Bộ 10 đề thi cuối kì 2 Ngữ Văn lớp 11 Cánh diều có đáp án - Đề 10

27 người thi tuần này 4.6 1.8 K lượt thi 11 câu hỏi 90 phút

Nội dung liên quan:

Danh sách câu hỏi:

Đoạn văn 1

Mời trầu của Hồ Xuân Hương

Hoàng Hữu Yên

(1) Bài thơ Mời trầu đi vào lòng người như một câu chuyện tâm tình. Là một bài tứ tuyệt (bốn câu ba vần) rất hay và rất mẫu mực về cấu trúc, về niêm luật và vần điệu, có thể so sánh với bất cứ bài thơ luật Đường đặc sắc nào bằng chữ Hán. Thế mà đọc thơ chúng ta không có cảm tưởng đó là một thể thơ nhập nội, bởi lẽ “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương đã Việt hóa đến kì tài về cả hai mặt nội dung diễn đạt và hình thức biểu hiện. 

(2) Câu chuyện chẳng có gì cao siêu mà hết sức thông thường gắn với phong tục tập quán về giao tiếp của người Việt : tục mời trầu “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Dù khách quen hay khách lạ, khách thường hay khách sang, chủ nhân bao giờ cũng có cơi trầu đãi khách. Đã thành tục lệ truyền thống lâu đời thì từ lá trầu, quả cau cho đến cách bổ cau, têm trầu cũng khá nhiêu khê ! Có trầu quế, trầu hối cũng có trầu cay, trầu hội; có cách tâm bình thường cũng có cách tâm cánh phượng. Có cau tươi, cau khô, cau già, cau non, cau quà to, cau quả nhỏ, cau tiễn chũm lòng đào... Miếng trầu phần nào nói lên sự ứng xử đa dạng của con người “Cau non tiễn chũm lòng đào, trầu têm cánh phượng” thường dùng để đãi khách quý. 

(3) Xuân Hương cũng đãi khách bằng “mời trầu” nhưng có khác người thường 

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương đã quệt rồi

Cơi trầu Xuân Hương đãi khách - chắc chắn là khách quý, có thể là người tình đã ít nhiều qua lại, gắn bố - xem ra đơn bạc quá sao ? (Cau nhỏ, trầu hôi). Không, đừng vội lầm tưởng Xuân Hương đãi bôi, không trọng thị khách quen, vì quen quá hóa nhờn! Cả hai câu toát lên ý nghĩa về cách ứng xử khiêm tốn mà rất chân tình. “Này của Xuân Hương” lời chan chứa cái chân tình hồn hậu vốn có, không chút khoa trương, khách khí. Tất cả những gì thuộc về Xuân Hương đều không tô vẽ hoa lá mà mộc mạc chân chất như thế đó. Cách nói khiêm tổn này vốn là lối ứng xử tế nhị của nhân dân. Ta đã chẳng thấy cô thôn nữ đáng yêu cũng đã từng tự  khiêm như vậy sao? “Thân em như hạt mưa sa ; thân em như quả mít trên cây…”. Càng nói khiêm càng chứng tỏ phẩm chất đáng quý của chính bản thân mình.

Tự khiêm khác với tự ti, không năn nỉ cầu xin sự ban ơn nào cả! Xuân Hương tự khiêm vì nàng ý thức được phẩm giá của chính mình. 

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá bạc như vôi! 

Chính do có ý thức sâu sắc về mình như thế, Xuân Hương đã không dè dặt ngân ngại giãi bày minh bạch thái độ của mình trước một chuyện hệ trọng chuyện nhân duyên. Có phải duyên nghĩa là nếu đúng là duyên số, duyên ưa phận đẹp như cách nói văn hoa trong Truyện Kiều: “Rằng : trong tác hợp cơ trời”, “thì thắm lại” tức là duyên đằm thắm gắn bó sắt son, nên đổi nên lứa hay nói như dân gian “Có thương thì thương cho chắc; Bằng trục trặc thì trục trặc cho luôn..” (Dân ca Nghệ Tĩnh). Phải có bản lĩnh cao mới sòng phẳng đặt vấn đề như vậy. Nó sẽ là cái “kính chiếu yêu” để soi thấu cái quan hệ nhập nhằng “già nhân ngãi non vợ chồng”, cái tâm địa “tiếc rẻ” của đấng mày râu nào đó. Và một khi đường ranh giới đã được phân định trắng và đen không có khả năng nhập nhèm lẫn lộn thị lời răn vừa nhắc nhủ vừa phê phán “Đừng xanh như lá, bạc như vôi” hẳn là hoàn toàn thích đáng. 

Cái “màu xanh như lá”, không phải là màu xanh của thương nhớ như “Ngàn dâu xanh ngắt một màu “ (Chinh phụ ngâm khúc) và màu trắng là màu vôi tôi bạc thếch. Chỉ có màu mà không có hương sắc. Nhạt nhẽo quá! Liệu còn chút gì là tình nghĩa, là hi vọng? 

Bài Mời trầu chưa đưa nữ sĩ vào thế giới của tuyệt vọng - hẳn là nhà thơ hãy còn rất trẻ - Nhưng vẫn ngân lại trong lòng người đọc một nỗi buồn lai láng. Cuộc đời sao lại phũ phàng đến thế! 

