Danh sách câu hỏi

Có 28,949 câu hỏi trên 579 trang
Đọc bài phỏng vấn sau và trả lời câu hỏi:ĐIỀU GÌ THẬT NHẤT TRONG THƠ?Một số độc giả nhỏ tuổi của “Văn học và Tuổi trẻ” đã gửi câu hỏi đến ban biên tập toà soạn với mong muốn được kết nối và trao đổi với nhà thơ Mai Văn Phấn (MVP) – tác giả bài thơ “Con chào mào”. Từ những câu hỏi của độc giả, phóng viên (PV) “Văn học và Tuổi trẻ” đã liên hệ và phỏng vấn nhà thơ để đi tìm câu trả lời cho những băn khoăn, thắc mắc: Liệu có một “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” thật không? Và điều gì mới là thật nhất trong thơ?...PV: Thưa nhà thơ Mai Văn Phấn, là một tác giả luôn cách tân không mệt mỏi, luôn tìm kiếm những điều mới lạ trong thơ, có bao giờ ông nghĩ rằng những thay đổi liên tục để tạo nên sự khác biệt ấy khiến cho những bài thơ trở nên khó hiểu, khó cảm nhận đối với độc giả?MVP: Sáng tạo là hành trình đi tìm những giá trị mới cùng những cách thể hiện mới lạ, độc đáo. Hành trình ấy nhằm mở rộng, làm phong phú thêm thế giới nghệ thuật thơ, đẩy xa hơn nữa đường biên của tưởng tượng, của cảm xúc. Mỗi bài thơ nên là một cuộc lên đường, mở ra hành trình mới. Và, tôi mong mỏi độc giả cũng tiếp nhận tác phẩm thơ bằng tinh thần ấy. Quá trình viết và đọc có thể giao thoa, cũng có thể lệch nhịp. Tuy nhiên, với cả người viết và người đọc, thơ ca tạo cho chúng ta cơ hội phát hiện, khám phá được điều kì diệu, mới mẻ trong một thế giới mà ta tưởng rằng mọi thứ đã trở nên quen thuộc, hoặc nhàm chán. Do vậy, cả người viết và người đọc nên cùng hướng về phía trước, chống lại những thói quen cũ kĩ. Ngay cả với những bài thơ được gọi là truyền thống, là kinh điển, với mỗi người đọc mới, với một lần đọc mới, cũng là một hành trình và thách thức mới. Với một nhà thơ, cách tân là cuộc lột xác nhọc nhằn, thì với độc giả, tiếp nhận những giá trị mới, khác lạ cũng là một hành trình không dễ dàng. Cho nên vượt qua được nỗi sợ sự “khó hiểu”, “khó cảm nhận” rồi thì cả người viết và người đọc đều chạm tới được những giá trị mới trong cảm xúc và nhận thức.PV: Có ý kiến cho rằng “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” trong bài thơ “Con chào mào” là không có thật, không có một con chào mào như vậy trong thiên nhiên. Phải chăng nhà thơ đã từng nhìn thấy con chào mào như vậy? Hay đây chỉ là một sự tưởng tượng phi thực tế?MVP: Nếu ví thơ như cái cây thì rễ của nó nhất định phải bám vào đất mẹ – mảnh đất của hiện thực đời sống. Cái cây kia sống nhờ đất mà đơm hoa kết trái, hoa trái lại mang hình hài, sứ mệnh và giá trị của riêng nó. Thơ ca cũng tương tự như vậy, nó không sao chép, mô phỏng đời sống mà thăng hoa, phát sáng từ hiện thực bằng nghệ thuật ngôn từ. Để có được hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”, tôi đã làm bạn với không biết bao nhiêu con chào mào, với nhiều loài chim kể từ khi tôi còn là một đứa trẻ. Rồi một hôm nghe như có tiếng con chào mào nào đó hót vang giữa không trung, trong tôi bỗng xuất hiện hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”. Hình ảnh ấy đã sáng lên trong tưởng tượng của tôi như một ngôi sao, như đốm lửa dẫn dắt tôi đến khi bài thơ kết thúc. Đơn giản là tôi nhận thấy vẻ đẹp đầy sức hút, rực rỡ và tươi mới trong hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”. Con chào mào đốm trắng mũ đỏ ở đây hay con phượng hoàng lửa trong câu chuyện cổ, con rồng trong văn hoá phương Đông,... vừa thực vừa không thực – như mọi hình tượng thơ. Nó bay và hót để nối liền bầu trời thực và bầu trời tưởng tượng trong đời sống của chúng ta.PV: Hình như có một nhà thơ đã từng nói rằng khoảng cách giữa ngôn từ và hiện thực là một vực thẳm trong thơ. Điều này có làm cho thơ trở nên khó hiểu và khó đọc hay không?MVP: Những ai đã từng thử làm một bài thơ đều thấy rằng thể hiện được hiện thực đời sống (bao gồm cả thế giới bên ngoài và thế giới tâm hồn bên trong con người bằng ngôn từ là điều khó khăn, thách thức. Không phải lúc nào người viết cũng tìm được hình thức ngôn từ phù hợp, đắc địa để biểu đạt được ý tưởng, hiện thực đời sống, hiện thực tinh thần. Tìm kiếm và gắn kết được hiện thực và ngôn ngữ thơ ca là một quá trình khổ công của người viết. Quả thực, nếu người viết không tìm được cách thể hiện hiện thực đời sống, hiện thực tâm hồn thì việc làm thơ còn khó khăn hơn vượt qua một vực thẳm. Việc giảm bớt sự ngăn cách của “vực thẳm” kia hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng, vào quan niệm của người viết. Theo tôi, vươn tới sự giản dị, vận dụng tối đa cách nói đời thường cũng là một trong những thủ pháp làm cho thơ hiện đại đến gần hơn với người đọc. Vấn đề còn nằm ở sự tiếp nhận của người đọc nữa. Vì thế, rất cần sự đồng điệu, sáng tạo, thậm chí là đột phá của người đọc trong tiếp nhận thơ ca.PV: Vậy theo nhà thơ, điều gì mới là thật nhất trong thơ? Cụ thể là trong bài thơ “Con chào mào”.. MVP: Trong sáng tạo thơ ca, ngoài chiều sâu văn hoá và bút pháp vững vàng, điều quan trọng nhất với nhà thơ là nguồn cảm hứng mãnh liệt, xuyên suốt trong khi viết. Cảm xúc chi phối sự lựa chọn hình tượng, ngôn từ. Cảm xúc là điều thật nhất và tác động mạnh mẽ nhất đến sự thể hiện hình tượng. Cảm xúc dẫn dắt và giúp nhà thơ bộc lộ hết khả năng sáng tạo, khơi lộ được vẻ đẹp tâm hồn mình để dựng lên một hình tượng thơ. Cảm xúc thật thì hình tượng thật, dù hình tượng ấy được thể hiện bằng bút pháp nào. Bài thơ “Con chào mào” của tôi được viết trong trạng thái như vậy. Nó là sự kết tụ vẻ đẹp, sức sống bất diệt của thiên nhiên mà tôi đã được trải nghiệm, và giờ đây càng muốn gìn giữ, bảo vệ. Vì thế, “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”, “khung nắng khung gió”, “nhành cây xanh... và cả cái trạng thái “hối hả đuổi theo”. với tôi, đều là thật, đó là tình yêu mà tôi dâng tặng cho thiên nhiên, cho những vẻ đẹp tự do, như nó vốn có, không sở hữu và không thể trói buộc, dù dưới bất kì hình thức nào. Nhưng nó vẫn là trong tôi, vẫn ngân lên như tiếng hót và bay vút trong không gian xanh...PV: Những điều nhà thơ chia sẻ thật ý nghĩa và thú vị. Qua đó, độc giả nhỏ tuổi hẳn sẽ cảm thấy bài thơ “Con chào mào” gần gũi, dễ tiếp nhận hơn. Đồng thời, các bạn ấy cũng có thể hiểu thông điệp mà nhà thơ gửi gắm qua hình tượng “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” để biết trân trọng hơn vẻ đẹp của sự sống, của thiên nhiên quanh ta. Xin trân trọng cảm ơn nhà thơ!(Theo Hà Ngân, Văn học và Tuổi trẻ, tháng 12/2023) Câu trả lời của người được phỏng vấn có quan hệ như thế nào với vấn đề được nêu trong câu hỏi?
