Giải SBT Ngữ văn 12 CD Bài 9: Văn bản thông tin tổng hợp có đáp án

55 lượt thi 34 câu hỏi

Đề thi liên quan:

Danh sách câu hỏi:

Câu 7:

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Cách mạng công nghiệp 4.0 và ảnh hưởng của nó đến giáo dục đại học

1. Mô hình Đại học 4.0

Vai trò và sứ mạng

Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động mạnh mẽ, làm thay đổi vai trò của các trường đại học trong xã hội. Các trường đại học đang chuyển từ vai trò là nền tảng cung cấp tri thức cho xã hội sang vai trò phải thích ứng với xã hội, giải quyết các vấn đề của xã hội. Các trường đại học phải trang bị cho sinh viên về kiến thức chuyên ngành cùng các kĩ năng giải quyết vấn đề (problem solving), kĩ năng ra quyết định (decision making),... và cho phép họ tham gia vào môi trường làm việc thực để họ có thể áp dụng và thử nghiệm các kết quả học tập và nghiên cứu của mình để vừa nâng cao kiến thức và kinh nghiệm, vừa giải quyết các vướng mắc trong thực tế.

Sự thay đổi về thứ tự ưu tiên các ngành nghề, ảnh hưởng của toàn cầu hoá, sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ đang tạo áp lực lớn đòi hỏi các trường đại học phải xem lại vai trò của họ và những giá trị mà họ mang lại cho các sinh viên và cho toàn xã hội.

Đây có thể là một trong những mô hình của đại học trong tương lai được gọi là Đại học 4.0 (University 4.0). Trong giai đoạn này, các trường đại học sẽ kết nối mạnh mẽ với các doanh nghiệp và cộng đồng xung quanh và làm tốt nhất những gì có thể cho các sinh viên, doanh nghiệp và cho toàn xã hội.

Đại học phải thích ứng với các yêu cầu của xã hội

Các trường đại học trong tương lai sẽ tạo điều kiện cho sinh viên có thể học trực tuyến ở bất cứ nơi đâu, bất cứ khi nào và cố gắng thoả mãn các yêu cầu chính đáng của người học. Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, sinh viên có thể học kết hợp nhiều phương thức khác nhau từ học tập trung, kết hợp học tập trung với học qua mạng hoặc học hoàn toàn qua mạng.

Trong tương lai, các trường đại học sẽ hướng tới cung cấp nhiều bằng cấp cùng một lúc với thời gian học tập ngày càng rút ngắn. Đồng thời, trang bị thêm cho sinh viên nhiều kĩ năng khác để vừa hoàn thành tốt công việc được giao nhưng cũng sẵn sàng để thay đổi công việc khi cần. Các trường đại học sẽ phối hợp với các doanh nghiệp để thiết kế nội dung học tập nhằm đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng các yêu cầu của ngành nghề và người lao động. Sau khi tốt nghiệp, sinh viên vẫn tiếp tục được bồi dưỡng, cập nhật kiến thức ở trường đại học để đáp ứng yêu cầu hiện tại và tương lai thông qua các phương thức khác nhau và thông qua mạng lưới cựu sinh viên của trường.

Trường đại học là hạt nhân cho sự hợp tác

Các trường đại học sẽ phải phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp để nghiên cứu giải quyết các vấn đề vướng mắc của doanh nghiệp. Trường đại học không chỉ là các trung tâm nghiên cứu, trang bị kiến thức mà còn là nơi gắn nhu cầu và lợi ích của các doanh nghiệp, các nhà tư vấn, nhà đầu tư và các cơ quan của chính phủ. Thông qua mối quan hệ chặt chẽ này, các ý tưởng sáng tạo được thực hiện và áp dụng vào thực tiễn một cách nhanh nhất. Cũng thông qua mối quan hệ này mà sinh viên ra trường luôn có các kĩ năng phù hợp với yêu cầu của công việc trong tương lai.

Chẳng hạn như bạn là một sinh viên IT của một trường trong thành phố, bạn sẽ được học tập trong một môi trường thực tế kết nối số giống như “phòng thí nghiệm sống”, nó cho phép bạn thử nghiệm áp dụng các kiến thức học được vào ngay cho việc quy hoạch, xây dựng thành phố thông minh. Sinh viên ngành thể thao có thể tham gia cùng mọi hoạt động của các vận động viên chuyên nghiệp trong luyện tập, thu thập, phân tích dữ liệu và đưa ra các giải pháp luyện tập để nâng cao thành tích, sức khoẻ.

Ngày nay, mối quan hệ giữa Nhà nước, các doanh nghiệp và các trường đại học đã thay đổi nhiều. Sự thay đổi như vũ bão của khoa học và công nghệ đang đặt ra những yêu cầu mới đối với lực lượng lao động. Chỉ những trường nào thay đổi để đáp ứng với yêu cầu của cách mạng (đại học số) sẽ tồn tại trong môi trường cạnh tranh ở cả trong nước và quốc tế. Sự thay đổi này cần phải diễn ra ở mọi lĩnh vực từ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, cho đến quản lí hành chính.

2. Giảng dạy trong Đại học 4.0

Sinh viên thời đại 4.0 là sản phẩm của thế hệ số. Họ có thể kết nối học tập qua mạng xã hội, truy cập điện toán đám mây, khai thác dữ liệu lớn bằng điện thoại di động 24/7. Người học không phụ thuộc vào không gian và thời gian, điều đó cho phép họ chủ động học tập một cách linh hoạt. Ngày nay, có rất nhiều các phương thức học mới như E-books, mô phỏng máy tính, video tương tác và trò chơi trực tuyến (game online) phục vụ cho học tập. Nhờ đó mà sinh viên có thể tiếp thu kiến thức một cách trực giác thông qua mô phỏng các quá trình phía nam và 1 ni giá các kết quả một cách dễ dàng.

Toàn cầu hoá đã giúp các trường đại học có thể phổ biến các xếp dung dong dạy của họ đến đông đảo đối tượng người học khác nhau thông qua Interng. Ngày nay, bất cứ trường đại học nào cũng có thể trở thành đại học tán cầu, họ không chỉ thu hút sinh viên trong nước mà còn có khả năng thu hút nhiều sinh viên quốc tế.

Cá nhân hoá việc học tập cũng là một đặc điểm nổi trội trong kí nguyên số, ho Thông qua E-learning, một sinh viên có thể chọn lựa những môn học phù hợp thay vì phải tiếp thu một khối lượng kiến thức nặng nề, bắt bước trong các khóa học truyền thống. Hơn nữa, thông qua học trực tuyến, cá nhân có thể điều chính tiến độ học tập cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mình. Các trường đại học phải hướng đến việc thoả thuận với sinh viên về kế hoạch học tập sao cho phù hợp với từng người và hướng dẫn họ thực hiện từng bước cho đến hết khóa học. Dùng trí tuệ nhân tạo AI phân tích hồ sơ và kết quả học tập trước đây của sinh viên, nhà trường có thể đưa ra lộ trình học tập vừa phù hợp với hoàn cảnh hiện tại vừa có thể chuẩn bị cho việc học tập tiếp theo trong tương lai. Các khóa học luôn có két hợp giữa giáo dục trực tuyến (E-learning) và học truyền thống, trong đó, vai trò của giảng viên sẽ thay đổi tử vị trí một chuyên gia cung cấp kiến thức sang với trò là người hướng dẫn khoa học và người điều phối việc học tập của sinh viên.

3. Nghiên cứu trong Đại học 4.0

Trong Đại học 4.0, giảng viên và sinh viên có thể tiến hành nghiên cứu khoa học ở mọi lúc, mọi nơi với nhiều cách thức mới. Đại học số cho phép kết nối các nhà khoa học ở các trường đại học, viện nghiên cứu khác nhau để hình thành nên những nhóm nghiên cứu có củng một mối quan tâm. Các nhóm nghiên cứu áo này sẽ tuyển dụng các ứng viên thích hợp, phán công trách nhiệm, đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu qua mạng Internet. Việc trao đổi học thuật, chia sẻ tài liệu, thậm chí các trang thiết bị thí nghiệm qua môi trường mạng sẽ làm đơn giản hóa việc đầu tư và đẩy nhanh quá trình nghiên cứu. Thông qua Internet, không chỉ các dữ liệu đã qua xử lí mà cả dữ liệu thô cũng đều được chia sẻ rộng rãi giữa các nhà nghiên cứu. Sử dụng mạng Internet và các công cụ IT khác cho phép quản lí tốt và hiệu quả các dự án nghiên cứu lớn, phức tạp.

Tài liệu tham khảo:

1. Anealka Aziz Hussin, Education 4.0 Made Simple: Ideas For Teaching, International Journal of Education & Literacy Studies, volume 6, issue 3, 2020.

2. Dorleta Ibarra, Jaione Ganzarain, Juan Ignacio Igartua, Business model innovation through Industry 4.0: A review, 11th International Conference Interdisciplinarity in Engineering, INTER-ENG 2017, 5-6 October, 2017.

3. Delipiter Lase, Education and Industrial Revolution 4.0, STT Banua Niha Keriso Protestan Sundermann Nias.

(Theo hvcsnd.edu.vn, ngày 29-6-2021)

a) Văn bản trên trình bày mấy nội dung lớn? Các nội dung ấy phù hợp với nhan đề của bài viết như thế nào?

b) Văn bản trên sử dụng những phương thức biểu đạt nào? Chỉ ra sự mạch lạc của văn bản.

c) Dữ liệu trong văn bản thuộc loại nào (sơ cấp hay thứ cấp)? Các dữ liệu ấy có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung chính của văn bản?

d) Từ văn bản trên, hãy cho biết: Nếu học tiếp lên đại học, em cần chuẩn bị những gì để tham gia vào việc học đại học trong thời kì công nghiệp 4.0?


Câu 14:

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Cách mạng công nghiệp 4.0 và ảnh hưởng của nó đến giáo dục đại học

1. Mô hình Đại học 4.0

Vai trò và sứ mạng

Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động mạnh mẽ, làm thay đổi vai trò của các trường đại học trong xã hội. Các trường đại học đang chuyển từ vai trò là nền tảng cung cấp tri thức cho xã hội sang vai trò phải thích ứng với xã hội, giải quyết các vấn đề của xã hội. Các trường đại học phải trang bị cho sinh viên về kiến thức chuyên ngành cùng các kĩ năng giải quyết vấn đề (problem solving), kĩ năng ra quyết định (decision making),... và cho phép họ tham gia vào môi trường làm việc thực để họ có thể áp dụng và thử nghiệm các kết quả học tập và nghiên cứu của mình để vừa nâng cao kiến thức và kinh nghiệm, vừa giải quyết các vướng mắc trong thực tế.

Sự thay đổi về thứ tự ưu tiên các ngành nghề, ảnh hưởng của toàn cầu hoá, sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ đang tạo áp lực lớn đòi hỏi các trường đại học phải xem lại vai trò của họ và những giá trị mà họ mang lại cho các sinh viên và cho toàn xã hội.

Đây có thể là một trong những mô hình của đại học trong tương lai được gọi là Đại học 4.0 (University 4.0). Trong giai đoạn này, các trường đại học sẽ kết nối mạnh mẽ với các doanh nghiệp và cộng đồng xung quanh và làm tốt nhất những gì có thể cho các sinh viên, doanh nghiệp và cho toàn xã hội.

Đại học phải thích ứng với các yêu cầu của xã hội

Các trường đại học trong tương lai sẽ tạo điều kiện cho sinh viên có thể học trực tuyến ở bất cứ nơi đâu, bất cứ khi nào và cố gắng thoả mãn các yêu cầu chính đáng của người học. Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, sinh viên có thể học kết hợp nhiều phương thức khác nhau từ học tập trung, kết hợp học tập trung với học qua mạng hoặc học hoàn toàn qua mạng.

Trong tương lai, các trường đại học sẽ hướng tới cung cấp nhiều bằng cấp cùng một lúc với thời gian học tập ngày càng rút ngắn. Đồng thời, trang bị thêm cho sinh viên nhiều kĩ năng khác để vừa hoàn thành tốt công việc được giao nhưng cũng sẵn sàng để thay đổi công việc khi cần. Các trường đại học sẽ phối hợp với các doanh nghiệp để thiết kế nội dung học tập nhằm đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng các yêu cầu của ngành nghề và người lao động. Sau khi tốt nghiệp, sinh viên vẫn tiếp tục được bồi dưỡng, cập nhật kiến thức ở trường đại học để đáp ứng yêu cầu hiện tại và tương lai thông qua các phương thức khác nhau và thông qua mạng lưới cựu sinh viên của trường.