(4) Chỉ là một tục lệ “mời trầu” phổ thông nhưng với lời thơ bình dị có âm vang, với cấu tứ độc đáo và gợi cảm, bài tứ tuyệt dạo lên một khúc nhạc đầu về số phận không mấy suôn sẻ của người phụ nữ và về bản lĩnh của họ trong cuộc sống. Đó là tài thơ cũng là phong cách của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. 

(Giảng văn văn học Việt Nam - Nhiều tác giả. NXB GD 1999)

Câu 1

Văn bản trên thuộc thể loại/ tiểu loại nào?

Lời giải

C. Văn bản nghị luận văn học, đánh giá giá trị tác phẩm thơ

Câu 2

Nhan đề văn bản Mời trầu của Hồ Xuân Hương cung cấp cho người đọc thông tin nào?

Lời giải

B. Đối tượng, phạm vi bàn luận của văn bản

Câu 3

Dòng nào không thuộc nội dung các luận điểm văn bản Mời trầu của Hồ Xuân Hương?

Lời giải

D. Nhân vật Xuân Hương xưng danh, xuất hiện từ đầu đến cuối câu chuyện, chủ động trong cuộc thoại

Câu 4

 Luận điểm nào đóng vai trò quan trọng nhất trong văn bản Mời trầu của Hồ Xuân Hương?

Lời giải

C. Xuân Hương đãi khách bằng Mời trầu khác người thường

Câu 5

Dòng nào nói lên bằng chứng tiêu biểu độc đáo của luận điểm 2?

Lời giải

B. Dùng dẫn chứng gián tiếp từ sự hiểu biết về phong tục giao tiếp của người Việt Nam

Câu 6

Câu “Nhưng vẫn ngân lại trong lòng người đọc một nỗi buồn lai láng” làm sáng tỏ luận điểm nào?

Lời giải

C. Xuân Hương đãi khách bằng Mời trầu khác người thường

Câu 7

Văn bản Mời trầu của Hồ Xuân Hương bàn về khía cạnh nào của tác phẩm?

Lời giải

C. Mạch cảm xúc độc đáo của tác phẩm

Câu 8

Dòng nào nói lên mục đích chính của văn bản Mời trầu của Hồ Xuân Hương?

Lời giải

A. Bài Mời trầu đi vào lòng người như một câu chuyện tâm tình

Câu 9

Xác định ý nghĩa của văn bản, thái độ và tình cảm của người viết dành cho nhà thơ Hồ Xuân Hương.

Lời giải

 Ý nghĩa: Khẳng định giá trị bài thơ Mời trầu từ góc nhìn riêng. Trong lời mời trầu tưởng như bình thường nhưng chứa đựng những ý nghĩa nhân văn, khẳng định tài năng, bản lĩnh nhà thơ.

- Tình cảm của người viết dành cho nhà thơ Hồ Xuân Hương: Trân trọng tài năng, bản lĩnh của nhà thơ.

Câu 10

Em có đồng ý với nhận định: Câu thơ “Đừng xanh như lá, bạc như vôi” đã phân định trắng và đen không có khả năng nhập nhèm lẫn lộn vừa là lời răn vừa nhắc nhắc như phê phán không?

Lời giải

- HS tự trả lời theo quan điểm cá nhân.

- Gợi ý: Làm rõ 2 lí do (chú ý: tính thuyết phục của lí lẽ, dẫn chứng mà tác giả đã phân tích ở cuối luận điểm 3).

Câu 11

Viết văn bản nghị luận về vấn đề tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục.

Lời giải

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

Đảm bảo cấu trúc ba phần: Mở - Thân - Kết.

b. Xác định đúng yêu cầu của đề: Viết văn bản nghị luận về hiện tượng tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục

c. Bài viết có thể triển khai theo nhiều cách khác nhau song cần đảm bảo các ý sau:

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: hiện tượng tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục.

2. Thân bài

- Hiện trạng

+ Trong những kì thi, những giờ kiểm tra xảy ra rất nhiều trường hợp các em học sinh giấu tài liệu mang vào phòng thi để chép bài.

+ Học sinh lén lút bàn luận, trao đổi bài khi giám thị không để ý.

Nghiêm trọng hơn có những trường hợp học sinh mang thiết bị công nghệ cao như điện thoại, tai nghe không dây,… để tra cứu đáp án..

-  Nguyên nhân

+ Chủ quan: các em học sinh lười học, không có ý thức học tập nhưng vẫn muốn được điểm cao hoặc bị bệnh thành tích.

+ Khách quan: đề thi dài và khó, thầy cô và gia đình tạo áp lực về thành tích,…

- Hậu quả

+ Tạo thói quen xấu, đức tính xấu cho các em, ảnh hưởng đến quá trình làm người của các em.

+ Các em không nắm vững kiến thức bài học.

- Giải pháp khắc phục

+ Bản thân mỗi người học sinh cần phải tự có ý thức học tập, thực hiện nghiêm túc nội quy thi cử, không gian lận trong thi cử.

+ Gia đình cần dạy dỗ các em đức tính trung thực, không tạo áp lực cho các em và không đặt nặng bệnh thành tích.

+ Nhà trường cần đưa ra đề thi hợp lí, phổ biến nội quy thi cử và xử lí nghiêm khắc các trường hợp vi phạm để răn đe.

3. Kết bài

Khái quát lại vấn đề nghị luận: hiện tượng tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục, đồng thời rút ra bài học và liên hệ bản thân.

d. Chính tả, ngữ pháp: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.

e. Sáng tạo: Diễn đạt sáng tạo, sinh động, giàu hình ảnh, có giọng điệu riêng.

4.6

358 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%