kính Tâm không được, Thị Mầu về nhà đùa ghẹo, ăn nằm với anh Nô là người ở, rồi có chửa. Làng bắt vạ. Bí thế, Thị Màu khai cho Kính Tâm. Kính Tâm chịu oan tình, bị đuổi ra tam quan (cổng chùa). Thị Mầu đem con bỏ cho Kính Tâm.

3. Oan tình được giải – Thị Kính lên tòa sen

Trải ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày nuôi con của Thị Mầu. Rồi nàng “hóa”, được lên tòa sen, trở thành Phật bà Quan Âm. Trước khi “hóa”, Kính Tâm viết thư để lại cho đứa trẻ. Bấy giờ mọi người mới rõ Kính Tâm là gái và hiểu rõ tấm lòng từ bi nhẫn nhục của nàng.

(1) Soi kinh bóng quế: ý nói chăm đọc sách mong được thi đỗ. .

(2) Long vân: ý nói thi cử đỗ đạt (rồng gặp mây).

(3) Chỉ những cuộc tình bất chính (trên bãi sông Bộc, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, trong ruộng dâu là chỗ ngày xưa, trai gái nước Trịnh và nước Vệ hay hẹn hò nhau ra đó để tình tự).

(4) Bổng Báo: tức thôn Bổng Thượng thuộc Vĩnh Lộc (Thanh Hóa), một nơi đất văn vật thời xưa, xe ngựa dập dìu, người ta thường đưa ngựa bất kham về đây thuần hóa được cả.

(5) Cầu Nôm: thuộc huyện Mỹ Văn (Hưng Yên) ngày nay, có nghề đúc đồng.

(6) Cao môn lệnh tộc: chỉ nơi giàu có, quyền thế.

(7) Sắt cầm tịnh hảo: ý nói tình vợ chồng hòa hợp (sắt, cầm là hai thứ đàn cổ).

(8) Nghiêm từ: cha mẹ.

Xác định thể loại của văn bản.

Quảng cáo

Trả lời:

verified Giải bởi Vietjack

Thể loại: chèo cổ.

Câu hỏi cùng đoạn

Câu 2:

Văn bản kể lại sự việc gì?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Thị Kính với ý định cắt râu mọc ngược cho chồng nhưng bị nghi oan là muốn giết chồng.

Câu 3:

Thái độ của Sùng Ông và Sùng Bà trước lời kêu cứu của Thiện Sĩ khác nhau như thế nào?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Sùng Bà ngay lập tức đổ lỗi, trách cứ và buộc tội con dâu là Thị Kính, Sùng Ông bán tính bán nghi không tin nhưng rồi cũng buộc phải nghe theo Sùng Bà.

Câu 4:

Đoạn nói lệch của Sùng Bà thể hiện được thái độ của nhân vật với Thị Kính như thế nào?

SÙNG BÀ: (nói lệch) Ôi chao ơi là mặt!

Chém bỏ băm vằm sả sích mặt!

Gái say trai lập chí giết chồng!

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Đay nghiến, mỉa mai, lên án mạnh mẽ hành động cố ý giết chồng của Thị Kính.

Câu 5:

Lời hát sử rầu của Thị Kính ở cuối đoạn trích cho thấy điều gì về nàng?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Khẳng định sự đoan chính và không muốn trở về khiến cho mẹ xấu hổ, quyết định đi giả nam tu hành.

Câu 6:

Đáp lại những lời kêu oan của Thị Kính, Sùng ông, Sùng bà đã có hành động gì?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Liên tiếp buộc tội Thị Kính và trả Thị Kính về nhà Mãng ông.

Câu 7:

Theo anh/ chị, lí do nào khiến Thị Kính chẳng thể minh oan?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Do xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, lời nói của người phụ nữ không có trọng lượng minh oan.

Câu 8:

Liệt kê và phân tích lời thoại cho thấy được thái độ của Sùng Bà đối với Thị Kính? Theo anh/ chị, có những lí do khiến Sùng Bà có những lời lẽ và hành động như vậy?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- HS liệt kê được một số lời thoại của Sùng bà:

+ Mày cứ thú với bà, bà cũng thứ đi cho.

Can chi phải dụng tình bất trắc.

Mày ngửa mặt lên cho bà xem nào

+ Ôi chao ơi là mặt!

Chém bỏ băm vằm sả sích mặt!

Gái say trai lập chí giết chồng!

+ Hãy còn oan à? (với Thiện Sĩ) Đi! Đi vào!

+ Không biết gọi Mãng ông sang đây mà giao giả con Thị Kính kia đi. Để như vậy con mình có ngày chết oan vì nó đấy. Thôi ông đi đi!

- Nhận xét lời thoại của Sùng Bà: Đầy cay nghiệt, luôn đổ lỗi, chỉ trích, không lắng nghe Thị Kính giải thích mà buộc tội và gán cho nàng án oan.