Trường đại học là hạt nhân cho sự hợp tác

Các trường đại học sẽ phải phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp để nghiên cứu giải quyết các vấn đề vướng mắc của doanh nghiệp. Trường đại học không chỉ là các trung tâm nghiên cứu, trang bị kiến thức mà còn là nơi gắn nhu cầu và lợi ích của các doanh nghiệp, các nhà tư vấn, nhà đầu tư và các cơ quan của chính phủ. Thông qua mối quan hệ chặt chẽ này, các ý tưởng sáng tạo được thực hiện và áp dụng vào thực tiễn một cách nhanh nhất. Cũng thông qua mối quan hệ này mà sinh viên ra trường luôn có các kĩ năng phù hợp với yêu cầu của công việc trong tương lai.

Chẳng hạn như bạn là một sinh viên IT của một trường trong thành phố, bạn sẽ được học tập trong một môi trường thực tế kết nối số giống như “phòng thí nghiệm sống”, nó cho phép bạn thử nghiệm áp dụng các kiến thức học được vào ngay cho việc quy hoạch, xây dựng thành phố thông minh. Sinh viên ngành thể thao có thể tham gia cùng mọi hoạt động của các vận động viên chuyên nghiệp trong luyện tập, thu thập, phân tích dữ liệu và đưa ra các giải pháp luyện tập để nâng cao thành tích, sức khoẻ.

Ngày nay, mối quan hệ giữa Nhà nước, các doanh nghiệp và các trường đại học đã thay đổi nhiều. Sự thay đổi như vũ bão của khoa học và công nghệ đang đặt ra những yêu cầu mới đối với lực lượng lao động. Chỉ những trường nào thay đổi để đáp ứng với yêu cầu của cách mạng (đại học số) sẽ tồn tại trong môi trường cạnh tranh ở cả trong nước và quốc tế. Sự thay đổi này cần phải diễn ra ở mọi lĩnh vực từ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, cho đến quản lí hành chính.

2. Giảng dạy trong Đại học 4.0

Sinh viên thời đại 4.0 là sản phẩm của thế hệ số. Họ có thể kết nối học tập qua mạng xã hội, truy cập điện toán đám mây, khai thác dữ liệu lớn bằng điện thoại di động 24/7. Người học không phụ thuộc vào không gian và thời gian, điều đó cho phép họ chủ động học tập một cách linh hoạt. Ngày nay, có rất nhiều các phương thức học mới như E-books, mô phỏng máy tính, video tương tác và trò chơi trực tuyến (game online) phục vụ cho học tập. Nhờ đó mà sinh viên có thể tiếp thu kiến thức một cách trực giác thông qua mô phỏng các quá trình phía nam và 1 ni giá các kết quả một cách dễ dàng.

Toàn cầu hoá đã giúp các trường đại học có thể phổ biến các xếp dung dong dạy của họ đến đông đảo đối tượng người học khác nhau thông qua Interng. Ngày nay, bất cứ trường đại học nào cũng có thể trở thành đại học tán cầu, họ không chỉ thu hút sinh viên trong nước mà còn có khả năng thu hút nhiều sinh viên quốc tế.

Cá nhân hoá việc học tập cũng là một đặc điểm nổi trội trong kí nguyên số, ho Thông qua E-learning, một sinh viên có thể chọn lựa những môn học phù hợp thay vì phải tiếp thu một khối lượng kiến thức nặng nề, bắt bước trong các khóa học truyền thống. Hơn nữa, thông qua học trực tuyến, cá nhân có thể điều chính tiến độ học tập cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mình. Các trường đại học phải hướng đến việc thoả thuận với sinh viên về kế hoạch học tập sao cho phù hợp với từng người và hướng dẫn họ thực hiện từng bước cho đến hết khóa học. Dùng trí tuệ nhân tạo AI phân tích hồ sơ và kết quả học tập trước đây của sinh viên, nhà trường có thể đưa ra lộ trình học tập vừa phù hợp với hoàn cảnh hiện tại vừa có thể chuẩn bị cho việc học tập tiếp theo trong tương lai. Các khóa học luôn có két hợp giữa giáo dục trực tuyến (E-learning) và học truyền thống, trong đó, vai trò của giảng viên sẽ thay đổi tử vị trí một chuyên gia cung cấp kiến thức sang với trò là người hướng dẫn khoa học và người điều phối việc học tập của sinh viên.

3. Nghiên cứu trong Đại học 4.0

Trong Đại học 4.0, giảng viên và sinh viên có thể tiến hành nghiên cứu khoa học ở mọi lúc, mọi nơi với nhiều cách thức mới. Đại học số cho phép kết nối các nhà khoa học ở các trường đại học, viện nghiên cứu khác nhau để hình thành nên những nhóm nghiên cứu có củng một mối quan tâm. Các nhóm nghiên cứu áo này sẽ tuyển dụng các ứng viên thích hợp, phán công trách nhiệm, đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu qua mạng Internet. Việc trao đổi học thuật, chia sẻ tài liệu, thậm chí các trang thiết bị thí nghiệm qua môi trường mạng sẽ làm đơn giản hóa việc đầu tư và đẩy nhanh quá trình nghiên cứu. Thông qua Internet, không chỉ các dữ liệu đã qua xử lí mà cả dữ liệu thô cũng đều được chia sẻ rộng rãi giữa các nhà nghiên cứu. Sử dụng mạng Internet và các công cụ IT khác cho phép quản lí tốt và hiệu quả các dự án nghiên cứu lớn, phức tạp.

Tài liệu tham khảo:

1. Anealka Aziz Hussin, Education 4.0 Made Simple: Ideas For Teaching, International Journal of Education & Literacy Studies, volume 6, issue 3, 2020.

2. Dorleta Ibarra, Jaione Ganzarain, Juan Ignacio Igartua, Business model innovation through Industry 4.0: A review, 11th International Conference Interdisciplinarity in Engineering, INTER-ENG 2017, 5-6 October, 2017.

3. Delipiter Lase, Education and Industrial Revolution 4.0, STT Banua Niha Keriso Protestan Sundermann Nias.

(Theo hvcsnd.edu.vn, ngày 29-6-2021)

a) Văn bản trên trình bày mấy nội dung lớn? Các nội dung ấy phù hợp với nhan đề của bài viết như thế nào?

b) Văn bản trên sử dụng những phương thức biểu đạt nào? Chỉ ra sự mạch lạc của văn bản.

c) Dữ liệu trong văn bản thuộc loại nào (sơ cấp hay thứ cấp)? Các dữ liệu ấy có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung chính của văn bản?

d) Từ văn bản trên, hãy cho biết: Nếu học tiếp lên đại học, em cần chuẩn bị những gì để tham gia vào việc học đại học trong thời kì công nghiệp 4.0?


Câu 20:

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Bình đẳng giới hôm nay vì một ngày mai bền vững

Thứ Ba, 08/03/2022 05:34 (GMT+7)

Thúc đẩy bình đẳng giới trong bối cảnh khủng hoảng khí hậu và giảm nhẹ rủi ro thiên tai là một trong những thách thức toàn cầu lớn nhất của thế kỉ 21.

Phụ nữ ngày càng được công nhận là dễ bị tổn thương hơn trước các tác động của biến đổi khí hậu so với nam giới, vì họ chiếm đa số người nghèo trên thế giới và phụ thuộc nhiều hơn vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà biến đổi khí hậu đe doạ nhiều nhất.

Tại sao phụ nữ dễ bị tổn thương hơn nam giới?

Tính dễ bị tổn thương của phụ nữ đối với biến đổi khí hậu bắt nguồn từ một số yếu tố xã hội, kinh tế và văn hoá.

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:  Bình đẳng giới hôm nay vì một ngày mai bền vững  Thứ Ba, 08/03/2022 05:34 (GMT+7)  Thúc đẩy bình đẳng giới trong bối cảnh khủng hoảng khí hậu và giảm nhẹ rủi ro thiên tai là một trong những thách thức toàn cầu lớn nhất của thế kỉ 21.  Phụ nữ ngày càng được công nhận là dễ bị tổn thương hơn trước các tác động của biến đổi khí hậu so với nam giới, vì họ chiếm đa số người nghèo trên thế giới và phụ thuộc nhiều hơn vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà biến đổi khí hậu đe doạ nhiều nhất.  Tại sao phụ nữ dễ bị tổn thương hơn nam giới?  Tính dễ bị tổn thương của phụ nữ đối với biến đổi khí hậu bắt nguồn từ một số yếu tố xã hội, kinh tế và văn hoá.  Số liệu từ Liên hợp quốc cho thấy, có tới 70% trong số 1,3 tỉ người sống trong cảnh nghèo đói trên thế giới là phụ nữ. Tại khu vực thành thị, 40% số hộ nghèo nhất do phụ nữ làm chủ hộ. Trong khi đó, dù là nhân lực chính trong sản xuất lương thực trên thế giới – ở mức từ 50 – 80%, nhưng phụ nữ lại chỉ sở hữu chưa đến 10% đất đai. Bên cạnh đó, 80% trong số những người phải di cư do các thảm hoạ và thay đổi liên quan đến khí hậu trên thế giới là phụ nữ và trẻ em gái.  Báo cáo mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, khoảng 2,4 tỉ phụ nữ trong độ tuổi lao động trên toàn cầu không có cơ hội kinh tế bình đẳng. Chỉ có 118/194 nền kinh tế thế giới đảm bảo 14 tuần nghỉ phép có lương cho các bà mẹ. 178 nước vẫn duy trì các rào cản pháp lí ngăn cản sự tham gia đầy đủ của phụ nữ đối với các hoạt động kinh tế. Trong khi đó, khoảng cách thu nhập trọn đời dự kiến giữa nam giới và nữ giới trên toàn cầu lên tới 172 000 tỉ USD, gấp 2 lần tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hằng năm của cả thế giới.  Phụ nữ chiếm tỉ lệ cao trong các cộng đồng nghèo phụ thuộc nhiều vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên để kiếm sống, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, nơi họ gánh vác trách nhiệm chính về việc cung cấp nước cho hộ gia đình, năng lượng để đun nấu và sưởi ấm. Ở khu vực Cận Đông, phụ nữ đóng góp tới 50% lực lượng lao động nông nghiệp. Họ chịu trách nhiệm chính cho các công việc tốn nhiều thời gian và công sức hơn (được thực hiện thủ công hoặc sử dụng các công cụ đơn giản). Ở khu vực Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê (Caribbean), dân số nông thôn đang giảm dần trong những thập kỉ gần đây. Phụ nữ chủ yếu làm nghề nông tự cung tự cấp, đặc biệt là làm vườn, gia cầm và chăn nuôi gia súc nhỏ để tiêu dùng trong gia đình.  Trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt như hạn hán và lũ lụt, phụ nữ có xu hướng làm việc nhiều hơn để đảm bảo sinh kế trong gia đình. Điều này sẽ khiến phụ nữ có ít thời gian tiếp cận với giáo dục đào tạo, phát triển kĩ năng hoặc kiếm thu nhập. Ở châu Phi, tỉ lệ mù chữ của phụ nữ là hơn 55% vào năm 2000, so với 41% ở nam giới.  Những con số trên phần nào cho thấy sự chênh lệch và bất bình đẳng mà phụ nữ đang phải đối mặt trong xã hội ngày nay.  Những đóng góp của phụ nữ đang góp phần thay đổi thế giới  Mặc dù dễ bị tổn thương nhưng phụ nữ và trẻ em gái lại là những người tạo ra thay đổi hiệu quả và mạnh mẽ để thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Họ tham gia vào các sáng kiến bền vững trên khắp thế giới, với sự tham gia và lãnh đạo của họ dẫn đến hành động khí hậu hiệu quả hơn.  Ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3 năm nay có chủ đề “Bình đẳng giới hôm nay vì một ngày mai bền vững” với mục đích ghi nhận sự đóng góp của phụ nữ và trẻ em gái trên toàn thế giới, những người đang đi đầu trong công tác thích ứng, giảm thiểu và ứng phó với biến đổi khí hậu, nhằm xây dựng một tương lại bền vững hơn cho tất cả mọi người.  Trong thông điệp nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ năm nay, Tổng Thư kí Liên hợp quốc An-tô-ni-ô Gút-tơ-rét (António Guterres) đã tôn vinh những đóng góp của phụ nữ trong nỗ lực chấm dứt đại dịch COVID-19, đồng thời nhấn mạnh: “Những ý tưởng, sáng kiến, hành động và sự lãnh đạo của phụ nữ đang thay đổi thế giới trở nên tốt đẹp hơn.”.  Tuy nhiên, ông cũng nói rằng, ở nhiều lĩnh vực, đồng hồ về quyền của phụ nữ lại đang quay ngược. Trong đó, đại dịch đã khiến trẻ em gái và phụ nữ không được đến trường học và nơi làm việc. Họ phải đối mặt với tình trạng nghèo đói và bạo lực gia tăng. Họ làm nhiều công việc chăm sóc cần thiết nhưng không được trả công. Họ là mục tiêu của bạo lực và lạm dụng, chỉ vì họ là nữ giới.  Theo ông, “chúng ta cần hành động ngay để thúc đẩy quyền lợi của phụ nữ và trẻ em gái, thông qua việc đảm bảo chất lượng giáo dục để mỗi trẻ em gái có thể xây dựng cuộc sống mình mong muốn; thông qua các khoản đầu tư lớn và đào tạo để phụ nữ có công việc tử tế; thông qua hành động hiệu quả để chấm dứt bạo lực giới; thông qua các biện pháp như hạn ngạch giới để tất cả chúng ta được hưởng lợi ích từ những sáng kiến, kinh nghiệm và sự lãnh đạo của nữ giới trong việc đưa ra các quyết định”.  Có thể nói, phụ nữ đã và đang có những đóng góp to lớn, quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia hay rộng hơn là ở phạm vi toàn cầu. Sự tham gia chủ động và tích cực của họ góp phần không nhỏ trong việc kiến tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn. Bởi vậy, đảm bảo bình đẳng giới chính là chìa khoá để xây dựng một thế giới hưng thịnh và phát triển bền vững trong tương lai.  (Theo dangcongsan.vn, ngày 8-3-2022)  a) Chỉ ra sự phù hợp giữa nhan đề với nội dung của văn bản Bình đẳng giới hôm nay vì một ngày mai bền vững.  b) Nêu tác dụng của các tranh, ảnh minh hoạ trong bài viết.  c) Dữ liệu trong văn bản thuộc loại nào (sơ cấp hay thứ cấp)? Các dữ liệu ấy có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung chính của văn bản?  d) Từ văn bản trên, kết hợp với những hiểu biết xã hội, hãy nêu một giải pháp để đảm bảo bình đẳng giới ở địa phương mà em sinh sống. (ảnh 1)

Số liệu từ Liên hợp quốc cho thấy, có tới 70% trong số 1,3 tỉ người sống trong cảnh nghèo đói trên thế giới là phụ nữ. Tại khu vực thành thị, 40% số hộ nghèo nhất do phụ nữ làm chủ hộ. Trong khi đó, dù là nhân lực chính trong sản xuất lương thực trên thế giới – ở mức từ 50 – 80%, nhưng phụ nữ lại chỉ sở hữu chưa đến 10% đất đai. Bên cạnh đó, 80% trong số những người phải di cư do các thảm hoạ và thay đổi liên quan đến khí hậu trên thế giới là phụ nữ và trẻ em gái.

Báo cáo mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, khoảng 2,4 tỉ phụ nữ trong độ tuổi lao động trên toàn cầu không có cơ hội kinh tế bình đẳng. Chỉ có 118/194 nền kinh tế thế giới đảm bảo 14 tuần nghỉ phép có lương cho các bà mẹ. 178 nước vẫn duy trì các rào cản pháp lí ngăn cản sự tham gia đầy đủ của phụ nữ đối với các hoạt động kinh tế. Trong khi đó, khoảng cách thu nhập trọn đời dự kiến giữa nam giới và nữ giới trên toàn cầu lên tới 172 000 tỉ USD, gấp 2 lần tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hằng năm của cả thế giới.

Phụ nữ chiếm tỉ lệ cao trong các cộng đồng nghèo phụ thuộc nhiều vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên để kiếm sống, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, nơi họ gánh vác trách nhiệm chính về việc cung cấp nước cho hộ gia đình, năng lượng để đun nấu và sưởi ấm. Ở khu vực Cận Đông, phụ nữ đóng góp tới 50% lực lượng lao động nông nghiệp. Họ chịu trách nhiệm chính cho các công việc tốn nhiều thời gian và công sức hơn (được thực hiện thủ công hoặc sử dụng các công cụ đơn giản). Ở khu vực Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê (Caribbean), dân số nông thôn đang giảm dần trong những thập kỉ gần đây. Phụ nữ chủ yếu làm nghề nông tự cung tự cấp, đặc biệt là làm vườn, gia cầm và chăn nuôi gia súc nhỏ để tiêu dùng trong gia đình.

Trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt như hạn hán và lũ lụt, phụ nữ có xu hướng làm việc nhiều hơn để đảm bảo sinh kế trong gia đình. Điều này sẽ khiến phụ nữ có ít thời gian tiếp cận với giáo dục đào tạo, phát triển kĩ năng hoặc kiếm thu nhập. Ở châu Phi, tỉ lệ mù chữ của phụ nữ là hơn 55% vào năm 2000, so với 41% ở nam giới.

Những con số trên phần nào cho thấy sự chênh lệch và bất bình đẳng mà phụ nữ đang phải đối mặt trong xã hội ngày nay.

Những đóng góp của phụ nữ đang góp phần thay đổi thế giới

Mặc dù dễ bị tổn thương nhưng phụ nữ và trẻ em gái lại là những người tạo ra thay đổi hiệu quả và mạnh mẽ để thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Họ tham gia vào các sáng kiến bền vững trên khắp thế giới, với sự tham gia và lãnh đạo của họ dẫn đến hành động khí hậu hiệu quả hơn.

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:  Bình đẳng giới hôm nay vì một ngày mai bền vững  Thứ Ba, 08/03/2022 05:34 (GMT+7)  Thúc đẩy bình đẳng giới trong bối cảnh khủng hoảng khí hậu và giảm nhẹ rủi ro thiên tai là một trong những thách thức toàn cầu lớn nhất của thế kỉ 21.  Phụ nữ ngày càng được công nhận là dễ bị tổn thương hơn trước các tác động của biến đổi khí hậu so với nam giới, vì họ chiếm đa số người nghèo trên thế giới và phụ thuộc nhiều hơn vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà biến đổi khí hậu đe doạ nhiều nhất.  Tại sao phụ nữ dễ bị tổn thương hơn nam giới?  Tính dễ bị tổn thương của phụ nữ đối với biến đổi khí hậu bắt nguồn từ một số yếu tố xã hội, kinh tế và văn hoá.  Số liệu từ Liên hợp quốc cho thấy, có tới 70% trong số 1,3 tỉ người sống trong cảnh nghèo đói trên thế giới là phụ nữ. Tại khu vực thành thị, 40% số hộ nghèo nhất do phụ nữ làm chủ hộ. Trong khi đó, dù là nhân lực chính trong sản xuất lương thực trên thế giới – ở mức từ 50 – 80%, nhưng phụ nữ lại chỉ sở hữu chưa đến 10% đất đai. Bên cạnh đó, 80% trong số những người phải di cư do các thảm hoạ và thay đổi liên quan đến khí hậu trên thế giới là phụ nữ và trẻ em gái.  Báo cáo mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, khoảng 2,4 tỉ phụ nữ trong độ tuổi lao động trên toàn cầu không có cơ hội kinh tế bình đẳng. Chỉ có 118/194 nền kinh tế thế giới đảm bảo 14 tuần nghỉ phép có lương cho các bà mẹ. 178 nước vẫn duy trì các rào cản pháp lí ngăn cản sự tham gia đầy đủ của phụ nữ đối với các hoạt động kinh tế. Trong khi đó, khoảng cách thu nhập trọn đời dự kiến giữa nam giới và nữ giới trên toàn cầu lên tới 172 000 tỉ USD, gấp 2 lần tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hằng năm của cả thế giới.  Phụ nữ chiếm tỉ lệ cao trong các cộng đồng nghèo phụ thuộc nhiều vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên để kiếm sống, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, nơi họ gánh vác trách nhiệm chính về việc cung cấp nước cho hộ gia đình, năng lượng để đun nấu và sưởi ấm. Ở khu vực Cận Đông, phụ nữ đóng góp tới 50% lực lượng lao động nông nghiệp. Họ chịu trách nhiệm chính cho các công việc tốn nhiều thời gian và công sức hơn (được thực hiện thủ công hoặc sử dụng các công cụ đơn giản). Ở khu vực Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê (Caribbean), dân số nông thôn đang giảm dần trong những thập kỉ gần đây. Phụ nữ chủ yếu làm nghề nông tự cung tự cấp, đặc biệt là làm vườn, gia cầm và chăn nuôi gia súc nhỏ để tiêu dùng trong gia đình.  Trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt như hạn hán và lũ lụt, phụ nữ có xu hướng làm việc nhiều hơn để đảm bảo sinh kế trong gia đình. Điều này sẽ khiến phụ nữ có ít thời gian tiếp cận với giáo dục đào tạo, phát triển kĩ năng hoặc kiếm thu nhập. Ở châu Phi, tỉ lệ mù chữ của phụ nữ là hơn 55% vào năm 2000, so với 41% ở nam giới.  Những con số trên phần nào cho thấy sự chênh lệch và bất bình đẳng mà phụ nữ đang phải đối mặt trong xã hội ngày nay.  Những đóng góp của phụ nữ đang góp phần thay đổi thế giới  Mặc dù dễ bị tổn thương nhưng phụ nữ và trẻ em gái lại là những người tạo ra thay đổi hiệu quả và mạnh mẽ để thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Họ tham gia vào các sáng kiến bền vững trên khắp thế giới, với sự tham gia và lãnh đạo của họ dẫn đến hành động khí hậu hiệu quả hơn.  Ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3 năm nay có chủ đề “Bình đẳng giới hôm nay vì một ngày mai bền vững” với mục đích ghi nhận sự đóng góp của phụ nữ và trẻ em gái trên toàn thế giới, những người đang đi đầu trong công tác thích ứng, giảm thiểu và ứng phó với biến đổi khí hậu, nhằm xây dựng một tương lại bền vững hơn cho tất cả mọi người.  Trong thông điệp nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ năm nay, Tổng Thư kí Liên hợp quốc An-tô-ni-ô Gút-tơ-rét (António Guterres) đã tôn vinh những đóng góp của phụ nữ trong nỗ lực chấm dứt đại dịch COVID-19, đồng thời nhấn mạnh: “Những ý tưởng, sáng kiến, hành động và sự lãnh đạo của phụ nữ đang thay đổi thế giới trở nên tốt đẹp hơn.”.  Tuy nhiên, ông cũng nói rằng, ở nhiều lĩnh vực, đồng hồ về quyền của phụ nữ lại đang quay ngược. Trong đó, đại dịch đã khiến trẻ em gái và phụ nữ không được đến trường học và nơi làm việc. Họ phải đối mặt với tình trạng nghèo đói và bạo lực gia tăng. Họ làm nhiều công việc chăm sóc cần thiết nhưng không được trả công. Họ là mục tiêu của bạo lực và lạm dụng, chỉ vì họ là nữ giới.  Theo ông, “chúng ta cần hành động ngay để thúc đẩy quyền lợi của phụ nữ và trẻ em gái, thông qua việc đảm bảo chất lượng giáo dục để mỗi trẻ em gái có thể xây dựng cuộc sống mình mong muốn; thông qua các khoản đầu tư lớn và đào tạo để phụ nữ có công việc tử tế; thông qua hành động hiệu quả để chấm dứt bạo lực giới; thông qua các biện pháp như hạn ngạch giới để tất cả chúng ta được hưởng lợi ích từ những sáng kiến, kinh nghiệm và sự lãnh đạo của nữ giới trong việc đưa ra các quyết định”.  Có thể nói, phụ nữ đã và đang có những đóng góp to lớn, quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia hay rộng hơn là ở phạm vi toàn cầu. Sự tham gia chủ động và tích cực của họ góp phần không nhỏ trong việc kiến tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn. Bởi vậy, đảm bảo bình đẳng giới chính là chìa khoá để xây dựng một thế giới hưng thịnh và phát triển bền vững trong tương lai.  (Theo dangcongsan.vn, ngày 8-3-2022)  a) Chỉ ra sự phù hợp giữa nhan đề với nội dung của văn bản Bình đẳng giới hôm nay vì một ngày mai bền vững.  b) Nêu tác dụng của các tranh, ảnh minh hoạ trong bài viết.  c) Dữ liệu trong văn bản thuộc loại nào (sơ cấp hay thứ cấp)? Các dữ liệu ấy có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung chính của văn bản?  d) Từ văn bản trên, kết hợp với những hiểu biết xã hội, hãy nêu một giải pháp để đảm bảo bình đẳng giới ở địa phương mà em sinh sống. (ảnh 2)

Ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3 năm nay có chủ đề “Bình đẳng giới hôm nay vì một ngày mai bền vững” với mục đích ghi nhận sự đóng góp của phụ nữ và trẻ em gái trên toàn thế giới, những người đang đi đầu trong công tác thích ứng, giảm thiểu và ứng phó với biến đổi khí hậu, nhằm xây dựng một tương lại bền vững hơn cho tất cả mọi người.

Trong thông điệp nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ năm nay, Tổng Thư kí Liên hợp quốc An-tô-ni-ô Gút-tơ-rét (António Guterres) đã tôn vinh những đóng góp của phụ nữ trong nỗ lực chấm dứt đại dịch COVID-19, đồng thời nhấn mạnh: “Những ý tưởng, sáng kiến, hành động và sự lãnh đạo của phụ nữ đang thay đổi thế giới trở nên tốt đẹp hơn.”.

Tuy nhiên, ông cũng nói rằng, ở nhiều lĩnh vực, đồng hồ về quyền của phụ nữ lại đang quay ngược. Trong đó, đại dịch đã khiến trẻ em gái và phụ nữ không được đến trường học và nơi làm việc. Họ phải đối mặt với tình trạng nghèo đói và bạo lực gia tăng. Họ làm nhiều công việc chăm sóc cần thiết nhưng không được trả công. Họ là mục tiêu của bạo lực và lạm dụng, chỉ vì họ là nữ giới.

Theo ông, “chúng ta cần hành động ngay để thúc đẩy quyền lợi của phụ nữ và trẻ em gái, thông qua việc đảm bảo chất lượng giáo dục để mỗi trẻ em gái có thể xây dựng cuộc sống mình mong muốn; thông qua các khoản đầu tư lớn và đào tạo để phụ nữ có công việc tử tế; thông qua hành động hiệu quả để chấm dứt bạo lực giới; thông qua các biện pháp như hạn ngạch giới để tất cả chúng ta được hưởng lợi ích từ những sáng kiến, kinh nghiệm và sự lãnh đạo của nữ giới trong việc đưa ra các quyết định”.

Có thể nói, phụ nữ đã và đang có những đóng góp to lớn, quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia hay rộng hơn là ở phạm vi toàn cầu. Sự tham gia chủ động và tích cực của họ góp phần không nhỏ trong việc kiến tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn. Bởi vậy, đảm bảo bình đẳng giới chính là chìa khoá để xây dựng một thế giới hưng thịnh và phát triển bền vững trong tương lai.

(Theo dangcongsan.vn, ngày 8-3-2022)

a) Chỉ ra sự phù hợp giữa nhan đề với nội dung của văn bản Bình đẳng giới hôm nay vì một ngày mai bền vững.

b) Nêu tác dụng của các tranh, ảnh minh hoạ trong bài viết.

c) Dữ liệu trong văn bản thuộc loại nào (sơ cấp hay thứ cấp)? Các dữ liệu ấy có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung chính của văn bản?

d) Từ văn bản trên, kết hợp với những hiểu biết xã hội, hãy nêu một giải pháp để đảm bảo bình đẳng giới ở địa phương mà em sinh sống.


Câu 26:

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Công nghệ AI của hiện tại và tương lai

Công nghệ AI hiện đang là công nghệ được quan tâm phát triển và ứng dụng bậc nhất hiện nay, được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như nhận dạng khuôn mặt, xử lí giọng nói, kĩ thuật ước tính đám đông,... đến các hệ thống an ninh, bảo mật, hay hệ thống pháp luật, chính phủ.

Theo dòng chảy của cuộc cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo ngày càng được phổ biến và ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, mặc dù được Giôn Mác-ca-thy (John McCarthy) nhà khoa học máy tính người Mỹ đề cập lần đầu tiên vào những năm 1950, nhưng đến ngày nay thuật ngữ trí tuệ nhân tạo mới thực sự được biết đến rộng rãi và được các “ông lớn” của làng công nghệ chạy đua phát triển.

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:  Công nghệ AI của hiện tại và tương lai  Công nghệ AI hiện đang là công nghệ được quan tâm phát triển và ứng dụng bậc nhất hiện nay, được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như nhận dạng khuôn mặt, xử lí giọng nói, kĩ thuật ước tính đám đông,... đến các hệ thống an ninh, bảo mật, hay hệ thống pháp luật, chính phủ.  Theo dòng chảy của cuộc cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo ngày càng được phổ biến và ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, mặc dù được Giôn Mác-ca-thy (John McCarthy) nhà khoa học máy tính người Mỹ đề cập lần đầu tiên vào những năm 1950, nhưng đến ngày nay thuật ngữ trí tuệ nhân tạo mới thực sự được biết đến rộng rãi và được các “ông lớn” của làng công nghệ chạy đua phát triển.  Al là công nghệ sử dụng đến kĩ thuật số có khả năng thực hiện những nhiệm vụ mà bình thường phải cần tới trí thông minh của con người, được xem là phổ biến nhất. Đặc trưng của công nghệ AI là năng lực “tự học” của máy tính, do đó có thể tự phán đoán, phân tích trước các dữ liệu mới mà không cần sự hỗ trợ của con người, đồng thời có khả năng xử lí dữ liệu với số lượng rất lớn và tốc độ cao. Hiện mỗi ngày trên toàn cầu có khoảng 2,2 tỉ Gb dữ liệu mới (tương đương 165 000 tỉ trang tài liệu) được tạo ra và được các công ty như Google, Twitter, Facebook, Amazon, Baidu, Weibo, Tencent hay Alibaba thu thập để tạo thành “dữ liệu lớn” (big data). Trí tuệ nhân tạo là một lĩnh vực liên quan đến chuyên ngành khoa học máy tính và công nghệ thông tin, bản chất của trí tuệ nhân tạo vẫn do con người làm ra, họ xây dựng các thuật toán, lập trình bằng các công cụ phần mềm công nghệ thông tin, giúp các máy tính có thể tự động xử lí các hành vi thông minh như con người.  Trí tuệ nhân tạo có khả năng tự thích nghi, tự học và tự phát triển, tự đưa ra các lập luận để giải quyết vấn đề, có thể giao tiếp như người,... Vì AI được cài một cơ sở dữ liệu lớn, được lập trình trên cơ sở dữ liệu đó và tái lập trình trên cơ sở dữ liệu mới sinh ra. Cứ như vậy cấu trúc của AI luôn luôn thay đổi và thích nghi trong điều kiện và hoàn cảnh mới. Dự báo đến năm 2030 của công ty kiểm toán và tư vấn tài chính PwC, GDP toàn cầu có thể tăng trưởng thêm 14% từ sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo, AI đã xuất hiện trong nhiều ngành, từ cung cấp dịch vụ mua sắm ảo và ngân hàng trực tuyến đến giảm chi phí đầu tư trong sản xuất và hợp lí hoá chẩn đoán trong chăm sóc sức khoẻ. AI đã thúc đẩy hầu hết các ngành công nghiệp tiến lên và thay đổi cuộc sống của nhiều người.  Trong lịch sử phát triển của mình từ năm 1960 đến năm 2018, thế giới đã có gần 340 000 sáng chế đồng dạng và hơn 1,6 triệu bài báo khoa học liên quan đến phát triển trí tuệ nhân tạo được công bố. Trong thập niên 80 của thế kỉ XX, AI đã bắt đầu được quan tâm, nhưng đến những năm 2012 sự tăng tốc mới trở nên mạnh mẽ. Giai đoạn 2006 – 2012, số công bố sáng chế bình quân tăng 8% trong một năm, nhưng đến giai đoạn 2012 – 2017 mức tăng đã đạt 28% trong một năm. Số lượng đơn sáng chế liên quan đến AI tăng từ 8 515 trong năm 2006 lên đến 12 473 vào năm 2011 và 55 660 vào năm 2017 (tăng gấp 6,5 lần trong vòng 12 năm).  Trong nghiên cứu khoa học, các công bố bài báo liên quan đến AI cũng tăng lên rất nhanh chóng, đặc biệt trong thời gian đến năm 2018 với 1 636 649 bài báo được công bố. Sự xuất hiện của các bài báo khoa học về AI bắt đầu sớm hơn 10 năm trước khi diễn ra cuộc chạy đua bảo hộ sáng chế công nghệ AI. Chứng tỏ, kết quả của nghiên cứu khoa học cơ bản về AI đã có hiệu quả về mặt ứng dụng khi các cuộc đua đăng kí bảo hộ sáng chế gia tăng sau đó.  Theo hệ thống phân loại của Hiệp hội Máy tính Quốc tế ACM (Computing Analysis Scheme) có một khung phân tích rõ ràng phù hợp để tổng hợp và đại diện cho công nghệ đang thay đổi AI theo thời gian. Phân loại này đã được sử dụng trong hơn 50 năm và bản cập nhật cuối cùng vào năm 2012 đã bổ sung các công nghệ mới. Theo đó, công nghệ AI được chia thành ba hướng chính:  – Kĩ thuật AI (AI Technique): là các mô hình tính toán và thống kê tiên tiến như học máy, lô gích mờ và hệ thống cơ sở tri thức cho phép tính toán nhiệm vụ do con người thực hiện; Các kĩ thuật trí tuệ nhân tạo khác nhau được sử dụng để thực hiện các chức năng khác nhau.  – Ứng dụng chức năng của trí tuệ nhân tạo (AI functions application): chẳng hạn như thị giác máy tính (computer vision) có thể chứa một hoặc nhiều kĩ thuật trí tuệ khác nhau.  – Ứng dụng trí tuệ nhân tạo theo lĩnh vực (AI Application field): là việc sử dụng các kĩ thuật hoặc ứng dụng trí tuệ nhân tạo chức năng trong các lĩnh vực, ngành nghề cụ thể như giao thông vận tải, nông nghiệp, khoa học đời sống, y tế,...  Còn theo Me-đi-át-xten-đớt (Mediastandard), AI được chia làm ba loại gồm trí thông minh nhân tạo hẹp (ANI), trí thông minh phổ biến nhân tạo (AGI) và trí tuệ siêu nhân tạo (ASI).  Những dự đoán về ứng dụng công nghệ AI trong nhiều lĩnh vực khác nhau, các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, khởi nghiệp và chính phủ có thể định hướng mục tiêu phát triển trong tương lai:  Hỗ trợ hệ thống cổng thông tin chính phủ  Công nghệ trí tuệ nhân tạo AI có thể là chia khoá để tiến tới việc cải tiến cải cách hành chính hiệu quả, triệt để, giúp thay đổi đáng kể và giải quyết nhiều vấn đề bất cập hiện nay về quản lí và điều hành của các cơ quan quản lí nhà nước các cấp. Điển hình là việc ứng dụng AI vào hệ thống chatbot (trả lời tự động) và trợ lí ảo tại các trung tâm hành chính. Điều này cho phép người dân truy vấn thông tin nhận được câu trả lời nhanh chóng, hiệu quả cũng như ngăn chặn tình trạng xếp hàng, chờ đợi như trước kia.  Với lượng dữ liệu khổng lồ lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của chính phủ, AI có khả năng tổ chức và kết hợp nhiều bộ dữ liệu để rút ra thông tin, cũng như tóm tắt một loạt các dạng dữ liệu. Tuy nhiên, để triển khai được tốt hiệu quả, vấn đề an ninh mạng và bảo mật thông tin cũng cần được hệ thống AI quan tâm và vá kín.  Nhận dạng khuôn mặt  Nhận diện khuôn mặt bằng AI là ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào việc xác minh đặc tính gương mặt, máy tính tự động xác định, nhận dạng một người nào đó từ một bức hình ảnh kỹ thuật số hoặc một khung hình trong video. Nhận diện khuôn mặt bằng công nghệ AI thuộc một nhánh của thị giác máy tính, mà thị giác máy tính tốt hơn rất nhiều so với mắt thường của con người. Một trong những cách xác định là dựa vào những điểm nút của khuôn mặt. Công nghệ AI có thể đo tới 80 điểm nút (khoảng cách giữa các điểm trên một khuôn mặt giúp cơ chế nhận dạng khuôn mặt (FR) trở nên dễ dàng hơn.  Với cơ chế FR, một mạng lưới dạng thần kinh được hình thành trong hệ thống bằng cách nhập dữ liệu để tạo nhận dạng mẫu và những dữ liệu này bao gồm hình ảnh khuôn mặt của hàng triệu người được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau như mạng xã hội, trang web, camera giám sát có chức năng ghi nhận các ứng dụng khác có khai báo nhận dạng khuôn mặt,... AI triển khai thuật toán lưu trữ khoảng cách các điểm nút trong cơ sở dữ liệu của nó, quét nhận dạng và khớp định danh cá nhân với dữ liệu đang có.  Hiện nay, ứng dụng này được tích hợp tại nhiều hệ thống giám sát như tại cổng chấm công của công ty, các hệ thống giám sát tại sân bay, ga tàu, nơi công cộng; nhận diện khuôn mặt trong hệ thống an ninh quốc gia; trong hệ thống bảo an ngân hàng, toà nhà,...  Trong ngành vận tải  Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng trên những phương tiện vận tải tự lái, điển hình là ô tô. Sự ứng dụng này góp phần mang lại lợi ích kinh tế cao hơn nhờ khả năng cắt giảm chi phí cũng như hạn chế những tai nạn nguy hiểm đến tính mạng. Tuy nhiên, việc ứng dụng này vẫn chưa được phổ biến vì vẫn trong giai đoạn thử nghiệm, nhưng với sự hỗ trợ của thuật toán Deep Learning (học sâu) với hàng hoạt các chức năng như nhận dạng và xử lí hình ảnh; nhận dạng và điều khiển bằng giọng nói, xử lí ngôn ngữ tự nhiên; phát hiện vật cản, giải quyết bài toán điều khiển thời gian thực (real time) và xây dựng được một cơ sở dữ liệu khổng lồ về hệ thống giao thông và các tình huống giao thông, thì ứng dụng này trong tương lai sẽ sớm được đưa vào sử dụng.  Xe tự lái sẽ an toàn và xử lí thông minh các tình huống vì chúng được tích hợp nhiều tính năng tự động, các bộ cảm biến xung quanh xe luôn được phát tín hiệu phủ đủ rộng và đủ xa để phát hiện vật cản giúp phát hiện nhanh chóng các chướng ngại vật, các camera nhận dạng các tín hiệu ảnh để phân tích xử lí kịp thời theo các thuật toán với dữ liệu có sẵn (biển báo, chỉ dẫn giao thông, theo dõi phương tiện, người đi đường,...).  Tương lai công nghệ AI  Công nghệ AI đã mang lại thành công lớn trong các ngành công nghiệp khác nhau, tuy nhiên, đỉnh cao phát triển của nó vẫn chưa đến. Năm 2016, thị trường toàn cầu của AI đạt trị giá 4 tỉ USD nhưng dự đoán sẽ lên tới 169 tỉ USD vào năm 2025 và 15 700 tỉ USD vào năm 2035. Với xu thế phát triển công nghệ và ứng dụng trong đời sống xã hội đang thay đổi không ngừng, công nghệ AI đang là điểm đến nhiều hơn nữa của đa số các nhà khoa học trong tương lai.  (Theo most.gov.vn, ngày 09-09-2021)  a) Tóm tắt nội dung của văn bản Công nghệ AI của hiện tại và tương lai.  b) Văn bản trên có sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt nào? Hãy chỉ ra tác dụng của việc kết hợp đó.  c) Trong văn bản, tác giả thể hiện tư tưởng, quan điểm nào về công nghệ AI?  d) Các hình ảnh minh hoạ được đưa vào văn bản có tác dụng gì?  e) Em có nhận xét gì về các dữ liệu được sử dụng trong văn bản?  g) Trong số những ứng dụng của Al mà văn bản đề cập đến, em thích ứng dụng nào nhất? Vì sao? (ảnh 1)

Al là công nghệ sử dụng đến kĩ thuật số có khả năng thực hiện những nhiệm vụ mà bình thường phải cần tới trí thông minh của con người, được xem là phổ biến nhất. Đặc trưng của công nghệ AI là năng lực “tự học” của máy tính, do đó có thể tự phán đoán, phân tích trước các dữ liệu mới mà không cần sự hỗ trợ của con người, đồng thời có khả năng xử lí dữ liệu với số lượng rất lớn và tốc độ cao. Hiện mỗi ngày trên toàn cầu có khoảng 2,2 tỉ Gb dữ liệu mới (tương đương 165 000 tỉ trang tài liệu) được tạo ra và được các công ty như Google, Twitter, Facebook, Amazon, Baidu, Weibo, Tencent hay Alibaba thu thập để tạo thành “dữ liệu lớn” (big data). Trí tuệ nhân tạo là một lĩnh vực liên quan đến chuyên ngành khoa học máy tính và công nghệ thông tin, bản chất của trí tuệ nhân tạo vẫn do con người làm ra, họ xây dựng các thuật toán, lập trình bằng các công cụ phần mềm công nghệ thông tin, giúp các máy tính có thể tự động xử lí các hành vi thông minh như con người.

Trí tuệ nhân tạo có khả năng tự thích nghi, tự học và tự phát triển, tự đưa ra các lập luận để giải quyết vấn đề, có thể giao tiếp như người,... Vì AI được cài một cơ sở dữ liệu lớn, được lập trình trên cơ sở dữ liệu đó và tái lập trình trên cơ sở dữ liệu mới sinh ra. Cứ như vậy cấu trúc của AI luôn luôn thay đổi và thích nghi trong điều kiện và hoàn cảnh mới. Dự báo đến năm 2030 của công ty kiểm toán và tư vấn tài chính PwC, GDP toàn cầu có thể tăng trưởng thêm 14% từ sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo, AI đã xuất hiện trong nhiều ngành, từ cung cấp dịch vụ mua sắm ảo và ngân hàng trực tuyến đến giảm chi phí đầu tư trong sản xuất và hợp lí hoá chẩn đoán trong chăm sóc sức khoẻ. AI đã thúc đẩy hầu hết các ngành công nghiệp tiến lên và thay đổi cuộc sống của nhiều người.

Trong lịch sử phát triển của mình từ năm 1960 đến năm 2018, thế giới đã có gần 340 000 sáng chế đồng dạng và hơn 1,6 triệu bài báo khoa học liên quan đến phát triển trí tuệ nhân tạo được công bố. Trong thập niên 80 của thế kỉ XX, AI đã bắt đầu được quan tâm, nhưng đến những năm 2012 sự tăng tốc mới trở nên mạnh mẽ. Giai đoạn 2006 – 2012, số công bố sáng chế bình quân tăng 8% trong một năm, nhưng đến giai đoạn 2012 – 2017 mức tăng đã đạt 28% trong một năm. Số lượng đơn sáng chế liên quan đến AI tăng từ 8 515 trong năm 2006 lên đến 12 473 vào năm 2011 và 55 660 vào năm 2017 (tăng gấp 6,5 lần trong vòng 12 năm).

Trong nghiên cứu khoa học, các công bố bài báo liên quan đến AI cũng tăng lên rất nhanh chóng, đặc biệt trong thời gian đến năm 2018 với 1 636 649 bài báo được công bố. Sự xuất hiện của các bài báo khoa học về AI bắt đầu sớm hơn 10 năm trước khi diễn ra cuộc chạy đua bảo hộ sáng chế công nghệ AI. Chứng tỏ, kết quả của nghiên cứu khoa học cơ bản về AI đã có hiệu quả về mặt ứng dụng khi các cuộc đua đăng kí bảo hộ sáng chế gia tăng sau đó.

Theo hệ thống phân loại của Hiệp hội Máy tính Quốc tế ACM (Computing Analysis Scheme) có một khung phân tích rõ ràng phù hợp để tổng hợp và đại diện cho công nghệ đang thay đổi AI theo thời gian. Phân loại này đã được sử dụng trong hơn 50 năm và bản cập nhật cuối cùng vào năm 2012 đã bổ sung các công nghệ mới. Theo đó, công nghệ AI được chia thành ba hướng chính:

Kĩ thuật AI (AI Technique): là các mô hình tính toán và thống kê tiên tiến như học máy, lô gích mờ và hệ thống cơ sở tri thức cho phép tính toán nhiệm vụ do con người thực hiện; Các kĩ thuật trí tuệ nhân tạo khác nhau được sử dụng để thực hiện các chức năng khác nhau.

Ứng dụng chức năng của trí tuệ nhân tạo (AI functions application): chẳng hạn như thị giác máy tính (computer vision) có thể chứa một hoặc nhiều kĩ thuật trí tuệ khác nhau.

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo theo lĩnh vực (AI Application field): là việc sử dụng các kĩ thuật hoặc ứng dụng trí tuệ nhân tạo chức năng trong các lĩnh vực, ngành nghề cụ thể như giao thông vận tải, nông nghiệp, khoa học đời sống, y tế,...

Còn theo Me-đi-át-xten-đớt (Mediastandard), AI được chia làm ba loại gồm trí thông minh nhân tạo hẹp (ANI), trí thông minh phổ biến nhân tạo (AGI) và trí tuệ siêu nhân tạo (ASI).

Những dự đoán về ứng dụng công nghệ AI trong nhiều lĩnh vực khác nhau, các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, khởi nghiệp và chính phủ có thể định hướng mục tiêu phát triển trong tương lai:

Hỗ trợ hệ thống cổng thông tin chính phủ

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:  Công nghệ AI của hiện tại và tương lai  Công nghệ AI hiện đang là công nghệ được quan tâm phát triển và ứng dụng bậc nhất hiện nay, được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như nhận dạng khuôn mặt, xử lí giọng nói, kĩ thuật ước tính đám đông,... đến các hệ thống an ninh, bảo mật, hay hệ thống pháp luật, chính phủ.  Theo dòng chảy của cuộc cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo ngày càng được phổ biến và ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, mặc dù được Giôn Mác-ca-thy (John McCarthy) nhà khoa học máy tính người Mỹ đề cập lần đầu tiên vào những năm 1950, nhưng đến ngày nay thuật ngữ trí tuệ nhân tạo mới thực sự được biết đến rộng rãi và được các “ông lớn” của làng công nghệ chạy đua phát triển.  Al là công nghệ sử dụng đến kĩ thuật số có khả năng thực hiện những nhiệm vụ mà bình thường phải cần tới trí thông minh của con người, được xem là phổ biến nhất. Đặc trưng của công nghệ AI là năng lực “tự học” của máy tính, do đó có thể tự phán đoán, phân tích trước các dữ liệu mới mà không cần sự hỗ trợ của con người, đồng thời có khả năng xử lí dữ liệu với số lượng rất lớn và tốc độ cao. Hiện mỗi ngày trên toàn cầu có khoảng 2,2 tỉ Gb dữ liệu mới (tương đương 165 000 tỉ trang tài liệu) được tạo ra và được các công ty như Google, Twitter, Facebook, Amazon, Baidu, Weibo, Tencent hay Alibaba thu thập để tạo thành “dữ liệu lớn” (big data). Trí tuệ nhân tạo là một lĩnh vực liên quan đến chuyên ngành khoa học máy tính và công nghệ thông tin, bản chất của trí tuệ nhân tạo vẫn do con người làm ra, họ xây dựng các thuật toán, lập trình bằng các công cụ phần mềm công nghệ thông tin, giúp các máy tính có thể tự động xử lí các hành vi thông minh như con người.  Trí tuệ nhân tạo có khả năng tự thích nghi, tự học và tự phát triển, tự đưa ra các lập luận để giải quyết vấn đề, có thể giao tiếp như người,... Vì AI được cài một cơ sở dữ liệu lớn, được lập trình trên cơ sở dữ liệu đó và tái lập trình trên cơ sở dữ liệu mới sinh ra. Cứ như vậy cấu trúc của AI luôn luôn thay đổi và thích nghi trong điều kiện và hoàn cảnh mới. Dự báo đến năm 2030 của công ty kiểm toán và tư vấn tài chính PwC, GDP toàn cầu có thể tăng trưởng thêm 14% từ sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo, AI đã xuất hiện trong nhiều ngành, từ cung cấp dịch vụ mua sắm ảo và ngân hàng trực tuyến đến giảm chi phí đầu tư trong sản xuất và hợp lí hoá chẩn đoán trong chăm sóc sức khoẻ. AI đã thúc đẩy hầu hết các ngành công nghiệp tiến lên và thay đổi cuộc sống của nhiều người.  Trong lịch sử phát triển của mình từ năm 1960 đến năm 2018, thế giới đã có gần 340 000 sáng chế đồng dạng và hơn 1,6 triệu bài báo khoa học liên quan đến phát triển trí tuệ nhân tạo được công bố. Trong thập niên 80 của thế kỉ XX, AI đã bắt đầu được quan tâm, nhưng đến những năm 2012 sự tăng tốc mới trở nên mạnh mẽ. Giai đoạn 2006 – 2012, số công bố sáng chế bình quân tăng 8% trong một năm, nhưng đến giai đoạn 2012 – 2017 mức tăng đã đạt 28% trong một năm. Số lượng đơn sáng chế liên quan đến AI tăng từ 8 515 trong năm 2006 lên đến 12 473 vào năm 2011 và 55 660 vào năm 2017 (tăng gấp 6,5 lần trong vòng 12 năm).  Trong nghiên cứu khoa học, các công bố bài báo liên quan đến AI cũng tăng lên rất nhanh chóng, đặc biệt trong thời gian đến năm 2018 với 1 636 649 bài báo được công bố. Sự xuất hiện của các bài báo khoa học về AI bắt đầu sớm hơn 10 năm trước khi diễn ra cuộc chạy đua bảo hộ sáng chế công nghệ AI. Chứng tỏ, kết quả của nghiên cứu khoa học cơ bản về AI đã có hiệu quả về mặt ứng dụng khi các cuộc đua đăng kí bảo hộ sáng chế gia tăng sau đó.  Theo hệ thống phân loại của Hiệp hội Máy tính Quốc tế ACM (Computing Analysis Scheme) có một khung phân tích rõ ràng phù hợp để tổng hợp và đại diện cho công nghệ đang thay đổi AI theo thời gian. Phân loại này đã được sử dụng trong hơn 50 năm và bản cập nhật cuối cùng vào năm 2012 đã bổ sung các công nghệ mới. Theo đó, công nghệ AI được chia thành ba hướng chính:  – Kĩ thuật AI (AI Technique): là các mô hình tính toán và thống kê tiên tiến như học máy, lô gích mờ và hệ thống cơ sở tri thức cho phép tính toán nhiệm vụ do con người thực hiện; Các kĩ thuật trí tuệ nhân tạo khác nhau được sử dụng để thực hiện các chức năng khác nhau.  – Ứng dụng chức năng của trí tuệ nhân tạo (AI functions application): chẳng hạn như thị giác máy tính (computer vision) có thể chứa một hoặc nhiều kĩ thuật trí tuệ khác nhau.  – Ứng dụng trí tuệ nhân tạo theo lĩnh vực (AI Application field): là việc sử dụng các kĩ thuật hoặc ứng dụng trí tuệ nhân tạo chức năng trong các lĩnh vực, ngành nghề cụ thể như giao thông vận tải, nông nghiệp, khoa học đời sống, y tế,...  Còn theo Me-đi-át-xten-đớt (Mediastandard), AI được chia làm ba loại gồm trí thông minh nhân tạo hẹp (ANI), trí thông minh phổ biến nhân tạo (AGI) và trí tuệ siêu nhân tạo (ASI).  Những dự đoán về ứng dụng công nghệ AI trong nhiều lĩnh vực khác nhau, các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, khởi nghiệp và chính phủ có thể định hướng mục tiêu phát triển trong tương lai:  Hỗ trợ hệ thống cổng thông tin chính phủ  Công nghệ trí tuệ nhân tạo AI có thể là chia khoá để tiến tới việc cải tiến cải cách hành chính hiệu quả, triệt để, giúp thay đổi đáng kể và giải quyết nhiều vấn đề bất cập hiện nay về quản lí và điều hành của các cơ quan quản lí nhà nước các cấp. Điển hình là việc ứng dụng AI vào hệ thống chatbot (trả lời tự động) và trợ lí ảo tại các trung tâm hành chính. Điều này cho phép người dân truy vấn thông tin nhận được câu trả lời nhanh chóng, hiệu quả cũng như ngăn chặn tình trạng xếp hàng, chờ đợi như trước kia.  Với lượng dữ liệu khổng lồ lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của chính phủ, AI có khả năng tổ chức và kết hợp nhiều bộ dữ liệu để rút ra thông tin, cũng như tóm tắt một loạt các dạng dữ liệu. Tuy nhiên, để triển khai được tốt hiệu quả, vấn đề an ninh mạng và bảo mật thông tin cũng cần được hệ thống AI quan tâm và vá kín.  Nhận dạng khuôn mặt  Nhận diện khuôn mặt bằng AI là ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào việc xác minh đặc tính gương mặt, máy tính tự động xác định, nhận dạng một người nào đó từ một bức hình ảnh kỹ thuật số hoặc một khung hình trong video. Nhận diện khuôn mặt bằng công nghệ AI thuộc một nhánh của thị giác máy tính, mà thị giác máy tính tốt hơn rất nhiều so với mắt thường của con người. Một trong những cách xác định là dựa vào những điểm nút của khuôn mặt. Công nghệ AI có thể đo tới 80 điểm nút (khoảng cách giữa các điểm trên một khuôn mặt giúp cơ chế nhận dạng khuôn mặt (FR) trở nên dễ dàng hơn.  Với cơ chế FR, một mạng lưới dạng thần kinh được hình thành trong hệ thống bằng cách nhập dữ liệu để tạo nhận dạng mẫu và những dữ liệu này bao gồm hình ảnh khuôn mặt của hàng triệu người được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau như mạng xã hội, trang web, camera giám sát có chức năng ghi nhận các ứng dụng khác có khai báo nhận dạng khuôn mặt,... AI triển khai thuật toán lưu trữ khoảng cách các điểm nút trong cơ sở dữ liệu của nó, quét nhận dạng và khớp định danh cá nhân với dữ liệu đang có.  Hiện nay, ứng dụng này được tích hợp tại nhiều hệ thống giám sát như tại cổng chấm công của công ty, các hệ thống giám sát tại sân bay, ga tàu, nơi công cộng; nhận diện khuôn mặt trong hệ thống an ninh quốc gia; trong hệ thống bảo an ngân hàng, toà nhà,...  Trong ngành vận tải  Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng trên những phương tiện vận tải tự lái, điển hình là ô tô. Sự ứng dụng này góp phần mang lại lợi ích kinh tế cao hơn nhờ khả năng cắt giảm chi phí cũng như hạn chế những tai nạn nguy hiểm đến tính mạng. Tuy nhiên, việc ứng dụng này vẫn chưa được phổ biến vì vẫn trong giai đoạn thử nghiệm, nhưng với sự hỗ trợ của thuật toán Deep Learning (học sâu) với hàng hoạt các chức năng như nhận dạng và xử lí hình ảnh; nhận dạng và điều khiển bằng giọng nói, xử lí ngôn ngữ tự nhiên; phát hiện vật cản, giải quyết bài toán điều khiển thời gian thực (real time) và xây dựng được một cơ sở dữ liệu khổng lồ về hệ thống giao thông và các tình huống giao thông, thì ứng dụng này trong tương lai sẽ sớm được đưa vào sử dụng.  Xe tự lái sẽ an toàn và xử lí thông minh các tình huống vì chúng được tích hợp nhiều tính năng tự động, các bộ cảm biến xung quanh xe luôn được phát tín hiệu phủ đủ rộng và đủ xa để phát hiện vật cản giúp phát hiện nhanh chóng các chướng ngại vật, các camera nhận dạng các tín hiệu ảnh để phân tích xử lí kịp thời theo các thuật toán với dữ liệu có sẵn (biển báo, chỉ dẫn giao thông, theo dõi phương tiện, người đi đường,...).  Tương lai công nghệ AI  Công nghệ AI đã mang lại thành công lớn trong các ngành công nghiệp khác nhau, tuy nhiên, đỉnh cao phát triển của nó vẫn chưa đến. Năm 2016, thị trường toàn cầu của AI đạt trị giá 4 tỉ USD nhưng dự đoán sẽ lên tới 169 tỉ USD vào năm 2025 và 15 700 tỉ USD vào năm 2035. Với xu thế phát triển công nghệ và ứng dụng trong đời sống xã hội đang thay đổi không ngừng, công nghệ AI đang là điểm đến nhiều hơn nữa của đa số các nhà khoa học trong tương lai.  (Theo most.gov.vn, ngày 09-09-2021)  a) Tóm tắt nội dung của văn bản Công nghệ AI của hiện tại và tương lai.  b) Văn bản trên có sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt nào? Hãy chỉ ra tác dụng của việc kết hợp đó.  c) Trong văn bản, tác giả thể hiện tư tưởng, quan điểm nào về công nghệ AI?  d) Các hình ảnh minh hoạ được đưa vào văn bản có tác dụng gì?  e) Em có nhận xét gì về các dữ liệu được sử dụng trong văn bản?  g) Trong số những ứng dụng của Al mà văn bản đề cập đến, em thích ứng dụng nào nhất? Vì sao? (ảnh 2)

Công nghệ trí tuệ nhân tạo AI có thể là chia khoá để tiến tới việc cải tiến cải cách hành chính hiệu quả, triệt để, giúp thay đổi đáng kể và giải quyết nhiều vấn đề bất cập hiện nay về quản lí và điều hành của các cơ quan quản lí nhà nước các cấp. Điển hình là việc ứng dụng AI vào hệ thống chatbot (trả lời tự động) và trợ lí ảo tại các trung tâm hành chính. Điều này cho phép người dân truy vấn thông tin nhận được câu trả lời nhanh chóng, hiệu quả cũng như ngăn chặn tình trạng xếp hàng, chờ đợi như trước kia.

Với lượng dữ liệu khổng lồ lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của chính phủ, AI có khả năng tổ chức và kết hợp nhiều bộ dữ liệu để rút ra thông tin, cũng như tóm tắt một loạt các dạng dữ liệu. Tuy nhiên, để triển khai được tốt hiệu quả, vấn đề an ninh mạng và bảo mật thông tin cũng cần được hệ thống AI quan tâm và vá kín.

Nhận dạng khuôn mặt

Nhận diện khuôn mặt bằng AI là ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào việc xác minh đặc tính gương mặt, máy tính tự động xác định, nhận dạng một người nào đó từ một bức hình ảnh kỹ thuật số hoặc một khung hình trong video. Nhận diện khuôn mặt bằng công nghệ AI thuộc một nhánh của thị giác máy tính, mà thị giác máy tính tốt hơn rất nhiều so với mắt thường của con người. Một trong những cách xác định là dựa vào những điểm nút của khuôn mặt. Công nghệ AI có thể đo tới 80 điểm nút (khoảng cách giữa các điểm trên một khuôn mặt giúp cơ chế nhận dạng khuôn mặt (FR) trở nên dễ dàng hơn.

Với cơ chế FR, một mạng lưới dạng thần kinh được hình thành trong hệ thống bằng cách nhập dữ liệu để tạo nhận dạng mẫu và những dữ liệu này bao gồm hình ảnh khuôn mặt của hàng triệu người được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau như mạng xã hội, trang web, camera giám sát có chức năng ghi nhận các ứng dụng khác có khai báo nhận dạng khuôn mặt,... AI triển khai thuật toán lưu trữ khoảng cách các điểm nút trong cơ sở dữ liệu của nó, quét nhận dạng và khớp định danh cá nhân với dữ liệu đang có.

Hiện nay, ứng dụng này được tích hợp tại nhiều hệ thống giám sát như tại cổng chấm công của công ty, các hệ thống giám sát tại sân bay, ga tàu, nơi công cộng; nhận diện khuôn mặt trong hệ thống an ninh quốc gia; trong hệ thống bảo an ngân hàng, toà nhà,...

Trong ngành vận tải

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:  Công nghệ AI của hiện tại và tương lai  Công nghệ AI hiện đang là công nghệ được quan tâm phát triển và ứng dụng bậc nhất hiện nay, được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như nhận dạng khuôn mặt, xử lí giọng nói, kĩ thuật ước tính đám đông,... đến các hệ thống an ninh, bảo mật, hay hệ thống pháp luật, chính phủ.  Theo dòng chảy của cuộc cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo ngày càng được phổ biến và ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, mặc dù được Giôn Mác-ca-thy (John McCarthy) nhà khoa học máy tính người Mỹ đề cập lần đầu tiên vào những năm 1950, nhưng đến ngày nay thuật ngữ trí tuệ nhân tạo mới thực sự được biết đến rộng rãi và được các “ông lớn” của làng công nghệ chạy đua phát triển.  Al là công nghệ sử dụng đến kĩ thuật số có khả năng thực hiện những nhiệm vụ mà bình thường phải cần tới trí thông minh của con người, được xem là phổ biến nhất. Đặc trưng của công nghệ AI là năng lực “tự học” của máy tính, do đó có thể tự phán đoán, phân tích trước các dữ liệu mới mà không cần sự hỗ trợ của con người, đồng thời có khả năng xử lí dữ liệu với số lượng rất lớn và tốc độ cao. Hiện mỗi ngày trên toàn cầu có khoảng 2,2 tỉ Gb dữ liệu mới (tương đương 165 000 tỉ trang tài liệu) được tạo ra và được các công ty như Google, Twitter, Facebook, Amazon, Baidu, Weibo, Tencent hay Alibaba thu thập để tạo thành “dữ liệu lớn” (big data). Trí tuệ nhân tạo là một lĩnh vực liên quan đến chuyên ngành khoa học máy tính và công nghệ thông tin, bản chất của trí tuệ nhân tạo vẫn do con người làm ra, họ xây dựng các thuật toán, lập trình bằng các công cụ phần mềm công nghệ thông tin, giúp các máy tính có thể tự động xử lí các hành vi thông minh như con người.  Trí tuệ nhân tạo có khả năng tự thích nghi, tự học và tự phát triển, tự đưa ra các lập luận để giải quyết vấn đề, có thể giao tiếp như người,... Vì AI được cài một cơ sở dữ liệu lớn, được lập trình trên cơ sở dữ liệu đó và tái lập trình trên cơ sở dữ liệu mới sinh ra. Cứ như vậy cấu trúc của AI luôn luôn thay đổi và thích nghi trong điều kiện và hoàn cảnh mới. Dự báo đến năm 2030 của công ty kiểm toán và tư vấn tài chính PwC, GDP toàn cầu có thể tăng trưởng thêm 14% từ sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo, AI đã xuất hiện trong nhiều ngành, từ cung cấp dịch vụ mua sắm ảo và ngân hàng trực tuyến đến giảm chi phí đầu tư trong sản xuất và hợp lí hoá chẩn đoán trong chăm sóc sức khoẻ. AI đã thúc đẩy hầu hết các ngành công nghiệp tiến lên và thay đổi cuộc sống của nhiều người.  Trong lịch sử phát triển của mình từ năm 1960 đến năm 2018, thế giới đã có gần 340 000 sáng chế đồng dạng và hơn 1,6 triệu bài báo khoa học liên quan đến phát triển trí tuệ nhân tạo được công bố. Trong thập niên 80 của thế kỉ XX, AI đã bắt đầu được quan tâm, nhưng đến những năm 2012 sự tăng tốc mới trở nên mạnh mẽ. Giai đoạn 2006 – 2012, số công bố sáng chế bình quân tăng 8% trong một năm, nhưng đến giai đoạn 2012 – 2017 mức tăng đã đạt 28% trong một năm. Số lượng đơn sáng chế liên quan đến AI tăng từ 8 515 trong năm 2006 lên đến 12 473 vào năm 2011 và 55 660 vào năm 2017 (tăng gấp 6,5 lần trong vòng 12 năm).  Trong nghiên cứu khoa học, các công bố bài báo liên quan đến AI cũng tăng lên rất nhanh chóng, đặc biệt trong thời gian đến năm 2018 với 1 636 649 bài báo được công bố. Sự xuất hiện của các bài báo khoa học về AI bắt đầu sớm hơn 10 năm trước khi diễn ra cuộc chạy đua bảo hộ sáng chế công nghệ AI. Chứng tỏ, kết quả của nghiên cứu khoa học cơ bản về AI đã có hiệu quả về mặt ứng dụng khi các cuộc đua đăng kí bảo hộ sáng chế gia tăng sau đó.  Theo hệ thống phân loại của Hiệp hội Máy tính Quốc tế ACM (Computing Analysis Scheme) có một khung phân tích rõ ràng phù hợp để tổng hợp và đại diện cho công nghệ đang thay đổi AI theo thời gian. Phân loại này đã được sử dụng trong hơn 50 năm và bản cập nhật cuối cùng vào năm 2012 đã bổ sung các công nghệ mới. Theo đó, công nghệ AI được chia thành ba hướng chính:  – Kĩ thuật AI (AI Technique): là các mô hình tính toán và thống kê tiên tiến như học máy, lô gích mờ và hệ thống cơ sở tri thức cho phép tính toán nhiệm vụ do con người thực hiện; Các kĩ thuật trí tuệ nhân tạo khác nhau được sử dụng để thực hiện các chức năng khác nhau.  – Ứng dụng chức năng của trí tuệ nhân tạo (AI functions application): chẳng hạn như thị giác máy tính (computer vision) có thể chứa một hoặc nhiều kĩ thuật trí tuệ khác nhau.  – Ứng dụng trí tuệ nhân tạo theo lĩnh vực (AI Application field): là việc sử dụng các kĩ thuật hoặc ứng dụng trí tuệ nhân tạo chức năng trong các lĩnh vực, ngành nghề cụ thể như giao thông vận tải, nông nghiệp, khoa học đời sống, y tế,...  Còn theo Me-đi-át-xten-đớt (Mediastandard), AI được chia làm ba loại gồm trí thông minh nhân tạo hẹp (ANI), trí thông minh phổ biến nhân tạo (AGI) và trí tuệ siêu nhân tạo (ASI).  Những dự đoán về ứng dụng công nghệ AI trong nhiều lĩnh vực khác nhau, các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, khởi nghiệp và chính phủ có thể định hướng mục tiêu phát triển trong tương lai:  Hỗ trợ hệ thống cổng thông tin chính phủ  Công nghệ trí tuệ nhân tạo AI có thể là chia khoá để tiến tới việc cải tiến cải cách hành chính hiệu quả, triệt để, giúp thay đổi đáng kể và giải quyết nhiều vấn đề bất cập hiện nay về quản lí và điều hành của các cơ quan quản lí nhà nước các cấp. Điển hình là việc ứng dụng AI vào hệ thống chatbot (trả lời tự động) và trợ lí ảo tại các trung tâm hành chính. Điều này cho phép người dân truy vấn thông tin nhận được câu trả lời nhanh chóng, hiệu quả cũng như ngăn chặn tình trạng xếp hàng, chờ đợi như trước kia.  Với lượng dữ liệu khổng lồ lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của chính phủ, AI có khả năng tổ chức và kết hợp nhiều bộ dữ liệu để rút ra thông tin, cũng như tóm tắt một loạt các dạng dữ liệu. Tuy nhiên, để triển khai được tốt hiệu quả, vấn đề an ninh mạng và bảo mật thông tin cũng cần được hệ thống AI quan tâm và vá kín.  Nhận dạng khuôn mặt  Nhận diện khuôn mặt bằng AI là ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào việc xác minh đặc tính gương mặt, máy tính tự động xác định, nhận dạng một người nào đó từ một bức hình ảnh kỹ thuật số hoặc một khung hình trong video. Nhận diện khuôn mặt bằng công nghệ AI thuộc một nhánh của thị giác máy tính, mà thị giác máy tính tốt hơn rất nhiều so với mắt thường của con người. Một trong những cách xác định là dựa vào những điểm nút của khuôn mặt. Công nghệ AI có thể đo tới 80 điểm nút (khoảng cách giữa các điểm trên một khuôn mặt giúp cơ chế nhận dạng khuôn mặt (FR) trở nên dễ dàng hơn.  Với cơ chế FR, một mạng lưới dạng thần kinh được hình thành trong hệ thống bằng cách nhập dữ liệu để tạo nhận dạng mẫu và những dữ liệu này bao gồm hình ảnh khuôn mặt của hàng triệu người được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau như mạng xã hội, trang web, camera giám sát có chức năng ghi nhận các ứng dụng khác có khai báo nhận dạng khuôn mặt,... AI triển khai thuật toán lưu trữ khoảng cách các điểm nút trong cơ sở dữ liệu của nó, quét nhận dạng và khớp định danh cá nhân với dữ liệu đang có.  Hiện nay, ứng dụng này được tích hợp tại nhiều hệ thống giám sát như tại cổng chấm công của công ty, các hệ thống giám sát tại sân bay, ga tàu, nơi công cộng; nhận diện khuôn mặt trong hệ thống an ninh quốc gia; trong hệ thống bảo an ngân hàng, toà nhà,...  Trong ngành vận tải  Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng trên những phương tiện vận tải tự lái, điển hình là ô tô. Sự ứng dụng này góp phần mang lại lợi ích kinh tế cao hơn nhờ khả năng cắt giảm chi phí cũng như hạn chế những tai nạn nguy hiểm đến tính mạng. Tuy nhiên, việc ứng dụng này vẫn chưa được phổ biến vì vẫn trong giai đoạn thử nghiệm, nhưng với sự hỗ trợ của thuật toán Deep Learning (học sâu) với hàng hoạt các chức năng như nhận dạng và xử lí hình ảnh; nhận dạng và điều khiển bằng giọng nói, xử lí ngôn ngữ tự nhiên; phát hiện vật cản, giải quyết bài toán điều khiển thời gian thực (real time) và xây dựng được một cơ sở dữ liệu khổng lồ về hệ thống giao thông và các tình huống giao thông, thì ứng dụng này trong tương lai sẽ sớm được đưa vào sử dụng.  Xe tự lái sẽ an toàn và xử lí thông minh các tình huống vì chúng được tích hợp nhiều tính năng tự động, các bộ cảm biến xung quanh xe luôn được phát tín hiệu phủ đủ rộng và đủ xa để phát hiện vật cản giúp phát hiện nhanh chóng các chướng ngại vật, các camera nhận dạng các tín hiệu ảnh để phân tích xử lí kịp thời theo các thuật toán với dữ liệu có sẵn (biển báo, chỉ dẫn giao thông, theo dõi phương tiện, người đi đường,...).  Tương lai công nghệ AI  Công nghệ AI đã mang lại thành công lớn trong các ngành công nghiệp khác nhau, tuy nhiên, đỉnh cao phát triển của nó vẫn chưa đến. Năm 2016, thị trường toàn cầu của AI đạt trị giá 4 tỉ USD nhưng dự đoán sẽ lên tới 169 tỉ USD vào năm 2025 và 15 700 tỉ USD vào năm 2035. Với xu thế phát triển công nghệ và ứng dụng trong đời sống xã hội đang thay đổi không ngừng, công nghệ AI đang là điểm đến nhiều hơn nữa của đa số các nhà khoa học trong tương lai.  (Theo most.gov.vn, ngày 09-09-2021)  a) Tóm tắt nội dung của văn bản Công nghệ AI của hiện tại và tương lai.  b) Văn bản trên có sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt nào? Hãy chỉ ra tác dụng của việc kết hợp đó.  c) Trong văn bản, tác giả thể hiện tư tưởng, quan điểm nào về công nghệ AI?  d) Các hình ảnh minh hoạ được đưa vào văn bản có tác dụng gì?  e) Em có nhận xét gì về các dữ liệu được sử dụng trong văn bản?  g) Trong số những ứng dụng của Al mà văn bản đề cập đến, em thích ứng dụng nào nhất? Vì sao? (ảnh 3)

Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng trên những phương tiện vận tải tự lái, điển hình là ô tô. Sự ứng dụng này góp phần mang lại lợi ích kinh tế cao hơn nhờ khả năng cắt giảm chi phí cũng như hạn chế những tai nạn nguy hiểm đến tính mạng. Tuy nhiên, việc ứng dụng này vẫn chưa được phổ biến vì vẫn trong giai đoạn thử nghiệm, nhưng với sự hỗ trợ của thuật toán Deep Learning (học sâu) với hàng hoạt các chức năng như nhận dạng và xử lí hình ảnh; nhận dạng và điều khiển bằng giọng nói, xử lí ngôn ngữ tự nhiên; phát hiện vật cản, giải quyết bài toán điều khiển thời gian thực (real time) và xây dựng được một cơ sở dữ liệu khổng lồ về hệ thống giao thông và các tình huống giao thông, thì ứng dụng này trong tương lai sẽ sớm được đưa vào sử dụng.

Xe tự lái sẽ an toàn và xử lí thông minh các tình huống vì chúng được tích hợp nhiều tính năng tự động, các bộ cảm biến xung quanh xe luôn được phát tín hiệu phủ đủ rộng và đủ xa để phát hiện vật cản giúp phát hiện nhanh chóng các chướng ngại vật, các camera nhận dạng các tín hiệu ảnh để phân tích xử lí kịp thời theo các thuật toán với dữ liệu có sẵn (biển báo, chỉ dẫn giao thông, theo dõi phương tiện, người đi đường,...).