Đọc bài phỏng vấn sau và trả lời câu hỏi:ĐIỀU GÌ THẬT NHẤT TRONG THƠ?Một số độc giả nhỏ tuổi của “Văn học và Tuổi trẻ” đã gửi câu hỏi đến ban biên tập toà soạn với mong muốn được kết nối và trao đổi với nhà thơ Mai Văn Phấn (MVP) – tác giả bài thơ “Con chào mào”. Từ những câu hỏi của độc giả, phóng viên (PV) “Văn học và Tuổi trẻ” đã liên hệ và phỏng vấn nhà thơ để đi tìm câu trả lời cho những băn khoăn, thắc mắc: Liệu có một “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” thật không? Và điều gì mới là thật nhất trong thơ?...PV: Thưa nhà thơ Mai Văn Phấn, là một tác giả luôn cách tân không mệt mỏi, luôn tìm kiếm những điều mới lạ trong thơ, có bao giờ ông nghĩ rằng những thay đổi liên tục để tạo nên sự khác biệt ấy khiến cho những bài thơ trở nên khó hiểu, khó cảm nhận đối với độc giả?MVP: Sáng tạo là hành trình đi tìm những giá trị mới cùng những cách thể hiện mới lạ, độc đáo. Hành trình ấy nhằm mở rộng, làm phong phú thêm thế giới nghệ thuật thơ, đẩy xa hơn nữa đường biên của tưởng tượng, của cảm xúc. Mỗi bài thơ nên là một cuộc lên đường, mở ra hành trình mới. Và, tôi mong mỏi độc giả cũng tiếp nhận tác phẩm thơ bằng tinh thần ấy. Quá trình viết và đọc có thể giao thoa, cũng có thể lệch nhịp. Tuy nhiên, với cả người viết và người đọc, thơ ca tạo cho chúng ta cơ hội phát hiện, khám phá được điều kì diệu, mới mẻ trong một thế giới mà ta tưởng rằng mọi thứ đã trở nên quen thuộc, hoặc nhàm chán. Do vậy, cả người viết và người đọc nên cùng hướng về phía trước, chống lại những thói quen cũ kĩ. Ngay cả với những bài thơ được gọi là truyền thống, là kinh điển, với mỗi người đọc mới, với một lần đọc mới, cũng là một hành trình và thách thức mới. Với một nhà thơ, cách tân là cuộc lột xác nhọc nhằn, thì với độc giả, tiếp nhận những giá trị mới, khác lạ cũng là một hành trình không dễ dàng. Cho nên vượt qua được nỗi sợ sự “khó hiểu”, “khó cảm nhận” rồi thì cả người viết và người đọc đều chạm tới được những giá trị mới trong cảm xúc và nhận thức.PV: Có ý kiến cho rằng “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” trong bài thơ “Con chào mào” là không có thật, không có một con chào mào như vậy trong thiên nhiên. Phải chăng nhà thơ đã từng nhìn thấy con chào mào như vậy? Hay đây chỉ là một sự tưởng tượng phi thực tế?MVP: Nếu ví thơ như cái cây thì rễ của nó nhất định phải bám vào đất mẹ – mảnh đất của hiện thực đời sống. Cái cây kia sống nhờ đất mà đơm hoa kết trái, hoa trái lại mang hình hài, sứ mệnh và giá trị của riêng nó. Thơ ca cũng tương tự như vậy, nó không sao chép, mô phỏng đời sống mà thăng hoa, phát sáng từ hiện thực bằng nghệ thuật ngôn từ. Để có được hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”, tôi đã làm bạn với không biết bao nhiêu con chào mào, với nhiều loài chim kể từ khi tôi còn là một đứa trẻ. Rồi một hôm nghe như có tiếng con chào mào nào đó hót vang giữa không trung, trong tôi bỗng xuất hiện hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”. Hình ảnh ấy đã sáng lên trong tưởng tượng của tôi như một ngôi sao, như đốm lửa dẫn dắt tôi đến khi bài thơ kết thúc. Đơn giản là tôi nhận thấy vẻ đẹp đầy sức hút, rực rỡ và tươi mới trong hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”. Con chào mào đốm trắng mũ đỏ ở đây hay con phượng hoàng lửa trong câu chuyện cổ, con rồng trong văn hoá phương Đông,... vừa thực vừa không thực – như mọi hình tượng thơ. Nó bay và hót để nối liền bầu trời thực và bầu trời tưởng tượng trong đời sống của chúng ta.PV: Hình như có một nhà thơ đã từng nói rằng khoảng cách giữa ngôn từ và hiện thực là một vực thẳm trong thơ. Điều này có làm cho thơ trở nên khó hiểu và khó đọc hay không?MVP: Những ai đã từng thử làm một bài thơ đều thấy rằng thể hiện được hiện thực đời sống (bao gồm cả thế giới bên ngoài và thế giới tâm hồn bên trong con người bằng ngôn từ là điều khó khăn, thách thức. Không phải lúc nào người viết cũng tìm được hình thức ngôn từ phù hợp, đắc địa để biểu đạt được ý tưởng, hiện thực đời sống, hiện thực tinh thần. Tìm kiếm và gắn kết được hiện thực và ngôn ngữ thơ ca là một quá trình khổ công của người viết. Quả thực, nếu người viết không tìm được cách thể hiện hiện thực đời sống, hiện thực tâm hồn thì việc làm thơ còn khó khăn hơn vượt qua một vực thẳm. Việc giảm bớt sự ngăn cách của “vực thẳm” kia hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng, vào quan niệm của người viết. Theo tôi, vươn tới sự giản dị, vận dụng tối đa cách nói đời thường cũng là một trong những thủ pháp làm cho thơ hiện đại đến gần hơn với người đọc. Vấn đề còn nằm ở sự tiếp nhận của người đọc nữa. Vì thế, rất cần sự đồng điệu, sáng tạo, thậm chí là đột phá của người đọc trong tiếp nhận thơ ca.PV: Vậy theo nhà thơ, điều gì mới là thật nhất trong thơ? Cụ thể là trong bài thơ “Con chào mào”.. MVP: Trong sáng tạo thơ ca, ngoài chiều sâu văn hoá và bút pháp vững vàng, điều quan trọng nhất với nhà thơ là nguồn cảm hứng mãnh liệt, xuyên suốt trong khi viết. Cảm xúc chi phối sự lựa chọn hình tượng, ngôn từ. Cảm xúc là điều thật nhất và tác động mạnh mẽ nhất đến sự thể hiện hình tượng. Cảm xúc dẫn dắt và giúp nhà thơ bộc lộ hết khả năng sáng tạo, khơi lộ được vẻ đẹp tâm hồn mình để dựng lên một hình tượng thơ. Cảm xúc thật thì hình tượng thật, dù hình tượng ấy được thể hiện bằng bút pháp nào. Bài thơ “Con chào mào” của tôi được viết trong trạng thái như vậy. Nó là sự kết tụ vẻ đẹp, sức sống bất diệt của thiên nhiên mà tôi đã được trải nghiệm, và giờ đây càng muốn gìn giữ, bảo vệ. Vì thế, “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”, “khung nắng khung gió”, “nhành cây xanh... và cả cái trạng thái “hối hả đuổi theo”. với tôi, đều là thật, đó là tình yêu mà tôi dâng tặng cho thiên nhiên, cho những vẻ đẹp tự do, như nó vốn có, không sở hữu và không thể trói buộc, dù dưới bất kì hình thức nào. Nhưng nó vẫn là trong tôi, vẫn ngân lên như tiếng hót và bay vút trong không gian xanh...PV: Những điều nhà thơ chia sẻ thật ý nghĩa và thú vị. Qua đó, độc giả nhỏ tuổi hẳn sẽ cảm thấy bài thơ “Con chào mào” gần gũi, dễ tiếp nhận hơn. Đồng thời, các bạn ấy cũng có thể hiểu thông điệp mà nhà thơ gửi gắm qua hình tượng “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” để biết trân trọng hơn vẻ đẹp của sự sống, của thiên nhiên quanh ta. Xin trân trọng cảm ơn nhà thơ!(Theo Hà Ngân, Văn học và Tuổi trẻ, tháng 12/2023) Hệ thống câu hỏi mà người phỏng vấn nêu ra có mối quan hệ như thế nào với mục đích và vấn đề chính của cuộc phỏng vấn?