=> Số phận của người phụ nữ không được nói lên tiếng nói để bảo vệ danh dự và phẩm giá của mình

Câu 9:

Vì sao toàn bộ cuộc đối thoại nỗi oan Thị Kính, Thiện Sĩ lại không nói lời nào hoặc chỉ nói rất ít?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

HS có thể trả lời bằng suy nghĩ và cảm nhận của bản thân:

- Nhân vật Thiện Sĩ không xuất hiện hay có lời thanh minh cho vợ mình để tô đậm sự thiệt thòi của Thị Kính, không được chồng thấu hiểu, chia sẻ và che chở.

- Thiện Sĩ nghe lời mẹ và cũng tự cho mình quyền gán nỗi oan hại chồng cho Thị Kính.

Câu 10:

Đoạn trích trên đã cho thấy phẩm chất và số phận gì của Thị Kính nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Vẻ đẹp phẩm chất: Yêu thương, thủy chung quan tâm chồng, hết lòng vì gia đình nhà chồng.

- Số phận: Chịu nỗi oan ô nhục, bị trả về cha mẹ đẻ, không thể cất lên tiếng minh oan cho bản thân.

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích, làm rõ giá trị nhân đạo của tác phẩm qua bi kịch và hành động của nhân vật Thị Kính.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về vở chèo Quan Âm Thị Kính — một tác phẩm kinh điển của sân khấu dân gian Việt Nam.

- Nêu vấn đề nghị luận: Vở chèo thể hiện sâu sắc giá trị nhân đạo thông qua hình tượng nhân vật Thị Kính — người phụ nữ chịu oan khuất nhưng vẫn giữ lòng bao dung, vị tha.

* Thân bài:

1. Khái quát về tác phẩm và đoạn trích

- Quan Âm Thị Kính là một trong những vở chèo cổ nổi tiếng nhất của Việt Nam, phản ánh thân phận, phẩm chất và nỗi oan của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

- Đoạn trích trên thuộc phần đầu – “Án giết chồng” – mở đầu cho chuỗi bi kịch cuộc đời Thị Kính.

2. Bi kịch của Thị Kính – hiện thân cho nỗi đau con người

- Thị Kính vốn là người vợ hiền thục, yêu thương và chăm sóc chồng.

- Chỉ vì hành động cắt sợi râu mọc ngược, nàng bị nghi oan là định giết chồng.

- Sự hiểu lầm và thái độ tàn nhẫn của mẹ chồng, chồng và cả làng xã đã đẩy Thị Kính vào con đường cùng, không nơi nương tựa.

Bi kịch ấy phản ánh sự phi lý, tàn bạo của lễ giáo phong kiến: người lương thiện bị hắt hủi, nỗi oan không được minh giải.

3. Vẻ đẹp nhân đạo trong hình tượng Thị Kính

- Dù bị xúc phạm, Thị Kính không oán hận, không trả thù; nàng chọn con đường tu hành để giữ trọn lòng trong sạch.

- Khi bị nghi oan lần thứ hai (án hoang thai), nàng vẫn im lặng chịu đựng, nuôi con của Thị Mầu bằng tấm lòng nhân từ vô hạn.

- Cái chết và sự hóa thân thành Phật Bà Quan Âm là kết tinh cao nhất của lòng nhân ái, sự tha thứ và đức hi sinh – biểu tượng cho tình thương, sự bao dung của con người Việt Nam.

4. Nghệ thuật thể hiện giá trị nhân đạo

- Sử dụng nghệ thuật chèo dân gian: kết hợp lời hát, lời nói, điệu bộ, tính kịch và yếu tố hài – bi đan xen.

- Ngôn ngữ bình dị, giàu sức gợi, mang đậm sắc thái đời sống dân gian.

- Cấu trúc ba phần (án giết chồng – án hoang thai – hóa Phật) làm nổi bật tiến trình bi kịch và tỏa sáng của nhân vật chính.

Nghệ thuật giản dị nhưng thấm đẫm cảm xúc nhân đạo, thể hiện lòng thương người, đặc biệt là thương người yếu thế.

* Kết bài:

- Khẳng định lại: Qua hình tượng Thị Kính, vở chèo đã gửi gắm giá trị nhân đạo sâu sắc — cảm thương, trân trọng con người, đề cao lòng vị tha và khát vọng công lí.

- Liên hệ: Tư tưởng nhân đạo ấy vẫn còn nguyên giá trị hôm nay – nhắc nhở mỗi người sống bao dung, biết thấu hiểu và yêu thương.

Bài viết tham khảo

Vở chèo Quan Âm Thị Kính là một trong những kiệt tác của sân khấu dân gian Việt Nam, chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Qua hình tượng người phụ nữ hiền lành, chịu nhiều oan khuất, tác phẩm thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo — niềm cảm thông, trân trọng và ngợi ca phẩm chất cao đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ.

Đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” mở đầu cho chuỗi bi kịch cuộc đời của nhân vật chính. Thị Kính là người vợ hiền thục, luôn chăm lo cho chồng, nhưng chỉ vì một hành động nhỏ là cắt sợi râu mọc ngược, nàng bị nghi oan là định giết chồng. Không có cơ hội giải thích, Thị Kính bị mẹ chồng mắng nhiếc, đuổi đi giữa đêm khuya. Từ một người vợ hiền, nàng trở thành “tội nhân” chỉ vì định kiến và sự mù quáng của người đời. Đó là bi kịch điển hình của con người trong xã hội phong kiến – nơi đạo đức bị bóp méo bởi quyền lực gia trưởng và lễ giáo khắc nghiệt.

Nhưng chính trong nỗi oan ấy, vẻ đẹp nhân đạo của tác phẩm được tỏa sáng. Thị Kính không oán hận, không tìm cách phản kháng, mà chọn con đường tu hành, mong giữ lòng trong sạch. Khi bị nghi oan lần thứ hai, nàng vẫn lặng lẽ chịu đựng, nuôi nấng đứa con của kẻ khác bằng tình thương vô bờ bến. Hình tượng Thị Kính vì thế không chỉ là người phụ nữ nhẫn nhịn mà còn là biểu tượng của lòng nhân từ, của đức hi sinh, của sự hóa giải hận thù bằng tình yêu thương. Nàng chính là hiện thân của tinh thần “từ bi, hỉ xả” trong đạo Phật và truyền thống nhân hậu của dân tộc Việt Nam.

Giá trị nhân đạo của Quan Âm Thị Kính còn thể hiện qua nghệ thuật biểu hiện đầy tinh tế của chèo cổ. Ngôn ngữ bình dị, dân gian, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân. Các tình huống kịch được xây dựng khéo léo, tạo nên xung đột giữa thiện và ác, giữa hiền lành và độc ác, giữa lòng nhân hậu và sự tàn nhẫn. Bằng nghệ thuật đối lập ấy, tác phẩm không chỉ khiến người xem xúc động mà còn thức tỉnh lòng người về sự công bằng và lòng nhân ái.

Quan Âm Thị Kính là tiếng nói nhân đạo bất diệt trong kho tàng văn học Việt Nam. Qua bi kịch và phẩm hạnh của Thị Kính, tác phẩm khẳng định niềm tin vào sức mạnh của tình thương, lòng bao dung và sự thiện lương trong con người. Dù thời gian đã qua đi, thông điệp ấy vẫn còn nguyên giá trị: con người chỉ thực sự hạnh phúc khi biết sống yêu thương, vị tha và tôn trọng lẫn nhau.

Lời giải

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận

+ Suy nghĩ về thân phận và phẩm chất người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

- Hệ thống ý:

+ Thị Kính là người phụ nữ hiền lành, thùy mị, hết lòng vì chồng, nhưng lại bị nghi oan là có ý giết chồng chỉ vì một hành động vô tình.

+ Nàng bị gia đình chồng đay nghiến, sỉ nhục, đuổi đi không cho thanh minh.

+ Bi kịch của Thị Kính là biểu tượng cho số phận bất công của người phụ nữ trong xã hội xưa – chịu đựng, không có tiếng nói, bị áp bức bởi lễ giáo “tam tòng, tứ đức”.

+ Dù đau khổ, nàng vẫn giữ tấm lòng nhân hậu, nhẫn nhục, chọn con đường tu hành để giữ trọn phẩm hạnh.

=> Qua đó, ta thấy vẻ đẹp đạo đức, lòng vị tha và sức chịu đựng phi thường của người phụ nữ Việt Nam.

- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục

+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.

+ Thể hiện rõ suy nghĩ về thân phận và phẩm chất người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:

+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.

- Sáng tạo

+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Đoạn văn tham khảo

Trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” trong vở chèo Quan Âm Thị Kính đã để lại nhiều xót xa về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Thị Kính là người vợ hiền thục, hết lòng chăm sóc chồng, vậy mà chỉ vì một sợi râu mọc ngược và hành động cắt râu trong lúc chồng ngủ, nàng bị nghi oan là định giết chồng. Không được minh oan, Thị Kính phải chịu sự sỉ nhục, mắng nhiếc của mẹ chồng và bị đuổi khỏi nhà. Qua hình tượng Thị Kính, ta thấy rõ số phận éo le, bất công của người phụ nữ trong xã hội cũ — họ không có quyền lên tiếng, bị ràng buộc trong khuôn phép khắc nghiệt của “tam tòng, tứ đức”. Tuy nhiên, dù đau khổ, Thị Kính vẫn giữ trọn tấm lòng hiền hậu, chọn con đường tu hành để hóa giải nỗi oan. Nàng là biểu tượng cho vẻ đẹp của lòng nhân từ, vị tha và phẩm hạnh sáng ngời. Tác phẩm gửi gắm giá trị nhân đạo sâu sắc: trân trọng, cảm thông và bảo vệ phẩm giá của người phụ nữ trong mọi thời đại.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP