Danh sách câu hỏi
Có 305,513 câu hỏi trên 6,111 trang
Đọc đoạn thông tin và chọn đúng hoặc sai ở mỗi ý a, b, c, d sau đây:
“Tình trạng ô nhiễm môi trường không khí ngày càng gia tăng đang là vấn để cấp bách ở nước ta hiện nay. Giai đoạn 2016 - 2021, chất lượng không khí tại các đô thị như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,... ngày càng suy giảm. Nồng độ bụi, khí CO, ở các đô thị, khu công nghiệp vượt quá nhiều lần so với quy chuẩn. Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm tiếng ồn diễn ra khá nghiêm trọng ở các thành phố lớn, khu công nghiệp, khu dân cư, các trục giao thông chính. Tình trạng không khí tại các làng nghề, khu vực nông thôn đã có dấu hiệu ô nhiễm cục bộ. Nguồn gây ô nhiễm không khí chủ yếu đến từ hoạt động công nghiệp và giao thông vận tải.”
(Nguồn: dẫn theo SGK Địa lí 12 - bộ sách Chân trời sáng tạo, trang 26)
a) Ô nhiễm không khí thường xảy ra ở các đô thị lớn do quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng mà không đi đôi với việc bảo vệ môi trường.
b) Sự bùng nổ về phương tiện giao thông cơ giới gây ra tình trạng tắc nghẽn giao thông, thải ra nhiều khí bụi độc hại (NO,CO),… là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường không khí và tiếng ồn.
c) Nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm không khí là từ hoạt động nông nghiệp.
d) Ô nhiễm không khí chưa phải vấn để cấp bách ở nước ta hiện nay.
Đọc đoạn thông tin và chọn đúng hoặc sai ở mỗi ý a, b, c, d sau đây:
“Khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình các tháng trong năm dưới 25 °C; lượng mưa và độ ẩm tăng lên. Các nhóm đất: Từ độ cao 600 – 700 m đến 1 600 − 1 700 m hình thành đất fe-ra-lit có mùn với đặc tính chua, tầng đất mỏng. Từ độ cao trên 1 600 − 1 700 m xuất hiện đất mùn. Các kiểu thảm thực vật: Từ độ cao 600 – 700 m đến 1 600 – 1 700 m hình thành hệ sinh thái rừng cận nhiệt đới lá rộng và lá kim. Trong rừng xuất hiện các loài chim, thú cận nhiệt phương Bắc, có lông dày như gấu, sóc,... Từ độ cao trên 1 600 m – 1 700 m, thực vật chậm phát triển, thành phần loài đơn giản, thường có rêu, địa y trên thân và cành cây. Trong rừng xuất hiện các loài cây ôn đới như: sa mu, pơ mu và các loài chim di cư thuộc khu hệ Hi-ma-lay-a.”
(Nguồn: dẫn theo SGK Địa lí 12 - bộ sách Cánh diều, trang 16 - 17)
a) Thiên nhiên nước ta có sự phân hóa theo 3 đai cao: đai nhiệt đới gió mùa, đai cận nhiệt đới gió mùa trên núi, đai ôn đới gió mùa trên núi.
b) Đoạn thông tin trên nhắc đến đặc điểm của đai nhiệt đới gió mùa trên núi.
c) Biểu hiện của đai cận nhiệt đới gió mùa trên núi là: nhiệt độ cao, đất feralit đỏ vàng và nâu đỏ, sinh vật nhiệt đới đa dạng.
d) Sinh vật phổ biến là các loài cận nhiệt, xen kẽ một số loài nhiệt đới.
Cho bảng số liệu:
Cơ cấu dân số theo nhóm tuổi ở nước ta giai đoạn 1999 – 2021 (Đơn vị: %).
Năm
Nhóm tuổi
1999
2009
2019
2021
0 – 14 tuổi
33,1
24,5
24,3
24,1
15 – 64 tuổi
61,1
69,1
68,0
67,6
Từ 65 tuổi trở lên
5,8
6,4
7,7
8,3
(Nguồn: Kết quả toàn bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999, 2009, 2019;
Kết quả chủ yếu Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình năm 2021)
Biết tổng số dân nước ta năm 2021 là 98,5 triệu người:
a) Số dân trong nhóm 0 – 14 tuổi năm 2021 của nước ta là bao nhiêu triệu người? (làm tròn đến chữ số thập phân đầu tiên).
b) Từ năm 1999 đến năm 2021, trong cơ cấu dân số theo nhóm tuổi thì nhóm tuổi nào tăng nhanh nhất?