Đọc bài phỏng vấn sau và trả lời câu hỏi:ĐIỀU GÌ THẬT NHẤT TRONG THƠ?Một số độc giả nhỏ tuổi của “Văn học và Tuổi trẻ” đã gửi câu hỏi đến ban biên tập toà soạn với mong muốn được kết nối và trao đổi với nhà thơ Mai Văn Phấn (MVP) – tác giả bài thơ “Con chào mào”. Từ những câu hỏi của độc giả, phóng viên (PV) “Văn học và Tuổi trẻ” đã liên hệ và phỏng vấn nhà thơ để đi tìm câu trả lời cho những băn khoăn, thắc mắc: Liệu có một “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” thật không? Và điều gì mới là thật nhất trong thơ?...PV: Thưa nhà thơ Mai Văn Phấn, là một tác giả luôn cách tân không mệt mỏi, luôn tìm kiếm những điều mới lạ trong thơ, có bao giờ ông nghĩ rằng những thay đổi liên tục để tạo nên sự khác biệt ấy khiến cho những bài thơ trở nên khó hiểu, khó cảm nhận đối với độc giả?MVP: Sáng tạo là hành trình đi tìm những giá trị mới cùng những cách thể hiện mới lạ, độc đáo. Hành trình ấy nhằm mở rộng, làm phong phú thêm thế giới nghệ thuật thơ, đẩy xa hơn nữa đường biên của tưởng tượng, của cảm xúc. Mỗi bài thơ nên là một cuộc lên đường, mở ra hành trình mới. Và, tôi mong mỏi độc giả cũng tiếp nhận tác phẩm thơ bằng tinh thần ấy. Quá trình viết và đọc có thể giao thoa, cũng có thể lệch nhịp. Tuy nhiên, với cả người viết và người đọc, thơ ca tạo cho chúng ta cơ hội phát hiện, khám phá được điều kì diệu, mới mẻ trong một thế giới mà ta tưởng rằng mọi thứ đã trở nên quen thuộc, hoặc nhàm chán. Do vậy, cả người viết và người đọc nên cùng hướng về phía trước, chống lại những thói quen cũ kĩ. Ngay cả với những bài thơ được gọi là truyền thống, là kinh điển, với mỗi người đọc mới, với một lần đọc mới, cũng là một hành trình và thách thức mới. Với một nhà thơ, cách tân là cuộc lột xác nhọc nhằn, thì với độc giả, tiếp nhận những giá trị mới, khác lạ cũng là một hành trình không dễ dàng. Cho nên vượt qua được nỗi sợ sự “khó hiểu”, “khó cảm nhận” rồi thì cả người viết và người đọc đều chạm tới được những giá trị mới trong cảm xúc và nhận thức.PV: Có ý kiến cho rằng “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” trong bài thơ “Con chào mào” là không có thật, không có một con chào mào như vậy trong thiên nhiên. Phải chăng nhà thơ đã từng nhìn thấy con chào mào như vậy? Hay đây chỉ là một sự tưởng tượng phi thực tế?MVP: Nếu ví thơ như cái cây thì rễ của nó nhất định phải bám vào đất mẹ – mảnh đất của hiện thực đời sống. Cái cây kia sống nhờ đất mà đơm hoa kết trái, hoa trái lại mang hình hài, sứ mệnh và giá trị của riêng nó. Thơ ca cũng tương tự như vậy, nó không sao chép, mô phỏng đời sống mà thăng hoa, phát sáng từ hiện thực bằng nghệ thuật ngôn từ. Để có được hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”, tôi đã làm bạn với không biết bao nhiêu con chào mào, với nhiều loài chim kể từ khi tôi còn là một đứa trẻ. Rồi một hôm nghe như có tiếng con chào mào nào đó hót vang giữa không trung, trong tôi bỗng xuất hiện hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”. Hình ảnh ấy đã sáng lên trong tưởng tượng của tôi như một ngôi sao, như đốm lửa dẫn dắt tôi đến khi bài thơ kết thúc. Đơn giản là tôi nhận thấy vẻ đẹp đầy sức hút, rực rỡ và tươi mới trong hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”. Con chào mào đốm trắng mũ đỏ ở đây hay con phượng hoàng lửa trong câu chuyện cổ, con rồng trong văn hoá phương Đông,... vừa thực vừa không thực – như mọi hình tượng thơ. Nó bay và hót để nối liền bầu trời thực và bầu trời tưởng tượng trong đời sống của chúng ta.PV: Hình như có một nhà thơ đã từng nói rằng khoảng cách giữa ngôn từ và hiện thực là một vực thẳm trong thơ. Điều này có làm cho thơ trở nên khó hiểu và khó đọc hay không?MVP: Những ai đã từng thử làm một bài thơ đều thấy rằng thể hiện được hiện thực đời sống (bao gồm cả thế giới bên ngoài và thế giới tâm hồn bên trong con người bằng ngôn từ là điều khó khăn, thách thức. Không phải lúc nào người viết cũng tìm được hình thức ngôn từ phù hợp, đắc địa để biểu đạt được ý tưởng, hiện thực đời sống, hiện thực tinh thần. Tìm kiếm và gắn kết được hiện thực và ngôn ngữ thơ ca là một quá trình khổ công của người viết. Quả thực, nếu người viết không tìm được cách thể hiện hiện thực đời sống, hiện thực tâm hồn thì việc làm thơ còn khó khăn hơn vượt qua một vực thẳm. Việc giảm bớt sự ngăn cách của “vực thẳm” kia hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng, vào quan niệm của người viết. Theo tôi, vươn tới sự giản dị, vận dụng tối đa cách nói đời thường cũng là một trong những thủ pháp làm cho thơ hiện đại đến gần hơn với người đọc. Vấn đề còn nằm ở sự tiếp nhận của người đọc nữa. Vì thế, rất cần sự đồng điệu, sáng tạo, thậm chí là đột phá của người đọc trong tiếp nhận thơ ca.PV: Vậy theo nhà thơ, điều gì mới là thật nhất trong thơ? Cụ thể là trong bài thơ “Con chào mào”.. MVP: Trong sáng tạo thơ ca, ngoài chiều sâu văn hoá và bút pháp vững vàng, điều quan trọng nhất với nhà thơ là nguồn cảm hứng mãnh liệt, xuyên suốt trong khi viết. Cảm xúc chi phối sự lựa chọn hình tượng, ngôn từ. Cảm xúc là điều thật nhất và tác động mạnh mẽ nhất đến sự thể hiện hình tượng. Cảm xúc dẫn dắt và giúp nhà thơ bộc lộ hết khả năng sáng tạo, khơi lộ được vẻ đẹp tâm hồn mình để dựng lên một hình tượng thơ. Cảm xúc thật thì hình tượng thật, dù hình tượng ấy được thể hiện bằng bút pháp nào. Bài thơ “Con chào mào” của tôi được viết trong trạng thái như vậy. Nó là sự kết tụ vẻ đẹp, sức sống bất diệt của thiên nhiên mà tôi đã được trải nghiệm, và giờ đây càng muốn gìn giữ, bảo vệ. Vì thế, “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”, “khung nắng khung gió”, “nhành cây xanh... và cả cái trạng thái “hối hả đuổi theo”. với tôi, đều là thật, đó là tình yêu mà tôi dâng tặng cho thiên nhiên, cho những vẻ đẹp tự do, như nó vốn có, không sở hữu và không thể trói buộc, dù dưới bất kì hình thức nào. Nhưng nó vẫn là trong tôi, vẫn ngân lên như tiếng hót và bay vút trong không gian xanh...PV: Những điều nhà thơ chia sẻ thật ý nghĩa và thú vị. Qua đó, độc giả nhỏ tuổi hẳn sẽ cảm thấy bài thơ “Con chào mào” gần gũi, dễ tiếp nhận hơn. Đồng thời, các bạn ấy cũng có thể hiểu thông điệp mà nhà thơ gửi gắm qua hình tượng “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” để biết trân trọng hơn vẻ đẹp của sự sống, của thiên nhiên quanh ta. Xin trân trọng cảm ơn nhà thơ!(Theo Hà Ngân, Văn học và Tuổi trẻ, tháng 12/2023) Vấn đề chính mà cuộc phỏng vấn đề cập được trình bày tường minh ở phần nào của văn bản?
Đọc bài phỏng vấn sau và trả lời câu hỏi:ĐIỀU GÌ THẬT NHẤT TRONG THƠ?Một số độc giả nhỏ tuổi của “Văn học và Tuổi trẻ” đã gửi câu hỏi đến ban biên tập toà soạn với mong muốn được kết nối và trao đổi với nhà thơ Mai Văn Phấn (MVP) – tác giả bài thơ “Con chào mào”. Từ những câu hỏi của độc giả, phóng viên (PV) “Văn học và Tuổi trẻ” đã liên hệ và phỏng vấn nhà thơ để đi tìm câu trả lời cho những băn khoăn, thắc mắc: Liệu có một “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” thật không? Và điều gì mới là thật nhất trong thơ?...PV: Thưa nhà thơ Mai Văn Phấn, là một tác giả luôn cách tân không mệt mỏi, luôn tìm kiếm những điều mới lạ trong thơ, có bao giờ ông nghĩ rằng những thay đổi liên tục để tạo nên sự khác biệt ấy khiến cho những bài thơ trở nên khó hiểu, khó cảm nhận đối với độc giả?MVP: Sáng tạo là hành trình đi tìm những giá trị mới cùng những cách thể hiện mới lạ, độc đáo. Hành trình ấy nhằm mở rộng, làm phong phú thêm thế giới nghệ thuật thơ, đẩy xa hơn nữa đường biên của tưởng tượng, của cảm xúc. Mỗi bài thơ nên là một cuộc lên đường, mở ra hành trình mới. Và, tôi mong mỏi độc giả cũng tiếp nhận tác phẩm thơ bằng tinh thần ấy. Quá trình viết và đọc có thể giao thoa, cũng có thể lệch nhịp. Tuy nhiên, với cả người viết và người đọc, thơ ca tạo cho chúng ta cơ hội phát hiện, khám phá được điều kì diệu, mới mẻ trong một thế giới mà ta tưởng rằng mọi thứ đã trở nên quen thuộc, hoặc nhàm chán. Do vậy, cả người viết và người đọc nên cùng hướng về phía trước, chống lại những thói quen cũ kĩ. Ngay cả với những bài thơ được gọi là truyền thống, là kinh điển, với mỗi người đọc mới, với một lần đọc mới, cũng là một hành trình và thách thức mới. Với một nhà thơ, cách tân là cuộc lột xác nhọc nhằn, thì với độc giả, tiếp nhận những giá trị mới, khác lạ cũng là một hành trình không dễ dàng. Cho nên vượt qua được nỗi sợ sự “khó hiểu”, “khó cảm nhận” rồi thì cả người viết và người đọc đều chạm tới được những giá trị mới trong cảm xúc và nhận thức.PV: Có ý kiến cho rằng “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” trong bài thơ “Con chào mào” là không có thật, không có một con chào mào như vậy trong thiên nhiên. Phải chăng nhà thơ đã từng nhìn thấy con chào mào như vậy? Hay đây chỉ là một sự tưởng tượng phi thực tế?MVP: Nếu ví thơ như cái cây thì rễ của nó nhất định phải bám vào đất mẹ – mảnh đất của hiện thực đời sống. Cái cây kia sống nhờ đất mà đơm hoa kết trái, hoa trái lại mang hình hài, sứ mệnh và giá trị của riêng nó. Thơ ca cũng tương tự như vậy, nó không sao chép, mô phỏng đời sống mà thăng hoa, phát sáng từ hiện thực bằng nghệ thuật ngôn từ. Để có được hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”, tôi đã làm bạn với không biết bao nhiêu con chào mào, với nhiều loài chim kể từ khi tôi còn là một đứa trẻ. Rồi một hôm nghe như có tiếng con chào mào nào đó hót vang giữa không trung, trong tôi bỗng xuất hiện hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”. Hình ảnh ấy đã sáng lên trong tưởng tượng của tôi như một ngôi sao, như đốm lửa dẫn dắt tôi đến khi bài thơ kết thúc. Đơn giản là tôi nhận thấy vẻ đẹp đầy sức hút, rực rỡ và tươi mới trong hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”. Con chào mào đốm trắng mũ đỏ ở đây hay con phượng hoàng lửa trong câu chuyện cổ, con rồng trong văn hoá phương Đông,... vừa thực vừa không thực – như mọi hình tượng thơ. Nó bay và hót để nối liền bầu trời thực và bầu trời tưởng tượng trong đời sống của chúng ta.PV: Hình như có một nhà thơ đã từng nói rằng khoảng cách giữa ngôn từ và hiện thực là một vực thẳm trong thơ. Điều này có làm cho thơ trở nên khó hiểu và khó đọc hay không?MVP: Những ai đã từng thử làm một bài thơ đều thấy rằng thể hiện được hiện thực đời sống (bao gồm cả thế giới bên ngoài và thế giới tâm hồn bên trong con người bằng ngôn từ là điều khó khăn, thách thức. Không phải lúc nào người viết cũng tìm được hình thức ngôn từ phù hợp, đắc địa để biểu đạt được ý tưởng, hiện thực đời sống, hiện thực tinh thần. Tìm kiếm và gắn kết được hiện thực và ngôn ngữ thơ ca là một quá trình khổ công của người viết. Quả thực, nếu người viết không tìm được cách thể hiện hiện thực đời sống, hiện thực tâm hồn thì việc làm thơ còn khó khăn hơn vượt qua một vực thẳm. Việc giảm bớt sự ngăn cách của “vực thẳm” kia hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng, vào quan niệm của người viết. Theo tôi, vươn tới sự giản dị, vận dụng tối đa cách nói đời thường cũng là một trong những thủ pháp làm cho thơ hiện đại đến gần hơn với người đọc. Vấn đề còn nằm ở sự tiếp nhận của người đọc nữa. Vì thế, rất cần sự đồng điệu, sáng tạo, thậm chí là đột phá của người đọc trong tiếp nhận thơ ca.PV: Vậy theo nhà thơ, điều gì mới là thật nhất trong thơ? Cụ thể là trong bài thơ “Con chào mào”.. MVP: Trong sáng tạo thơ ca, ngoài chiều sâu văn hoá và bút pháp vững vàng, điều quan trọng nhất với nhà thơ là nguồn cảm hứng mãnh liệt, xuyên suốt trong khi viết. Cảm xúc chi phối sự lựa chọn hình tượng, ngôn từ. Cảm xúc là điều thật nhất và tác động mạnh mẽ nhất đến sự thể hiện hình tượng. Cảm xúc dẫn dắt và giúp nhà thơ bộc lộ hết khả năng sáng tạo, khơi lộ được vẻ đẹp tâm hồn mình để dựng lên một hình tượng thơ. Cảm xúc thật thì hình tượng thật, dù hình tượng ấy được thể hiện bằng bút pháp nào. Bài thơ “Con chào mào” của tôi được viết trong trạng thái như vậy. Nó là sự kết tụ vẻ đẹp, sức sống bất diệt của thiên nhiên mà tôi đã được trải nghiệm, và giờ đây càng muốn gìn giữ, bảo vệ. Vì thế, “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”, “khung nắng khung gió”, “nhành cây xanh... và cả cái trạng thái “hối hả đuổi theo”. với tôi, đều là thật, đó là tình yêu mà tôi dâng tặng cho thiên nhiên, cho những vẻ đẹp tự do, như nó vốn có, không sở hữu và không thể trói buộc, dù dưới bất kì hình thức nào. Nhưng nó vẫn là trong tôi, vẫn ngân lên như tiếng hót và bay vút trong không gian xanh...PV: Những điều nhà thơ chia sẻ thật ý nghĩa và thú vị. Qua đó, độc giả nhỏ tuổi hẳn sẽ cảm thấy bài thơ “Con chào mào” gần gũi, dễ tiếp nhận hơn. Đồng thời, các bạn ấy cũng có thể hiểu thông điệp mà nhà thơ gửi gắm qua hình tượng “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” để biết trân trọng hơn vẻ đẹp của sự sống, của thiên nhiên quanh ta. Xin trân trọng cảm ơn nhà thơ!(Theo Hà Ngân, Văn học và Tuổi trẻ, tháng 12/2023) Mục đích của cuộc phỏng vấn là gì? Những dấu hiệu nào trong văn bản giúp em nhận biết được mục đích của người phỏng vấn?
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:GIỚI THIỆU NHỮNG KHÚC NGÂM(1) Trong nền văn học quá khứ của dân tộc ta, truyện thơ và ngâm khúc là hai thành tựu rực rỡ, nổi bật hơn cả. Truyện thơ là những tác phẩm tự sự nhưng rất giàu tính chất trữ tình, được viết bằng thể lục bát, còn ngâm khúc là những tác phẩm hoàn toàn trữ tình, có thể gọi là những trường ca trữ tình, thì được viết bằng thể song thất lục bát. Cả hai thể thơ này đều là những thể thơ thuần tuý dân tộc, bắt nguồn từ ca dao dân gian.(2) Ngâm khúc ra đời sau khi đã có thể song thất lục bát. Cho đến nay chúng ta chưa khẳng định được song thất lục bát xuất hiện vào thời gian nào. Chỉ biết đến đầu thế kỉ XVII Hoàng Sĩ Khải đã dùng thể thơ này để viết bản “Tứ thời khúc vịnh” gồm 340 câu. Với “Tứ thời khúc vịnh” thể song thất lục bát đã tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên trong số 85 khổ song thất lục bát thì có đến 54 khổ gieo vần ở chữ cuối câu bát khổ trên với chữ thứ ba câu thất khổ dưới. Lối gieo vần này làm cho âm hưởng của câu thơ có phần không được hài hoà. Nhưng lí do làm cho “Tứ thời khúc vịnh” không có một ảnh hưởng sâu đậm trong lịch sử văn học dân tộc thì chủ yếu không phải ở đó, mà ở chỗ tác giả chưa khai thác được đúng sở trường của thể thơ này. Thể song thất lục bát do đặc điểm kết cấu của nó, mỗi khổ gồm có hai câu bảy chữ, một cáu sáu chữ và một câu tám chữ, cứ thế lặp đi lặp lại và kéo dài không giới hạn. Khác với thể thơ lục bát, câu trên sáu chữ, câu dưới tám chữ, cũng lặp đi lặp lại như thế, nhưng nhịp điệu của nó khá đa dạng; thể song thất lục bát có hai câu song thất bao giờ cũng ngắt nhịp theo lối 3/4 (khác với thơ thất ngôn Đường luật ngắt 4/3) nên những khổ thơ song thất lục bát nối tiếp nhau tạo thành một âm hưởng có tính chất chu kì, và vì vậy, những bài thơ song thất lục bát càng kéo dài càng dễ có cảm giác đều đều và buồn. “Tứ thời khúc vịnh” là một tác phẩm vịnh về bốn mùa trong một năm, nhưng qua đó, tác giả nhằm ca ngợi nhà nước phong kiến lúc bấy giờ. [...] “Tứ thời khúc vịnh”, mặc dù tác giả đặt nhan đề như thế, nhưng chúng tôi không coi nó là tác phẩm mở đầu của thể loại ngâm khúc trong lịch sử, bởi vì “Tứ thời khúc vịnh” là một tác phẩm viết về thiên nhiên nhưng hoàn toàn vắng bóng cảm hứng trữ tình Trong “Tứ thời khúc vịnh” tính chất giáo huấn về đạo đức mới là cái cơ bản, chủ yếu Thể loại ngầm khúc thực sự ra đời không phải với “Tứ thời khúc vịnh” ở thế kỉ li với “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn, và nhất là với bản dịch tác phẩm ấy ch Đoàn Thị Điểm ở giữa thế kỉ XVIII,(3) “Chinh phụ ngâm” là một tác phẩm viết về tâm trạng đau buồn triền miên của một người vợ có chồng ra chiến trường. Nguyên tác của Đặng Trần Côn viết bằng ng Hán theo lối trường đoản cú, là một tác phẩm có tính chất tập cổ. Rất nhiều câu thơ trong tác phẩm này được lấy ra từ kho tàng thơ ca cổ đại Trung Hoa, có nhiên, tác giả có nhào nặn, có thêm thắt, sửa đổi. Nhưng với bản dịch bằng thể thơ song thất lục bát của Đoàn Thị Điểm thi khúc ca trữ tình này lần đầu tiên tìm được cái ám hướng thực sự phù hợp với nó. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn về sau con có nhiều bản dịch khác nữa cũng bằng thể song thất lục bát. Thậm chí hiếu bản dịch hiện hành là của Phan Huy Ích - nghĩa là bản dịch hay nhất – thì cũng không vì thế mà nó làm lu mờ vị trí lịch sử bản dịch của Đoàn Thị Điểm, Phải nói rằng chính bản dịch “Chinh phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm đã mở đầu cho việc sáng tác ngân khúc, sáng tác những trường ca trữ tình bằng thể song thất lục bát của dân tộc Sau bản dịch “Chính phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm, hàng loạt những tác phẩm ngâm khúc khác lần lượt ra đời, đánh dấu một khuynh hướng phát triển mới của văn học dân tộc; “khuynh hướng đi sâu vào nội tâm con người”(4) [...] Nhà nước phong kiến Việt Nam sau thời kỳ cực thịnh ở thế kỉ XV, đã dẫn xuống dốc. Trải qua các thế kỉ XVI, XVII đến giữa thế kỉ XVIII thì nhà nước này không phải chỉ suy thoái theo cái nghĩa thông thường, mà nó thực sự trở nên khủng hoảng, bế tắc [...] Quán chúng đói khổ đã vùng dậy đấu tranh chống lại, khởi nghĩa nông dân nó ra liên tiếp và có quy mô lớn. Ở các đô thị, nền kinh tế hàng hoá trong bối cảnh hỗn loạn đó không bị nhiều câu thúc, đã phát triển có phần thoải mái hơn trước, đã góp thêm gió vào cơn bão của thời đại. Và người ta thấy gì trong cơn bão ấy? Thấy kỉ cương của xã hội phong kiến bị phá vỡ, những ý tưởng thống trị xã hội hàng mấy trăm năm phút chốc bộc lộ tất cả sự giả dối và bất lực của nó. Chế độ phong kiến với ý thức hệ Nho giáo đã đề cao đạo đức và những thiết chế xã hội khác để ràng buộc con người phải phục tùng nó, thì bây giờ những đạo đức, thiết chế ấy không còn hiệu lực nữa Con người đã đứng cao hơn các thiết chế. “Người ta là hoa đất”, câu tục ngữ này rất có thể ra đời vào giữa thế kỉ XVIII; ở đây “người ta” vừa chỉ con người nói chung, đông thời cũng là chỉ những cá nhân con người cụ thể. Nét đặc trưng cơ bản của văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX là sự phát hiện ra con người, trong đó, cố nhiên có sự phát hiện ra con người cá nhân ở những mức độ nhất định. Sự phong phú có tính chất đột biến của văn học giai đoạn này chính là bắt nguồn từ sự phát hiện đó. Trong văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX có thể nói lần đầu tiên con người được đặt ra trong những quan hệ khá phong phú về mặt xã hội và trong những chiều sâu nội tâm của nó.(Nguyễn Thạch Giang và nhóm biên khảo, Những khúc ngâm chọn lọc, tập 1,NXB Giáo dục, 1994, tr. 7 – 11) Vì sao tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và đặc biệt là bản dịch Chinh phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (?) được xem là đánh dấu sự ra đời của thể loại ngâm khúc?
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:GIỚI THIỆU NHỮNG KHÚC NGÂM(1) Trong nền văn học quá khứ của dân tộc ta, truyện thơ và ngâm khúc là hai thành tựu rực rỡ, nổi bật hơn cả. Truyện thơ là những tác phẩm tự sự nhưng rất giàu tính chất trữ tình, được viết bằng thể lục bát, còn ngâm khúc là những tác phẩm hoàn toàn trữ tình, có thể gọi là những trường ca trữ tình, thì được viết bằng thể song thất lục bát. Cả hai thể thơ này đều là những thể thơ thuần tuý dân tộc, bắt nguồn từ ca dao dân gian.(2) Ngâm khúc ra đời sau khi đã có thể song thất lục bát. Cho đến nay chúng ta chưa khẳng định được song thất lục bát xuất hiện vào thời gian nào. Chỉ biết đến đầu thế kỉ XVII Hoàng Sĩ Khải đã dùng thể thơ này để viết bản “Tứ thời khúc vịnh” gồm 340 câu. Với “Tứ thời khúc vịnh” thể song thất lục bát đã tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên trong số 85 khổ song thất lục bát thì có đến 54 khổ gieo vần ở chữ cuối câu bát khổ trên với chữ thứ ba câu thất khổ dưới. Lối gieo vần này làm cho âm hưởng của câu thơ có phần không được hài hoà. Nhưng lí do làm cho “Tứ thời khúc vịnh” không có một ảnh hưởng sâu đậm trong lịch sử văn học dân tộc thì chủ yếu không phải ở đó, mà ở chỗ tác giả chưa khai thác được đúng sở trường của thể thơ này. Thể song thất lục bát do đặc điểm kết cấu của nó, mỗi khổ gồm có hai câu bảy chữ, một cáu sáu chữ và một câu tám chữ, cứ thế lặp đi lặp lại và kéo dài không giới hạn. Khác với thể thơ lục bát, câu trên sáu chữ, câu dưới tám chữ, cũng lặp đi lặp lại như thế, nhưng nhịp điệu của nó khá đa dạng; thể song thất lục bát có hai câu song thất bao giờ cũng ngắt nhịp theo lối 3/4 (khác với thơ thất ngôn Đường luật ngắt 4/3) nên những khổ thơ song thất lục bát nối tiếp nhau tạo thành một âm hưởng có tính chất chu kì, và vì vậy, những bài thơ song thất lục bát càng kéo dài càng dễ có cảm giác đều đều và buồn. “Tứ thời khúc vịnh” là một tác phẩm vịnh về bốn mùa trong một năm, nhưng qua đó, tác giả nhằm ca ngợi nhà nước phong kiến lúc bấy giờ. [...] “Tứ thời khúc vịnh”, mặc dù tác giả đặt nhan đề như thế, nhưng chúng tôi không coi nó là tác phẩm mở đầu của thể loại ngâm khúc trong lịch sử, bởi vì “Tứ thời khúc vịnh” là một tác phẩm viết về thiên nhiên nhưng hoàn toàn vắng bóng cảm hứng trữ tình Trong “Tứ thời khúc vịnh” tính chất giáo huấn về đạo đức mới là cái cơ bản, chủ yếu Thể loại ngầm khúc thực sự ra đời không phải với “Tứ thời khúc vịnh” ở thế kỉ li với “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn, và nhất là với bản dịch tác phẩm ấy ch Đoàn Thị Điểm ở giữa thế kỉ XVIII,(3) “Chinh phụ ngâm” là một tác phẩm viết về tâm trạng đau buồn triền miên của một người vợ có chồng ra chiến trường. Nguyên tác của Đặng Trần Côn viết bằng ng Hán theo lối trường đoản cú, là một tác phẩm có tính chất tập cổ. Rất nhiều câu thơ trong tác phẩm này được lấy ra từ kho tàng thơ ca cổ đại Trung Hoa, có nhiên, tác giả có nhào nặn, có thêm thắt, sửa đổi. Nhưng với bản dịch bằng thể thơ song thất lục bát của Đoàn Thị Điểm thi khúc ca trữ tình này lần đầu tiên tìm được cái ám hướng thực sự phù hợp với nó. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn về sau con có nhiều bản dịch khác nữa cũng bằng thể song thất lục bát. Thậm chí hiếu bản dịch hiện hành là của Phan Huy Ích - nghĩa là bản dịch hay nhất – thì cũng không vì thế mà nó làm lu mờ vị trí lịch sử bản dịch của Đoàn Thị Điểm, Phải nói rằng chính bản dịch “Chinh phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm đã mở đầu cho việc sáng tác ngân khúc, sáng tác những trường ca trữ tình bằng thể song thất lục bát của dân tộc Sau bản dịch “Chính phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm, hàng loạt những tác phẩm ngâm khúc khác lần lượt ra đời, đánh dấu một khuynh hướng phát triển mới của văn học dân tộc; “khuynh hướng đi sâu vào nội tâm con người”(4) [...] Nhà nước phong kiến Việt Nam sau thời kỳ cực thịnh ở thế kỉ XV, đã dẫn xuống dốc. Trải qua các thế kỉ XVI, XVII đến giữa thế kỉ XVIII thì nhà nước này không phải chỉ suy thoái theo cái nghĩa thông thường, mà nó thực sự trở nên khủng hoảng, bế tắc [...] Quán chúng đói khổ đã vùng dậy đấu tranh chống lại, khởi nghĩa nông dân nó ra liên tiếp và có quy mô lớn. Ở các đô thị, nền kinh tế hàng hoá trong bối cảnh hỗn loạn đó không bị nhiều câu thúc, đã phát triển có phần thoải mái hơn trước, đã góp thêm gió vào cơn bão của thời đại. Và người ta thấy gì trong cơn bão ấy? Thấy kỉ cương của xã hội phong kiến bị phá vỡ, những ý tưởng thống trị xã hội hàng mấy trăm năm phút chốc bộc lộ tất cả sự giả dối và bất lực của nó. Chế độ phong kiến với ý thức hệ Nho giáo đã đề cao đạo đức và những thiết chế xã hội khác để ràng buộc con người phải phục tùng nó, thì bây giờ những đạo đức, thiết chế ấy không còn hiệu lực nữa Con người đã đứng cao hơn các thiết chế. “Người ta là hoa đất”, câu tục ngữ này rất có thể ra đời vào giữa thế kỉ XVIII; ở đây “người ta” vừa chỉ con người nói chung, đông thời cũng là chỉ những cá nhân con người cụ thể. Nét đặc trưng cơ bản của văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX là sự phát hiện ra con người, trong đó, cố nhiên có sự phát hiện ra con người cá nhân ở những mức độ nhất định. Sự phong phú có tính chất đột biến của văn học giai đoạn này chính là bắt nguồn từ sự phát hiện đó. Trong văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX có thể nói lần đầu tiên con người được đặt ra trong những quan hệ khá phong phú về mặt xã hội và trong những chiều sâu nội tâm của nó.(Nguyễn Thạch Giang và nhóm biên khảo, Những khúc ngâm chọn lọc, tập 1,NXB Giáo dục, 1994, tr. 7 – 11) Đặc điểm nổi bật về hình thức của thể loại ngâm khúc là gì?
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:GIỚI THIỆU NHỮNG KHÚC NGÂM(1) Trong nền văn học quá khứ của dân tộc ta, truyện thơ và ngâm khúc là hai thành tựu rực rỡ, nổi bật hơn cả. Truyện thơ là những tác phẩm tự sự nhưng rất giàu tính chất trữ tình, được viết bằng thể lục bát, còn ngâm khúc là những tác phẩm hoàn toàn trữ tình, có thể gọi là những trường ca trữ tình, thì được viết bằng thể song thất lục bát. Cả hai thể thơ này đều là những thể thơ thuần tuý dân tộc, bắt nguồn từ ca dao dân gian.(2) Ngâm khúc ra đời sau khi đã có thể song thất lục bát. Cho đến nay chúng ta chưa khẳng định được song thất lục bát xuất hiện vào thời gian nào. Chỉ biết đến đầu thế kỉ XVII Hoàng Sĩ Khải đã dùng thể thơ này để viết bản “Tứ thời khúc vịnh” gồm 340 câu. Với “Tứ thời khúc vịnh” thể song thất lục bát đã tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên trong số 85 khổ song thất lục bát thì có đến 54 khổ gieo vần ở chữ cuối câu bát khổ trên với chữ thứ ba câu thất khổ dưới. Lối gieo vần này làm cho âm hưởng của câu thơ có phần không được hài hoà. Nhưng lí do làm cho “Tứ thời khúc vịnh” không có một ảnh hưởng sâu đậm trong lịch sử văn học dân tộc thì chủ yếu không phải ở đó, mà ở chỗ tác giả chưa khai thác được đúng sở trường của thể thơ này. Thể song thất lục bát do đặc điểm kết cấu của nó, mỗi khổ gồm có hai câu bảy chữ, một cáu sáu chữ và một câu tám chữ, cứ thế lặp đi lặp lại và kéo dài không giới hạn. Khác với thể thơ lục bát, câu trên sáu chữ, câu dưới tám chữ, cũng lặp đi lặp lại như thế, nhưng nhịp điệu của nó khá đa dạng; thể song thất lục bát có hai câu song thất bao giờ cũng ngắt nhịp theo lối 3/4 (khác với thơ thất ngôn Đường luật ngắt 4/3) nên những khổ thơ song thất lục bát nối tiếp nhau tạo thành một âm hưởng có tính chất chu kì, và vì vậy, những bài thơ song thất lục bát càng kéo dài càng dễ có cảm giác đều đều và buồn. “Tứ thời khúc vịnh” là một tác phẩm vịnh về bốn mùa trong một năm, nhưng qua đó, tác giả nhằm ca ngợi nhà nước phong kiến lúc bấy giờ. [...] “Tứ thời khúc vịnh”, mặc dù tác giả đặt nhan đề như thế, nhưng chúng tôi không coi nó là tác phẩm mở đầu của thể loại ngâm khúc trong lịch sử, bởi vì “Tứ thời khúc vịnh” là một tác phẩm viết về thiên nhiên nhưng hoàn toàn vắng bóng cảm hứng trữ tình Trong “Tứ thời khúc vịnh” tính chất giáo huấn về đạo đức mới là cái cơ bản, chủ yếu Thể loại ngầm khúc thực sự ra đời không phải với “Tứ thời khúc vịnh” ở thế kỉ li với “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn, và nhất là với bản dịch tác phẩm ấy ch Đoàn Thị Điểm ở giữa thế kỉ XVIII,(3) “Chinh phụ ngâm” là một tác phẩm viết về tâm trạng đau buồn triền miên của một người vợ có chồng ra chiến trường. Nguyên tác của Đặng Trần Côn viết bằng ng Hán theo lối trường đoản cú, là một tác phẩm có tính chất tập cổ. Rất nhiều câu thơ trong tác phẩm này được lấy ra từ kho tàng thơ ca cổ đại Trung Hoa, có nhiên, tác giả có nhào nặn, có thêm thắt, sửa đổi. Nhưng với bản dịch bằng thể thơ song thất lục bát của Đoàn Thị Điểm thi khúc ca trữ tình này lần đầu tiên tìm được cái ám hướng thực sự phù hợp với nó. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn về sau con có nhiều bản dịch khác nữa cũng bằng thể song thất lục bát. Thậm chí hiếu bản dịch hiện hành là của Phan Huy Ích - nghĩa là bản dịch hay nhất – thì cũng không vì thế mà nó làm lu mờ vị trí lịch sử bản dịch của Đoàn Thị Điểm, Phải nói rằng chính bản dịch “Chinh phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm đã mở đầu cho việc sáng tác ngân khúc, sáng tác những trường ca trữ tình bằng thể song thất lục bát của dân tộc Sau bản dịch “Chính phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm, hàng loạt những tác phẩm ngâm khúc khác lần lượt ra đời, đánh dấu một khuynh hướng phát triển mới của văn học dân tộc; “khuynh hướng đi sâu vào nội tâm con người”(4) [...] Nhà nước phong kiến Việt Nam sau thời kỳ cực thịnh ở thế kỉ XV, đã dẫn xuống dốc. Trải qua các thế kỉ XVI, XVII đến giữa thế kỉ XVIII thì nhà nước này không phải chỉ suy thoái theo cái nghĩa thông thường, mà nó thực sự trở nên khủng hoảng, bế tắc [...] Quán chúng đói khổ đã vùng dậy đấu tranh chống lại, khởi nghĩa nông dân nó ra liên tiếp và có quy mô lớn. Ở các đô thị, nền kinh tế hàng hoá trong bối cảnh hỗn loạn đó không bị nhiều câu thúc, đã phát triển có phần thoải mái hơn trước, đã góp thêm gió vào cơn bão của thời đại. Và người ta thấy gì trong cơn bão ấy? Thấy kỉ cương của xã hội phong kiến bị phá vỡ, những ý tưởng thống trị xã hội hàng mấy trăm năm phút chốc bộc lộ tất cả sự giả dối và bất lực của nó. Chế độ phong kiến với ý thức hệ Nho giáo đã đề cao đạo đức và những thiết chế xã hội khác để ràng buộc con người phải phục tùng nó, thì bây giờ những đạo đức, thiết chế ấy không còn hiệu lực nữa Con người đã đứng cao hơn các thiết chế. “Người ta là hoa đất”, câu tục ngữ này rất có thể ra đời vào giữa thế kỉ XVIII; ở đây “người ta” vừa chỉ con người nói chung, đông thời cũng là chỉ những cá nhân con người cụ thể. Nét đặc trưng cơ bản của văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX là sự phát hiện ra con người, trong đó, cố nhiên có sự phát hiện ra con người cá nhân ở những mức độ nhất định. Sự phong phú có tính chất đột biến của văn học giai đoạn này chính là bắt nguồn từ sự phát hiện đó. Trong văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX có thể nói lần đầu tiên con người được đặt ra trong những quan hệ khá phong phú về mặt xã hội và trong những chiều sâu nội tâm của nó.(Nguyễn Thạch Giang và nhóm biên khảo, Những khúc ngâm chọn lọc, tập 1,NXB Giáo dục, 1994, tr. 7 – 11) Những phương diện nào của lịch sử thể loại ngâm khúc được trình bày trong văn bản?
Tìm ý và lập dàn ý cho đề văn: Trong cuốn nhật kí về những ngày đi trốn cùng gia đình ở Hà Lan trong thời kì Đức quốc xã chiếm đóng, An-nơ Phranh (Anne Frank) đã viết: “Mình làm sao có Trong cuốn nhật kí về những ngày đi trốn cùng gia đình ở Hà Lan trong thời k thể buồn rầu khi có Mặt Trời và bầu trời? — tôi tự hỏi. Chúa muốn chúng ta hạnh mọi nỗi lo âu.”. Trong cuốn nhật kí về những ngày chông chọi với căn bệnh nan phúc và ngắm nhìn cái đẹp của thế giới này. Điều đó giúp cho chúng tôi vượt qua y, Ki-tô A-ya viết: “Mình giờ đã thành một đứa chẳng thể làm gì ngoài khóc lóc. Có một phức cảm thấp kém đang lớn lên trong đầu mình. Có lẽ đó là kết quả của sự tàn tật. Nhưng ít ra mình vẫn đang sống. Mình phải hít thở và tiếp tục sống, bởi mình không thể chết, chẳng có cách nào khác. Thật đáng sợ. Nếu cứ khóc thì những nếp nhăn trên mặt và trên mắt sẽ khiến khuôn mặt mình xấu xí. Để cải thiện cái sự xấu xí đó, mỗi khi nhìn vào gương mình lại nhe răng cười toe toét, dẫu lúc đó chẳng có chuyện gì vui mình cũng cười. Hãy sống!”. Hãy so sánh, đánh giá cách nhìn cuộc sống và tinh thần đối mặt với tình thế khó khăn của hai thiếu nữ An-nơ Phranh và Ki-tô A-ya.
Đọc hai đoạn trích nhật kí dưới đây: 6.5.1972 “Nhìn những ngọn núi xanh xa xa, cây cối sùi lên như mây trên đỉnh núi, mình hiểu rằng, đấy chính là chân Trường Sơn – Khi nào mình được đứng hẳn trên Trường Sơn nhỉ, đứng ở đó, nhìn ra bốn phía mênh mông, thấy những dải rừng cháy tan hoang vì bom napan và chất độc hoá học Mỹ – và được gặp những người chiến sĩ lăn lộn ngày đêm trên tuyến lửa. Mình đã ao ước từ lâu, được ngắt một chùm lá săng lẻ, được đi dưới rừng khộp và mắc võng trên những cây rừng đã mòn vết người đi trước. Mình hiểu rằng, những cái đó đều phải trả giá bằng mồ hôi và cả máu nữa – Phải trả một giá khá đắt. Nhưng có hề gì, không dám hi sinh làm gì có hạnh phúc, niềm vui?”. 25.5.72 “Có thể ngày mai, cuộc đời sẽ trả lời mình bằng luồng gió lạnh ngắt, nhưng có hề chi, khi mình đã cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn chính trực và cao cả – Biết yêu và biết ghét – Biết lăn lộn trong cái bình dị của cuộc sống mà cảm hiểu hạnh phúc không có gì so sánh nổi. Biết sống cao thượng, vươn lên trên tất cả những gì tính toán cá nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải, mình phải nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải, mình phải sống như vậy, phải cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn như thế – Đây là mơ ước, là nguyện vọng, quyết tâm và cũng là trách nhiệm mình phải làm. Phải làm. (Nguyễn Văn Thạc, Mãi mãi tuổi hai mươi, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2005) 1.1.1970 “Thêm một tuổi đời, vậy là cái tuổi ba mươi đâu còn xa nữa. Vài năm nữa thôi mình sẽ trở thành một chị cán bộ già dặn, đứng đắn. Nghĩ đến đó mình thoáng thấy buồn Tuổi xuân của mình đã qua đi trong lửa khói, chiến tranh đã cướp mất hạnh phúc trong tình yêu và tuổi trẻ. Ai lại không tha thiết với mùa xuân, ai lại không muốn cái sáng ngời trong đôi mắt và trên đôi môi căng mọng khi cuộc đời còn ở tuổi hai mươi? Nhưng... tuổi hai mươi của thời đại này đã phải dẹp lại những ước mơ hạnh phúc mà lẽ ra họ phải có... Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước. Từ ước mơ đó mới có được những gì gọi là của riêng mình. Mình cũng như những thanh niên khác đã lên đường ra tiền tuyến, và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi đạn nổ. Tuổi trẻ của mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, máu xương của những người đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ của mình đã cứng cáp trong thử thách gian lao của chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng rực vì ngọn lửa căm thù đang ngày đêm hun đốt. Và gì nữa, phải chăng mùa xuân của tuổi trẻ cũng vẫn thắm đượm thêm vì màu sắc của mỡ ước và yêu thương vẫn ánh lên trong những đôi mắt nhìn mình? Một đôi mắt đen thâm quầng vì thức đêm nhưng bao giờ đến với mình cũng là niềm vui và sôi nổi. Một đôi mắt long lanh dưới hàng mi dài cũng vậy, bao giờ cũng đến với mình tha thiết tin yêu. Và đôi mắt tinh ranh của một người bạn gái nhìn mình như hiểu hết, như trao hết niềm tin. Th. ơi! Đó phải chăng là hạnh phúc mà chỉ Th. mới được hưởng mà thôi? Hãy vui đi, hãy giữ trọn trong lòng niềm mơ ước và để màu xanh của tuổi trẻ ngời rạng mãi trong đôi mắt và nụ cười nghe Thuỳ!” (Đặng Thuỳ Trâm, Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2009)   Lập dàn ý cho đề văn: Hãy so sánh tâm trạng, ước mơ và lẽ sống của hai tác giả qua hai đoạn trích “Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm” (Đặng Thuỳ Trâm) và “Mãi mãi tuổi hai mươi” (Nguyễn Văn Thạc).
Đọc hai đoạn trích nhật kí dưới đây: 6.5.1972 “Nhìn những ngọn núi xanh xa xa, cây cối sùi lên như mây trên đỉnh núi, mình hiểu rằng, đấy chính là chân Trường Sơn – Khi nào mình được đứng hẳn trên Trường Sơn nhỉ, đứng ở đó, nhìn ra bốn phía mênh mông, thấy những dải rừng cháy tan hoang vì bom napan và chất độc hoá học Mỹ – và được gặp những người chiến sĩ lăn lộn ngày đêm trên tuyến lửa. Mình đã ao ước từ lâu, được ngắt một chùm lá săng lẻ, được đi dưới rừng khộp và mắc võng trên những cây rừng đã mòn vết người đi trước. Mình hiểu rằng, những cái đó đều phải trả giá bằng mồ hôi và cả máu nữa – Phải trả một giá khá đắt. Nhưng có hề gì, không dám hi sinh làm gì có hạnh phúc, niềm vui?”. 25.5.72 “Có thể ngày mai, cuộc đời sẽ trả lời mình bằng luồng gió lạnh ngắt, nhưng có hề chi, khi mình đã cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn chính trực và cao cả – Biết yêu và biết ghét – Biết lăn lộn trong cái bình dị của cuộc sống mà cảm hiểu hạnh phúc không có gì so sánh nổi. Biết sống cao thượng, vươn lên trên tất cả những gì tính toán cá nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải, mình phải nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải, mình phải sống như vậy, phải cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn như thế – Đây là mơ ước, là nguyện vọng, quyết tâm và cũng là trách nhiệm mình phải làm. Phải làm. (Nguyễn Văn Thạc, Mãi mãi tuổi hai mươi, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2005) 1.1.1970 “Thêm một tuổi đời, vậy là cái tuổi ba mươi đâu còn xa nữa. Vài năm nữa thôi mình sẽ trở thành một chị cán bộ già dặn, đứng đắn. Nghĩ đến đó mình thoáng thấy buồn Tuổi xuân của mình đã qua đi trong lửa khói, chiến tranh đã cướp mất hạnh phúc trong tình yêu và tuổi trẻ. Ai lại không tha thiết với mùa xuân, ai lại không muốn cái sáng ngời trong đôi mắt và trên đôi môi căng mọng khi cuộc đời còn ở tuổi hai mươi? Nhưng... tuổi hai mươi của thời đại này đã phải dẹp lại những ước mơ hạnh phúc mà lẽ ra họ phải có... Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước. Từ ước mơ đó mới có được những gì gọi là của riêng mình. Mình cũng như những thanh niên khác đã lên đường ra tiền tuyến, và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi đạn nổ. Tuổi trẻ của mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, máu xương của những người đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ của mình đã cứng cáp trong thử thách gian lao của chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng rực vì ngọn lửa căm thù đang ngày đêm hun đốt. Và gì nữa, phải chăng mùa xuân của tuổi trẻ cũng vẫn thắm đượm thêm vì màu sắc của mỡ ước và yêu thương vẫn ánh lên trong những đôi mắt nhìn mình? Một đôi mắt đen thâm quầng vì thức đêm nhưng bao giờ đến với mình cũng là niềm vui và sôi nổi. Một đôi mắt long lanh dưới hàng mi dài cũng vậy, bao giờ cũng đến với mình tha thiết tin yêu. Và đôi mắt tinh ranh của một người bạn gái nhìn mình như hiểu hết, như trao hết niềm tin. Th. ơi! Đó phải chăng là hạnh phúc mà chỉ Th. mới được hưởng mà thôi? Hãy vui đi, hãy giữ trọn trong lòng niềm mơ ước và để màu xanh của tuổi trẻ ngời rạng mãi trong đôi mắt và nụ cười nghe Thuỳ!” (Đặng Thuỳ Trâm, Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2009)   Lập dàn ý cho đề văn: Hãy so sánh tâm trạng, ước mơ và lẽ sống của hai tác giả qua hai đoạn trích “Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm” (Đặng Thuỳ Trâm) và “Mãi mãi tuổi hai mươi” (Nguyễn Văn Thạc).