Tương lai công nghệ AI

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:  Công nghệ AI của hiện tại và tương lai  Công nghệ AI hiện đang là công nghệ được quan tâm phát triển và ứng dụng bậc nhất hiện nay, được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như nhận dạng khuôn mặt, xử lí giọng nói, kĩ thuật ước tính đám đông,... đến các hệ thống an ninh, bảo mật, hay hệ thống pháp luật, chính phủ.  Theo dòng chảy của cuộc cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo ngày càng được phổ biến và ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, mặc dù được Giôn Mác-ca-thy (John McCarthy) nhà khoa học máy tính người Mỹ đề cập lần đầu tiên vào những năm 1950, nhưng đến ngày nay thuật ngữ trí tuệ nhân tạo mới thực sự được biết đến rộng rãi và được các “ông lớn” của làng công nghệ chạy đua phát triển.  Al là công nghệ sử dụng đến kĩ thuật số có khả năng thực hiện những nhiệm vụ mà bình thường phải cần tới trí thông minh của con người, được xem là phổ biến nhất. Đặc trưng của công nghệ AI là năng lực “tự học” của máy tính, do đó có thể tự phán đoán, phân tích trước các dữ liệu mới mà không cần sự hỗ trợ của con người, đồng thời có khả năng xử lí dữ liệu với số lượng rất lớn và tốc độ cao. Hiện mỗi ngày trên toàn cầu có khoảng 2,2 tỉ Gb dữ liệu mới (tương đương 165 000 tỉ trang tài liệu) được tạo ra và được các công ty như Google, Twitter, Facebook, Amazon, Baidu, Weibo, Tencent hay Alibaba thu thập để tạo thành “dữ liệu lớn” (big data). Trí tuệ nhân tạo là một lĩnh vực liên quan đến chuyên ngành khoa học máy tính và công nghệ thông tin, bản chất của trí tuệ nhân tạo vẫn do con người làm ra, họ xây dựng các thuật toán, lập trình bằng các công cụ phần mềm công nghệ thông tin, giúp các máy tính có thể tự động xử lí các hành vi thông minh như con người.  Trí tuệ nhân tạo có khả năng tự thích nghi, tự học và tự phát triển, tự đưa ra các lập luận để giải quyết vấn đề, có thể giao tiếp như người,... Vì AI được cài một cơ sở dữ liệu lớn, được lập trình trên cơ sở dữ liệu đó và tái lập trình trên cơ sở dữ liệu mới sinh ra. Cứ như vậy cấu trúc của AI luôn luôn thay đổi và thích nghi trong điều kiện và hoàn cảnh mới. Dự báo đến năm 2030 của công ty kiểm toán và tư vấn tài chính PwC, GDP toàn cầu có thể tăng trưởng thêm 14% từ sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo, AI đã xuất hiện trong nhiều ngành, từ cung cấp dịch vụ mua sắm ảo và ngân hàng trực tuyến đến giảm chi phí đầu tư trong sản xuất và hợp lí hoá chẩn đoán trong chăm sóc sức khoẻ. AI đã thúc đẩy hầu hết các ngành công nghiệp tiến lên và thay đổi cuộc sống của nhiều người.  Trong lịch sử phát triển của mình từ năm 1960 đến năm 2018, thế giới đã có gần 340 000 sáng chế đồng dạng và hơn 1,6 triệu bài báo khoa học liên quan đến phát triển trí tuệ nhân tạo được công bố. Trong thập niên 80 của thế kỉ XX, AI đã bắt đầu được quan tâm, nhưng đến những năm 2012 sự tăng tốc mới trở nên mạnh mẽ. Giai đoạn 2006 – 2012, số công bố sáng chế bình quân tăng 8% trong một năm, nhưng đến giai đoạn 2012 – 2017 mức tăng đã đạt 28% trong một năm. Số lượng đơn sáng chế liên quan đến AI tăng từ 8 515 trong năm 2006 lên đến 12 473 vào năm 2011 và 55 660 vào năm 2017 (tăng gấp 6,5 lần trong vòng 12 năm).  Trong nghiên cứu khoa học, các công bố bài báo liên quan đến AI cũng tăng lên rất nhanh chóng, đặc biệt trong thời gian đến năm 2018 với 1 636 649 bài báo được công bố. Sự xuất hiện của các bài báo khoa học về AI bắt đầu sớm hơn 10 năm trước khi diễn ra cuộc chạy đua bảo hộ sáng chế công nghệ AI. Chứng tỏ, kết quả của nghiên cứu khoa học cơ bản về AI đã có hiệu quả về mặt ứng dụng khi các cuộc đua đăng kí bảo hộ sáng chế gia tăng sau đó.  Theo hệ thống phân loại của Hiệp hội Máy tính Quốc tế ACM (Computing Analysis Scheme) có một khung phân tích rõ ràng phù hợp để tổng hợp và đại diện cho công nghệ đang thay đổi AI theo thời gian. Phân loại này đã được sử dụng trong hơn 50 năm và bản cập nhật cuối cùng vào năm 2012 đã bổ sung các công nghệ mới. Theo đó, công nghệ AI được chia thành ba hướng chính:  – Kĩ thuật AI (AI Technique): là các mô hình tính toán và thống kê tiên tiến như học máy, lô gích mờ và hệ thống cơ sở tri thức cho phép tính toán nhiệm vụ do con người thực hiện; Các kĩ thuật trí tuệ nhân tạo khác nhau được sử dụng để thực hiện các chức năng khác nhau.  – Ứng dụng chức năng của trí tuệ nhân tạo (AI functions application): chẳng hạn như thị giác máy tính (computer vision) có thể chứa một hoặc nhiều kĩ thuật trí tuệ khác nhau.  – Ứng dụng trí tuệ nhân tạo theo lĩnh vực (AI Application field): là việc sử dụng các kĩ thuật hoặc ứng dụng trí tuệ nhân tạo chức năng trong các lĩnh vực, ngành nghề cụ thể như giao thông vận tải, nông nghiệp, khoa học đời sống, y tế,...  Còn theo Me-đi-át-xten-đớt (Mediastandard), AI được chia làm ba loại gồm trí thông minh nhân tạo hẹp (ANI), trí thông minh phổ biến nhân tạo (AGI) và trí tuệ siêu nhân tạo (ASI).  Những dự đoán về ứng dụng công nghệ AI trong nhiều lĩnh vực khác nhau, các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, khởi nghiệp và chính phủ có thể định hướng mục tiêu phát triển trong tương lai:  Hỗ trợ hệ thống cổng thông tin chính phủ  Công nghệ trí tuệ nhân tạo AI có thể là chia khoá để tiến tới việc cải tiến cải cách hành chính hiệu quả, triệt để, giúp thay đổi đáng kể và giải quyết nhiều vấn đề bất cập hiện nay về quản lí và điều hành của các cơ quan quản lí nhà nước các cấp. Điển hình là việc ứng dụng AI vào hệ thống chatbot (trả lời tự động) và trợ lí ảo tại các trung tâm hành chính. Điều này cho phép người dân truy vấn thông tin nhận được câu trả lời nhanh chóng, hiệu quả cũng như ngăn chặn tình trạng xếp hàng, chờ đợi như trước kia.  Với lượng dữ liệu khổng lồ lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của chính phủ, AI có khả năng tổ chức và kết hợp nhiều bộ dữ liệu để rút ra thông tin, cũng như tóm tắt một loạt các dạng dữ liệu. Tuy nhiên, để triển khai được tốt hiệu quả, vấn đề an ninh mạng và bảo mật thông tin cũng cần được hệ thống AI quan tâm và vá kín.  Nhận dạng khuôn mặt  Nhận diện khuôn mặt bằng AI là ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào việc xác minh đặc tính gương mặt, máy tính tự động xác định, nhận dạng một người nào đó từ một bức hình ảnh kỹ thuật số hoặc một khung hình trong video. Nhận diện khuôn mặt bằng công nghệ AI thuộc một nhánh của thị giác máy tính, mà thị giác máy tính tốt hơn rất nhiều so với mắt thường của con người. Một trong những cách xác định là dựa vào những điểm nút của khuôn mặt. Công nghệ AI có thể đo tới 80 điểm nút (khoảng cách giữa các điểm trên một khuôn mặt giúp cơ chế nhận dạng khuôn mặt (FR) trở nên dễ dàng hơn.  Với cơ chế FR, một mạng lưới dạng thần kinh được hình thành trong hệ thống bằng cách nhập dữ liệu để tạo nhận dạng mẫu và những dữ liệu này bao gồm hình ảnh khuôn mặt của hàng triệu người được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau như mạng xã hội, trang web, camera giám sát có chức năng ghi nhận các ứng dụng khác có khai báo nhận dạng khuôn mặt,... AI triển khai thuật toán lưu trữ khoảng cách các điểm nút trong cơ sở dữ liệu của nó, quét nhận dạng và khớp định danh cá nhân với dữ liệu đang có.  Hiện nay, ứng dụng này được tích hợp tại nhiều hệ thống giám sát như tại cổng chấm công của công ty, các hệ thống giám sát tại sân bay, ga tàu, nơi công cộng; nhận diện khuôn mặt trong hệ thống an ninh quốc gia; trong hệ thống bảo an ngân hàng, toà nhà,...  Trong ngành vận tải  Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng trên những phương tiện vận tải tự lái, điển hình là ô tô. Sự ứng dụng này góp phần mang lại lợi ích kinh tế cao hơn nhờ khả năng cắt giảm chi phí cũng như hạn chế những tai nạn nguy hiểm đến tính mạng. Tuy nhiên, việc ứng dụng này vẫn chưa được phổ biến vì vẫn trong giai đoạn thử nghiệm, nhưng với sự hỗ trợ của thuật toán Deep Learning (học sâu) với hàng hoạt các chức năng như nhận dạng và xử lí hình ảnh; nhận dạng và điều khiển bằng giọng nói, xử lí ngôn ngữ tự nhiên; phát hiện vật cản, giải quyết bài toán điều khiển thời gian thực (real time) và xây dựng được một cơ sở dữ liệu khổng lồ về hệ thống giao thông và các tình huống giao thông, thì ứng dụng này trong tương lai sẽ sớm được đưa vào sử dụng.  Xe tự lái sẽ an toàn và xử lí thông minh các tình huống vì chúng được tích hợp nhiều tính năng tự động, các bộ cảm biến xung quanh xe luôn được phát tín hiệu phủ đủ rộng và đủ xa để phát hiện vật cản giúp phát hiện nhanh chóng các chướng ngại vật, các camera nhận dạng các tín hiệu ảnh để phân tích xử lí kịp thời theo các thuật toán với dữ liệu có sẵn (biển báo, chỉ dẫn giao thông, theo dõi phương tiện, người đi đường,...).  Tương lai công nghệ AI  Công nghệ AI đã mang lại thành công lớn trong các ngành công nghiệp khác nhau, tuy nhiên, đỉnh cao phát triển của nó vẫn chưa đến. Năm 2016, thị trường toàn cầu của AI đạt trị giá 4 tỉ USD nhưng dự đoán sẽ lên tới 169 tỉ USD vào năm 2025 và 15 700 tỉ USD vào năm 2035. Với xu thế phát triển công nghệ và ứng dụng trong đời sống xã hội đang thay đổi không ngừng, công nghệ AI đang là điểm đến nhiều hơn nữa của đa số các nhà khoa học trong tương lai.  (Theo most.gov.vn, ngày 09-09-2021)  a) Tóm tắt nội dung của văn bản Công nghệ AI của hiện tại và tương lai.  b) Văn bản trên có sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt nào? Hãy chỉ ra tác dụng của việc kết hợp đó.  c) Trong văn bản, tác giả thể hiện tư tưởng, quan điểm nào về công nghệ AI?  d) Các hình ảnh minh hoạ được đưa vào văn bản có tác dụng gì?  e) Em có nhận xét gì về các dữ liệu được sử dụng trong văn bản?  g) Trong số những ứng dụng của Al mà văn bản đề cập đến, em thích ứng dụng nào nhất? Vì sao? (ảnh 4)

Công nghệ AI đã mang lại thành công lớn trong các ngành công nghiệp khác nhau, tuy nhiên, đỉnh cao phát triển của nó vẫn chưa đến. Năm 2016, thị trường toàn cầu của AI đạt trị giá 4 tỉ USD nhưng dự đoán sẽ lên tới 169 tỉ USD vào năm 2025 và 15 700 tỉ USD vào năm 2035. Với xu thế phát triển công nghệ và ứng dụng trong đời sống xã hội đang thay đổi không ngừng, công nghệ AI đang là điểm đến nhiều hơn nữa của đa số các nhà khoa học trong tương lai.

(Theo most.gov.vn, ngày 09-09-2021)

a) Tóm tắt nội dung của văn bản Công nghệ AI của hiện tại và tương lai.

b) Văn bản trên có sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt nào? Hãy chỉ ra tác dụng của việc kết hợp đó.

c) Trong văn bản, tác giả thể hiện tư tưởng, quan điểm nào về công nghệ AI?

d) Các hình ảnh minh hoạ được đưa vào văn bản có tác dụng gì?

e) Em có nhận xét gì về các dữ liệu được sử dụng trong văn bản?

g) Trong số những ứng dụng của Al mà văn bản đề cập đến, em thích ứng dụng nào nhất? Vì sao?


4.6

11 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%