Cho bảng số liệu sau:
Bảng số liệu: Nhiệt độ không khi trung bình (t) và lượng mưa (p) các tháng tại trạm khí tượng Huế (Thừa Thiên Huế) năm 2020.
Tháng
Tiêu
chí
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
t (°C)
21,7
22
25,7
24,7
29,5
29,9
29,5
28,8
28,6
25
23,7
20
p (mm)
80,3
23,9
47,8
217,4
35,6
14
48,7
153,4
225,1
2634,7
767
564,9
(Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam năm 2020)
a) Tính nhiệt độ trung bình năm tại Thừa Thiên Huế.
b) Tính tổng lượng mưa trong năm tại Thừa Thiên Huế.
Quan sát biểu đồ và chọn đúng hoặc sai ở mỗi ý a, b, c, d sau đây:
Biểu đồ cơ cấu lao động theo ngành kinh tế ở nước ta giai đoạn 2010 – 2021 (Đơn vị: %)
(Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam năm 2016, 2022)
a) Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế ở nước ta chuyển dịch theo quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
b) Trong giai đoạn 2010 – 2021, lao động trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản có tỉ trọng ngày càng giảm.
c) Trong giai đoạn 2010 – 2021, lao động trong ngành dịch vụ có tỉ trọng tăng nhanh nhất.
d) Trong giai đoạn 2010 – 2021, lao động trong ngành công nghiệp, xây dựng luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong cơ cấu lao động theo ngành kinh tế ở nước ta.
Đọc đoạn thông tin và chọn đúng hoặc sai ở mỗi ý a, b, c, d sau đây:
“Tình trạng suy giảm tài nguyên nước ở Việt Nam là một vấn đề đáng báo động. Nguồn nước mặt (sông hồ) ở nhiều nơi đang bị suy giảm và ô nhiễm. Nguồn nước ngầm ở một số khu vực hạ thấp đáng kể. Ở nhiều khu vực, đặc biệt ở đồng bằng sông Cửu Long, xảy ra tình trạng thiếu nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất vào mùa khô.
Nguyên nhân suy giảm tài nguyên nước là do tác động của biến đổi khí hậu; việc khai thác quá mức nguồn nước; chất thải, nước thải sản xuất và sinh hoạt của con người không được xử lí; lạm dụng phân hoá học trong sản xuất nông nghiệp; tình trạng phá rừng đầu nguồn ảnh hưởng đến việc cung cấp nước cho dòng chảy.”
(Nguồn: dẫn theo SGK Địa lí 12 - bộ sách Kết nối tri thức, trang 30)
a) Nguồn nước bị ô nhiễm nguyên nhân chủ yếu là do tác động của các điều kiện tự nhiên.
b) Nhà nước cần có các chính sách sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên nước, đảm bảo cân bằng nước và phòng chống ô nhiễm nước.
c) Tình trạng bảo vệ rừng đầu nguồn là một trong những nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm tài nguyên nước.
d) Biến đổi khí hậu, nước biển dâng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất vào mùa khô ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Đọc đoạn thông tin và chọn đúng hoặc sai ở mỗi ý a, b, c, d sau đây:
“Vùng biển Việt Nam có diện tích khoảng 1 triệu km², tiếp giáp với vùng biển của các nước Trung Quốc, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a, Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po, Cam-pu-chia và Thái Lan. Vùng biển nước ta bao gồm: nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.”
(Nguồn: dẫn theo SGK Địa lí 12 - bộ sách Kết nối tri thức, trang 7)
a) Vùng biển Việt Nam không tiếp giáp với vùng biển của Mi-an-ma.
b) Vùng biển Việt Nam là vùng biển nhỏ, không tiếp giáp với các quốc gia khác.
c) Nước ta thuận lợi giao lưu với các quốc gia trong khu vực bằng đường biển.
d) Vùng tiếp giáp lãnh hải không phải là bộ phận của vùng biển Việt Nam.
Đọc văn bản Tịch Phương Bình và thực hiện các yêu cầu nêu phía dưới.