Đọc văn bản dưới đây và cho biết người viết đã vận dụng tông hợp những thao tác nghị luận nào? “Qua kí ức của đồng đội và đọc lại cuốn Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm, tôi càng củng cố sâu sắc thêm về lòng cảm phục với nữ bác sĩ trẻ đã sống và hi sinh một cách rất đẹp đẽ này. Chị Thuỳ Trâm là tấm gương tiêu biểu của người trí thức đi vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, với tất cả sự trong sáng của tâm hồn. Những phẩm chất của chị đã khiến chính những kẻ thù của chị phải khuất phục. Qua từng trang nhật kí đã hiện rõ hơn tâm hồn của một người con gái đẹp đẽ. Những vò xé, day dứt về tình yêu và những quan hệ cuộc sống, rồi nổi lên là nỗi nhớ gia đình khiến chị trở thành một con người rất đặc biệt nhưng cũng rất bình dị. Tôi gọi chị là một thiên thần bởi những phẩm chất của chị đã thuyết phục bất cứ ai ở bất cứ chiến tuyến nào. Thuỳ Trâm viết những dòng nhật kí này là cho riêng mình, nếu chị còn sống thì có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ được đọc những dòng chữ ấy. Vượt lên trên một cuốn nhật kí thông thường, Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm đã trở thành một tác phẩm văn học rất giá trị, rất đặc biệt, rất riêng tư. Và chính bởi ta đang hướng đến. những lí do đó mà cuốn sách như một cây cầu nối những giá trị nhân bản mà chúng ta đang hướng đến”.  (Theo Thanh Thảo, nhandan.vn, ngày 28/07/2005) A. Giải thích và bình luận B. Phân tích và bác bỏ C. Phân tích và chứng minh D. So sánh và bình luận
Phân tích đặc điểm của ngôn ngữ trang trọng thể hiện ở đoạn văn sau: Phát triển bản thân là quá trình không ngừng tìm kiếm sự tiến bộ và trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình. Để phát triển bản thân, chúng ta cần dành thời gian và nỗ lực để khám phá, học hỏi và phát triển các kĩ năng cũng như phẩm chất cá nhân. Điều này không chỉ là việc học hỏi từ sách vở, mà còn là quá trình tự khám phá, đặt ra những thách thức và vượt qua những giới hạn cá nhân. Đầu tiên, phát triển bản thân bắt đầu từ việc xác định rõ mục tiêu và định hình định hướng cuộc sống. Bằng cách này, chúng ta có thể tập trung nỗ lực và tài năng vào những lĩnh vực quan trọng nhất. Ngoài ra, phát triển bản thân cũng liên quan đến việc duy trì sức khoẻ cả về thể chất và tinh thần. Quản lí thời gian, thiền định và việc duy trì mối quan hệ tích cực đều góp phần vào sự cân bằng trong cuộc sống. Cuối cùng, phát triển bản thân không chỉ là hành trình cá nhân cá nhân mà còn là sự đóng góp cho cộng đồng. Việc chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và tinh thần tích cực là cách chúng ta có thể tạo nên một xã hội phồn thịnh và bền vững. Quá trình này không chỉ mang lại sự tự thoả mãn mà còn đem lại cơ hội và thành công trong cuộc sống. (Bài làm của học sinh)
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi: Ngay sát địa đầu Tổ quốc là đảo Vĩnh Thực, nơi có ngọn hải đăng đầu tiên trong số hơn 90 ngọn hải đăng của Việt Nam. Rộng 50km, đây là hòn đảo còn nhiều nét hoang sơ cùng bãi biển xanh trong. Tiếp nối Vĩnh Thực là chuỗi những hòn đảo tạo thành vành đai bên ngoài vùng vịnh Bái Tử Long và Hạ Long, làm nên một vùng biển yên bình với vô số đảo núi đá vôi nhỏ có những hang động kì thú. Những dãy đảo xa quây quần trong vùng vịnh biển như Hạ Long, đúng như nhà thơ Chế Lan Viên gọi là “cành phong lan bể” – “Tôi muốn đến chỗ nước trời lẫn sắc,/ Nơi bốn mùa đã hoá thành thu” – là những đảo núi đá vôi nhô lên từ mặt biển. Gần 2000 hòn đảo ở đây đã hợp thành một vùng địa chất đặc biệt, đưa Vịnh Hạ Long trở thành kì quan thiên nhiên thế giới. Những hòn đảo lớn trong các quần đảo Cái Bầu, Vân Hải, Cô Tô, Cát Bà nổi tiếng với những bãi tắm và vùng hải sản hấp dẫn nằm xen với những đảo nhỏ như Tuần Châu, Quan Lạn hay xa hơn ngoài khơi như Long Châu, Bạch Long Vĩ,… (Trương Quý, Những dãy đảo xa nằm nghe biển hát, tạp chí Heritage, số 239, tháng 6/2022, tr. 13 – 14) Giả định câu sau đây là câu được mở rộng cấu trúc: “Những dãy đảo xa quây quần trong vùng vịnh biển như Hạ Long, đúng như nhà thơ Chế Lan Viên gọi là “cành phong lan bể” – “Tôi muốn đến chỗ nước trời lẫn sắc,/ Nơi bốn mùa đã hoá thành thư” – là những đảo núi đá vôi nhô lên từ mặt biển.”. Vậy theo em, có thể khôi phục lại câu “ban đầu” như thế nào?
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi: Ngay sát địa đầu Tổ quốc là đảo Vĩnh Thực, nơi có ngọn hải đăng đầu tiên trong số hơn 90 ngọn hải đăng của Việt Nam. Rộng 50km, đây là hòn đảo còn nhiều nét hoang sơ cùng bãi biển xanh trong. Tiếp nối Vĩnh Thực là chuỗi những hòn đảo tạo thành vành đai bên ngoài vùng vịnh Bái Tử Long và Hạ Long, làm nên một vùng biển yên bình với vô số đảo núi đá vôi nhỏ có những hang động kì thú. Những dãy đảo xa quây quần trong vùng vịnh biển như Hạ Long, đúng như nhà thơ Chế Lan Viên gọi là “cành phong lan bể” – “Tôi muốn đến chỗ nước trời lẫn sắc,/ Nơi bốn mùa đã hoá thành thu” – là những đảo núi đá vôi nhô lên từ mặt biển. Gần 2000 hòn đảo ở đây đã hợp thành một vùng địa chất đặc biệt, đưa Vịnh Hạ Long trở thành kì quan thiên nhiên thế giới. Những hòn đảo lớn trong các quần đảo Cái Bầu, Vân Hải, Cô Tô, Cát Bà nổi tiếng với những bãi tắm và vùng hải sản hấp dẫn nằm xen với những đảo nhỏ như Tuần Châu, Quan Lạn hay xa hơn ngoài khơi như Long Châu, Bạch Long Vĩ,… (Trương Quý, Những dãy đảo xa nằm nghe biển hát, tạp chí Heritage, số 239, tháng 6/2022, tr. 13 – 14) Nếu muốn chuyển đoạn trích trên thành đoạn thuyết minh về một danh lam thắng cảnh, người viết cần phải xử lí các thông tin đã có như thế nào?
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi: Ngay sát địa đầu Tổ quốc là đảo Vĩnh Thực, nơi có ngọn hải đăng đầu tiên trong số hơn 90 ngọn hải đăng của Việt Nam. Rộng 50km, đây là hòn đảo còn nhiều nét hoang sơ cùng bãi biển xanh trong. Tiếp nối Vĩnh Thực là chuỗi những hòn đảo tạo thành vành đai bên ngoài vùng vịnh Bái Tử Long và Hạ Long, làm nên một vùng biển yên bình với vô số đảo núi đá vôi nhỏ có những hang động kì thú. Những dãy đảo xa quây quần trong vùng vịnh biển như Hạ Long, đúng như nhà thơ Chế Lan Viên gọi là “cành phong lan bể” – “Tôi muốn đến chỗ nước trời lẫn sắc,/ Nơi bốn mùa đã hoá thành thu” – là những đảo núi đá vôi nhô lên từ mặt biển. Gần 2000 hòn đảo ở đây đã hợp thành một vùng địa chất đặc biệt, đưa Vịnh Hạ Long trở thành kì quan thiên nhiên thế giới. Những hòn đảo lớn trong các quần đảo Cái Bầu, Vân Hải, Cô Tô, Cát Bà nổi tiếng với những bãi tắm và vùng hải sản hấp dẫn nằm xen với những đảo nhỏ như Tuần Châu, Quan Lạn hay xa hơn ngoài khơi như Long Châu, Bạch Long Vĩ,… (Trương Quý, Những dãy đảo xa nằm nghe biển hát, tạp chí Heritage, số 239, tháng 6/2022, tr. 13 – 14) Theo em, vì sao không thể xếp văn bản có đoạn được trích ở trên vào loại văn bản thuyết minh giới thiệu về một danh lam thắng cảnh?
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi: Ngay sát địa đầu Tổ quốc là đảo Vĩnh Thực, nơi có ngọn hải đăng đầu tiên trong số hơn 90 ngọn hải đăng của Việt Nam. Rộng 50km, đây là hòn đảo còn nhiều nét hoang sơ cùng bãi biển xanh trong. Tiếp nối Vĩnh Thực là chuỗi những hòn đảo tạo thành vành đai bên ngoài vùng vịnh Bái Tử Long và Hạ Long, làm nên một vùng biển yên bình với vô số đảo núi đá vôi nhỏ có những hang động kì thú. Những dãy đảo xa quây quần trong vùng vịnh biển như Hạ Long, đúng như nhà thơ Chế Lan Viên gọi là “cành phong lan bể” – “Tôi muốn đến chỗ nước trời lẫn sắc,/ Nơi bốn mùa đã hoá thành thu” – là những đảo núi đá vôi nhô lên từ mặt biển. Gần 2000 hòn đảo ở đây đã hợp thành một vùng địa chất đặc biệt, đưa Vịnh Hạ Long trở thành kì quan thiên nhiên thế giới. Những hòn đảo lớn trong các quần đảo Cái Bầu, Vân Hải, Cô Tô, Cát Bà nổi tiếng với những bãi tắm và vùng hải sản hấp dẫn nằm xen với những đảo nhỏ như Tuần Châu, Quan Lạn hay xa hơn ngoài khơi như Long Châu, Bạch Long Vĩ,… (Trương Quý, Những dãy đảo xa nằm nghe biển hát, tạp chí Heritage, số 239, tháng 6/2022, tr. 13 – 14) Chỉ ra các nhóm đối tượng được tác giả nói đến trong đoạn trích.