TỊCH PHƯƠNG BÌNH
Bồ Tùng Linh
Tịch Phương Bình, người huyện Đông An. Cha tên là Liêm, tính tình ngay thẳng nhưng vụng ăn nói. Ở trong làng, Liêm có hiềm khích với một người nhà giàu họ Dương. Họ Dương chết trước. Vì thế, mấy năm sau, khi Liêm bệnh nặng sắp nguy kịch, nói với người ta rằng: “Lão Dương nay đang hối lộ dưới âm phủ sai đánh đập tôi đó”. Chốc lát, mình mẩy sưng phù bầm tím, kêu gào rồi chết. Tịch đau xót thảm thiết, không chịu ăn uống, nói: “Cha ta là người chất phác, nay bị bọn quỷ : Tình cảm và câu nói dữ lấn ép, ta xuống âm ti thay cha xin minh oan”. Từ đó, không nói gì nữa cả, khi đứng hoặc ngồi, vẻ như người ngây. Thì ra hồn đã lìa khỏi xác.
Tịch vừa thấy mình ra khỏi cửa, chưa biết đi đâu. Nhưng thấy người đi trên đường, liền hỏi đường đến thành ấp. Một lúc sau, vào thành. Thấy cha mình đã bị giữ ở trong ngục. Tịch đến cửa ngục, thấy cha nằm dưới mái hiên, bộ dạng hết sức khốn khổ. Cha Tịch ngẩng mắt lên, nhìn thấy con từ xa, chảy nước mắt giàn giụa, liền nói: “Bọn ngục lại đều ăn đút lót, ngày đêm đánh đập cha, chân cẳng đui về nát bấy cả rồi”. Tịch nổi giận lớn tiếng mắng bọn ngục tốt: “Cha ta nếu như có tội, thì đã có pháp luật âm phủ, há để bọn quỷ mị chúng bay tự tiện ngang ngược hay sao!”. Rồi lấy bút ra viết đơn kiện. Thì vừa gặp đúng buổi chầu sớm ở sở quan Thành Hoàng, liền đưa đơn vào.
Họ Dương sợ, đem hối lộ từ trong lẫn ngoài, rồi mới ra đối chất. Thành Hoàng coi rằng đơn tụng không có bằng chứng, không cho Tịch vào chầu. Tịch tức giận không biết lại kêu oan vào đâu, đi thêm một trăm dặm nữa tới quận, đem đơn kiện báo cho Quận Ti. Lâu cả nửa tháng mới được vào cật vấn. Quận Ti ra lệnh đánh đòn Tịch một trận và phê cho Thành Hoàng xét xử lại. Tịch tới ấp, thân bị cùm kẹp, không thể tự mình bày tỏ oan khuất. Thành Hoàng sợ Tịch lại đưa kiện nữa, sai quân hầu áp giải về nhà. Bọn sai dịch (đưa Tịch) tới cửa rồi bỏ về. Tịch không chịu vào nhà, lẻn trốn về âm phủ, tố cáo Quận Ti tham ô. Diêm Vương (vua âm phủ) liền cho câu lưu đối chất. Hai quan bí mật sai kẻ tâm phúc đến điều đình với Tịch, hứa cho một ngàn lạng vàng. Tịch không nghe. Được mấy ngày, chủ quán (chỗ Tịch bị giam giữ) bảo: “Ông cứng đầu quá, phủ quan muốn giải hoà mà không chịu nhận. Nghe nói các quan mang thư tới trước Diêm Vương. Tôi e việc không tốt đầu”. Tịch cho là lời đồn đại vô căn cứ nên không tin lắm. Một chốc có người áo đen gọi vào. Lên sảnh đường thấy Diêm Vương có vẻ giận dữ, không cho phép nói gì cả, ra lệnh đánh Tịch hai mươi đòn. Tịch lớn tiếng hỏi “Tôi có tội gì?” Diêm Vương làm như không nghe thấy. Tịch chịu đòn, la to: “Bị đòn là đáng kiếp! Ai bảo ngươi không có tiền”. Diêm Vương càng giận thêm, sai đem đặt lên giường lửa. Hai con quỷ lôi Tịch xuống, thấy thêm bên cạnh có đặt cái giường sắt, bên dưới có lửa đốt, mặt giường đỏ rực. Quỷ lột áo Tịch ra, đặt lên đó, lăn qua lăn lại, dày vò đè ép. Tịch cực kì đau đớn, xương thịt cháy đen, khó muốn chết mà không được. Khoảng hai giờ sau, một con quỷ nói: “Đủ rồi”. Đoạn kéo Tịch khỏi giường, cho mặc áo; may mà còn khập khễnh đi được. Tịch lại đi lên sảnh đường, Diêm Vương hỏi: “Dám kiện nữa thôi?”. Tịch nói: “Oan uống chưa bày giải xong, tấc lòng này chưa chết; nếu bảo không kiện nữa, tức là dối gạt ngài. Vậy sẽ kiện nữa”. Diêm Vương lại hỏi: “Kiện điều gì?”. Tịch nói: “Thân này phải chịu đựng những gì, đều nói ra hết”. Diêm Vương lại nổi giận, sai đem Tịch ra cưa xẻ thân thể. Hai con quỷ lôi đi, Tịch thấy một cây gỗ dựng đứng, cao chừng tám, chín thước, trên có hai tấm gỗ, ở trên ở dưới, máu đọng bê bết. Hai con quỷ sắp sửa trói Tịch vào đó, bỗng nghe trên sảnh đường hô lớn: “Tên Tịch!”. Hai con quỷ lại áp giải Tịch trở lại (chỗ cũ). Diêm Vương lại hỏi: “Còn dám kiện tụng nữa thôi?” Tịch đáp: “Vẫn kiện”. Diêm Vương ra lệnh tức tốc mang đi. Dưới cây gỗ, hai con quỷ lấy hai tấm gỗ kẹp Tịch lại, buộc lên cây gỗ. Cái cưa vừa hạ xuống, Tịch có cảm giác như óc trên đỉnh đầu từ từ nứt ra, đau đớn không chịu nổi, nhưng vẫn cắn răng không kêu la. Nghe một con quỷ nói: “Tên này cứng cỏi thiệt!”. Tiếng của soàn soạt xuống tới dưới ngực, lại nghe một con quỷ nói: “Người này chí hiếu vô tội, cưa xiên qua một bên, đừng hại vào tim”. Tịch nghe lưỡi cưa quẹo quành xuống dưới, càng đau đớn gấp bội. Một lúc sau, thân đứt làm hai. Khi hai tấm gỗ mở ra, hai nửa mình đổ xuống đất. Hai con quỷ lên sảnh đường cất tiếng thông báo (đã cưa xong). Sảnh đường truyền lệnh ráp hai nửa thân hình lại rồi đem lên xem. Hai con quỷ liền ấn hai phần thân thể dính lại với nhau và lôi đi. Tịch có cảm giác chỗ đường của đau muốn xé ra, mỗi nửa bước lại té nhào. Một con quỷ rút từ lưng ra một sợi dây đưa cho Tịch nói: “Tặng anh báo hiếu”. Tịch cầm lấy buộc vào lưng, bỗng thấy mình khoẻ khoắn, không còn chút đau đớn nào nữa. Rồi lên sảnh đường quỳ xuống. Diêm Vương lại hỏi như lần trước. Tịch khiếp sợ lại bị tra tấn khốc liệt, liền nói: “Không kiện nữa”. Diêm Vương tức thì ra lệnh dẫn Tịch đưa về dương gian.
Lính canh dẫn Tịch ra cửa phía bắc, chỉ cho đường về, rồi quay trở lại (âm phủ). Tịch nghĩ âm ti còn ám muội hơn cả trần gian, nhưng khốn nỗi không biết đường nào kêu tới Thượng Đế. Tục truyền Nhị Lang ở Quán Khẩu là người có công huân với Thượng Đế, là bậc thần thông minh, chính trực, cầu xin chắc được linh ứng. Mừng thấy hai tên lính canh đã đi khỏi rồi, Tịch liền xoay mình đi về hướng nam. Trong lúc đang tất tả chạy, thì có hai người đuổi theo:“Diêm Vương đã ngờ nhà ngươi không chịu về, quả nhiên là thế!”. Chúng nó liền dẫn trở về gặp lại Diêm Vương. Tịch thầm nghĩ Diêm Vương sẽ nổi nóng hơn nhiều, tai vạ càng dữ dội thêm nữa. Nhưng Diêm Vương không có vẻ giận chi cả, bảo Tịch rằng: “Ngươi thật chí hiếu. Còn oan khuất của cha ngươi, ta đã rửa sạch như tuyết rồi. Bây giờ đã được đầu thai ở nhà giàu sang, thì ngươi còn kiện cáo âm phủ làm chi. Nay đưa ngươi về, cho ngươi nghìn lạng vàng làm tài sản, tăng thêm tuổi thọ, ngươi bằng lòng chưa?”. Rồi ghi vào sổ, đóng con dấu thật to, đưa cho Tịch xem tận mắt. Tịch lạy tạ, lui xuống. Hai con quỷ cùng ra theo, tới ngoài đường, vừa xua đi vừa chửi Tịch: “Thằng giặc gian trá, bao lần tráo trở, làm bọn tao vất vả muốn chết. Mi mà làm như thế nữa, sẽ bắt mi bỏ vào cối xay, nghiền thành bột. Tịch trợn mắt quát lớn: “Đồ quỷ tầm bậy. Tính ta sợ dao cưa, chứ không sợ đánh đập. Cứ về hỏi lại Diêm Vương; Diêm Vương ra lệnh cho ta tự về, sao lại mất công dẫn đi theo làm gì?”. Đoạn chạy ngược lại. Hai con quỷ sợ, xuống giọng khuyên nhủ Tịch trở về. Tịch cố ý đi chậm chạp, đi vài bước lại nghỉ bên đường. Hai con quỷ nuốt hận, không dám nói gì nữa.
Khoảng nửa ngày, đến một xóm nọ, có một cửa hé mở, hai con quỷ dẫn Tịch cùng ngồi. Tịch liền ngồi ở bậc cửa. Hai con quỷ thừa dịp bất ngờ, đẩy Tịch vào trong cửa. Khi định thần nhìn lại thì mình đã hoá thành một đứa bé sơ sinh. Phẫn uất kêu khóc, ba ngày không bú rồi chết non. Hồn vất vưởng không quên Quán Khẩu. Đi được chừng mấy chục dặm, bỗng thấy lọng kích ngang đường. lịch vì muốn tránh, vượt qua đường, nên phạm phải nghi trượng, bị lính đi trước ngựa bắt, trói đem giải lên trước xe. Ngẩng lên trông thấy trong xe có một người trẻ tuổi, dáng dấp khôi ngô tuấn tú. Người thiếu niên hỏi Tịch: “Ai đấy?”. Tịch chính vì oan khuất chưa biết bày tỏ nơi đâu, nghĩ rằng đây là một viên quan to, có thể tác oai tác phúc, nên nói ra hết mọi điều oan ức khổ sở mà mình đã chịu dựng. Người trong xe ra lệnh cởi trói cho Tịch và sai cho đi theo xe. Một lúc sau đến một nơi, có cả hơn chục quan viên nghênh đón bên trái đường. Người trong xe hỏi thăm từng người. Xong chỉ Tịch và nói với một ông quan rằng: Đây là một người dưới trần vừa muốn kêu nài, nên xét xử ngay lập tức”. Tịch hỏi người được dặn bảo chính là Nhị Lang. Tịch nhìn Nhị Lang, thân hình cao lớn, mặt theo hầu mới biết người trong xe là Cửu Vương điện hạ của Thượng Đế, và người mày râu ria rậm rạp, không giống như thế gian truyền tụng. Cửu Vương đi rồi, Tịch theo Nhị Lang đến một sở quan, chính là chỗ cha Tịch và lão họ Dương bị giam giữ. Chốc lát trong xe tù có tù nhân chui ra, thì là Diêm Quận Ti và Thành Hoàng. Mọi lời thẩm vấn đối chất đều không sai khác những lời Tịch đã khai. Ba quan run sợ, trông như chuột mắc bẫy. Nhị Lang cầm bút phán quyết. Một lát sau, bản án truyền xuống, cho mọi người trong vụ án xem. Quyết định như sau:
Xét rằng Diêm Vương, được phong tước vương, thụ ơn Thượng Đế. Lẽ ra phải giữ mình trong sạch để dẫn dắt thuộc quan, không được tham ô mà bị chê bai, chỉ trích. Thế mà y nghi trượng nghênh ngang, chỉ khoe khoang cấp bậc cao sang; tham lam, ác độc như giống cừu loài sói, làm nhơ nhuốc phẩm cách bề tôi. Búa đánh, dao chặt, cha con xương thịt còn chi. Cá lớn nuốt cá bé, cá ăn tôm; đàn kiến nhỏ nhoi đáng xót. Phải vốc nước Tây giang đem mi ra rửa ruột; đem đốt nóng giường đông, cho ngươi vào hũ.
Xét rằng Thành Hoàng, Quận Ti, là quan cha mẹ dân đen, chăn dắt bò dê cho Thượng Đế. Tuy chức phận ở hàng dưới, (nhưng là) người tận tuỵ há chịu khom lưng; dù bị quan trên chèn ép, kẻ vững chí phải nên cứng cổ. Thế mà lại làm tay chân cho loài diều loài ó, quên nghĩ tới thân phận dân nghèo. Lại còn vênh váo thói khi vượn gian manh, chẳng hiềm làm loài quỷ đói. Chuyên ăn bòn đút lót làm điều trái phép, đúng là bầy mặt người dạ thú. Phải cho rút tuỷ thay lông, lột da đổi vỏ mà đi đầu thai kiếp khác.
Xét rằng mấy tên sai dịch, đã ở cùng lũ quỷ, đâu phải loài người. Cửa công nên gắng tu sửa, hòng mong trở lại kiếp người. Cớ sao biển khổ dậy sóng, gây nên oan nghiệt tày trời? Vênh vang ngang ngược, mặt chó (tạo điều oan khuất) khiến cho sương rơi tháng hạ. Náo loạn kêu gào, oai hổ cắt ngang đường lớn. Phóng túng doạ dẫm nơi âm phủ, ai ai đều biết cai tù đáng nể. Theo hùa giúp rập bọn quan tham tàn ác độc, mọi người cùng khiếp phường đồ tể. Đáng đưa chúng nó ra pháp trường chặt đứt chân tay; lại đem bỏ vào vạc sôi dầu bỏng, vớt ra chỉ còn Xét rằng lão họ Dương, giàu có nhưng không có lòng nhân; gian giảo nhiều mánh lới. Ánh vàng bạc rọi đất, khiến cho hết thảy điện đài ở cõi âm cũng phải lu mờ. Hơi đồng ngút trời, làm cho những người chết oan trong thành không còn thấy được mặt trời, mặt trăng. Mùi tiền bạc tanh tưởi sai khiến được quỷ, sức mạnh của nó làm lay động tới cả bậc thần. Nên truyền lệnh tịch biên gia sản họ Dương, đem tưởng thưởng lòng chí hiếu của ông Tịch. Tức khắc giao phó cho thần núi Thái Sơn.
(In trong Bồ Tùng Linh, Liêu trai chí dị,
Cao Tự Thanh dịch, NXB Văn hoá Sài Gòn, 2005, tr. 122 – 125)
Xác định đề tài, chủ đề của truyện và nếu căn cứ để xác định chủ đề.
Đọc văn bản Đời thừa và thực hiện các yêu cầu nêu phía dưới:
ĐỜI THỪA
Nam Cao
Từ ngửng mặt lên nhìn Hộ ba lần. Ba lần, Từ muốn nói, nhưng lại không dám nói. Hắn đang đọc chăm chú quá. Đôi lông mày rậm của hắn châu đầu lại với nhau và hơi xếch lên một chút. Đôi mắt sáng quắc có vẻ lồi ra. Cái trán rộng hơi nhăn. Đôi lưỡng quyền đứng sừng sững trên bờ hai cái hố sâu của má thì bóng nhẫy. Cả cái mũi cao và thẳng tắp cũng bóng lên như vậy. Cái mặt hốc hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên quyển sách, trông khắc khổ đến thành dữ tợn. Từ thấy sợ...
Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi. Từ bản tính rất dịu dàng, rất tận tâm. Vả lại Hộ, đối với Từ, còn là một ân nhân nữa. Hộ đã cúi xuống nỗi khổ đau của Từ. Hộ đã cúi xuống và đã đưa một bàn tay cầm lấy cái bàn tay mềm yếu của Từ, giữa lúc Từ đau đớn không bờ bến: Từ bị tình nhân bỏ với một đứa con vừa mới đẻ. Gã tình nhân vô liêm sỉ ấy, Từ đã yêu hắn bằng cả tấm lòng yêu lúc ban đầu. Từ đã tin như người ta tin một vị thần. Từ đã hiến mình một cách dè dặt tâm hồn và xác thịt. Và khi biết mình sắp có một đứa con, Từ không hề hối hận một mảy may: Từ rất bằng lòng. Ấy thế mà hắn đã phụ Từ, phụ một cách hèn nhát và khốn nạn, ngay chính vào lúc Từ cần đến hắn để bảo tồn sự sống và danh dự, lúc đứa con ra đời. Từ sửng sốt vô cùng. Từ không tin ở sự thật rành rành. Rồi khi sự sửng sốt qua thì Từ khóc. Từ khóc như mưa, khóc tưởng chẳng bao giờ còn lặng được. Từ khóc, và ôm con ngồi nhịn đói, bởi vì Từ chẳng còn biết trông cậy vào ai, trừ bà mẹ già mù và quanh năm, nay ốm, mai đau, mà Từ vẫn phải nuôi. Bà mẹ già biết làm sao? Bà chỉ còn một cách là còn được ít nước mắt nào thì rỏ cả ra mà khóc với con và cả mẹ lẫn con chỉ còn một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu xương thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả. Giữa lúc ấy thì Hộ mở rộng đôi cánh tay ra, đón lấy Từ. Hộ nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ. Hộ nhận làm bố cho đứa con thơ. Vì muốn yên ủi Từ và cứu lấy danh dự của Từ, Hộ đã chính thức nhận Từ làm vợ. Rồi Hộ đứng làm ma cho bà mẹ Từ, khi bà cụ mất. Biết bao nhiều là ân nghĩa! Từ có yêu Hộ đến đâu, có chịu khó đến đâu, có làm nô lệ cho Hộ suốt đời Từ nữa, thì cũng chưa đủ để mà đền ơn. Bởi thế, nên luôn mấy năm trời, Hộ thấy Từ là một người vợ rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm. Và đáng lẽ thì Hộ phải sung sướng lắm. [1]
Nhưng Hộ chỉ sung sướng được ít lâu thôi. Sau cái hành vi đẹp của hắn, và thấy cái hành vi ấy được trả công bằng một tình yêu rất êm đềm, hắn chỉ còn nghĩ đến gia đình, chỉ cốt làm sao nuôi được gia đình. Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. Nhưng bấy giờ hắn chỉ có một mình. Đói rét không có nghĩa lí gì đối với gã trẻ tuổi say mê lí tưởng. Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn'. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Đối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời... Thế rồi, khi đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn, hắn có cả một gia đình phải chăm lo. Hắn hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền; hắn hiểu những nỗi khổ đau của một kẻ đàn ông khi thấy vợ con mình đói rách. Những bận rộn đẹp nhẹp, vô nghĩa lí, nhưng không thể không nghĩ tới, ngốn một phần lớn thì giờ của hắn. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn kí tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn... Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là để tiện. Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt phèo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có... Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt? Hắn để mặc vợ con khổ sở ư? Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng, hắn hi sinh như người ta vẫn nói ư? Đã một vài lần hắn thấy ý nghĩ trên đây thoáng qua đầu. Và hắn nghĩ đến câu nói hùng hồn của một nhà triết học kia: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ. Nhưng hắn lại nghĩ thêm rằng: Từ rất đáng yêu, rất đáng thương, hắn có thể hi sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỉ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường; nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. Vả lại hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa?... Hắn tự bảo: “Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền. Khi Từ đã có một số vốn con để làm ăn! Sự sinh hoạt lúc này chẳng dễ dàng đâu!”. Từ khi đứa con này chưa kịp lớn lên, đứa con khác đã vội ra, mà đứa con nào cũng nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và quanh năm uống thuốc. Từ săn sóc chúng đã đủ ốm người rồi, chẳng còn có thể làm thêm một việc khác nữa. Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn còn điên lên vì, nhà không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách. Hắn thấy mình khổ quá, bực bội quá. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất cứ ai, với chính mình. Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng văng mát ở bên ngoài đã làm cái trán nóng bừng nguội bớt đi và lòng trút nhẹ được ít đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn đi lang thang, không chủ đích. Rồi khi gió nhiều uất giận, hắn tạt vào một tiệm giải khát nào mà uống một cốc bia hay cốc nước chanh. Hắn tìm một người bạn thân nào để nói chuyện văn chương, ngỏ ý kiến về một vài quyển sách mới ra, một vài tên kí mới trên các báo, phác hoạ một cái chương trình mà hắn biết ngay khi nói là chẳng bao giờ hắn có thể thực hành, rồi lặng lẽ nghĩ đến các tác phẩm dự định từ mấy năm nay để mà chán ngán. Hắn thừ mặt ra, như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ quê hương. Hắn cũng nhớ nhung một cái gì rất xa xôi... những mộng đẹp ngày xưa... một con người rất đáng yêu đã chẳng còn là mình nữa. Hắn lắc đầu tự bảo: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi”. Và hắn nghĩ đến cái tên hắn đang mờ dần đằng sau những tên khác mới trồi ra, rực rỡ hơn... Rồi hắn ra về, thờ thẫn. Những sự bực tức đã chìm đi. Lòng : việc được kể từ điểm hắn không còn sôi nổi nữa, nhưng rũ buồn... [2]
***
Ít lâu nay, mỗi lần ra đi, Hộ không chỉ trở về buồn bã mà thôi. Hắn say mềm. Thường thường hắn đã ngủ một nửa ngay từ khi còn ở dọc đường; và vừa về đến nhà, chưa kịp thay quần áo, tháo giày, đã đổ như một khúc gỗ xuống bất cứ một cái giường nào, ngủ say như chết. Từ phải chờ khi con ngủ mê, rón rén lừa con, dậy lại tháo giày, cởi quần tây cho hắn, luồn một cái gối xuống gáy hắn, và cố nhắc chân, nhắc tay hắn, đặt cho hắn nằm ngay ngắn lại... Nhưng cũng có đêm hắn chưa ngủ vội. Hắn lảo đảo bước vào nhà, mắt gườm gườm, đôi môi mím chặt. Hắn đi thẳng lại trước mặt Từ. Hắn cúi xuống, quắc mắt nhìn Từ, gõ gõ một ngón tay trỏ vào trán Từ và doạ như người ta doạ trẻ con:
– Ngày mai... mình có biết không?... Chỉ ngày mai thôi! – Là tôi đuổi tất cả mấy mẹ con mình ra khỏi cái nhà này... Tôi đuổi tất, không chừa một đứa nào, kể cả con bé Thảo là con ngoan nhất... Mấy đứa kia đều đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn với hét! Cả con mẹ nữa, con mẹ là mình ấy... cũng đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn rồi ngồi ôm con như nhện ôm khư khư bọc trứng, không chịu làm thêm việc gì cho có tiền. Chỉ khổ thằng này thôi!
Hắn rít lên như vậy. Rồi hắn lại mím chặt môi, đôi mắt ngầu ngầu nhìn vào tận mặt Từ. Từ chẳng dám cãi nửa lời, chỉ lẳng lặng cúi mặt nhìn xuống, như một đứa trẻ con biết mình có lỗi khi người ta quở phạt. Bởi vậy hắn trừng trị một lúc rồi quay ra, loạng choạng cởi quần, cởi áo, hắn vứt bừa bộn xuống giường. Rồi hắn tháo giày, quăng từng chiếc một vào một xó nhà. Có khi máy tay, hắn quăng cả những vật gì thấy trên bàn, rồi lải nhải mắng Từ về tội không biết thu dọn nhà cho gọn ghẽ. Hắn nói chán rồi đi ngủ. Bấy giờ Từ mới dám đứng lên, treo quần áo cho hắn lớn mắc và thu dọn tất cả những thức hắn đã vất lổng chổng ra đầy nhà.
Lần đầu, Từ sửng sốt. Từ chẳng hiểu ra sao, Tử đoán chồng nghe ai nói nên ghen bóng, ghen gió chi đây, Từ khóc suốt đêm và dự định sẵn những câu để sáng hôm sau nói. Nhưng sáng hôm sau, hắn không để cho Tử phải nói. Hắn bẽn lẽn kêu mình đã quá chén tối hôm qua, hỏi Từ về những thủ đoạn vũ phu của mình rất buồn cười, rồi xin lỗi Từ, hôn hít các con như một người cha tốt. Hắn tuyên bố từ giờ chừa rượu và giữ được khá lâu, nhưng rồi lại uống và say như lần trước để làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. Cứ thế mãi Từ quen đi, không giận nữa. Nhưng Từ lờ mờ hiểu nỗi đau khổ mà có lẽ chính Từ đã gây ra cho chồng. Từ hiểu và Từ buồn lắm, buồn lắm lắm. Còn gì buồn cho bằng mình biết mình làm khổ cho người mà mình yêu? Nhưng Từ biết làm sao được? Đã nhiều lần Từ muốn ẵm con đi. Đã nhiều lần, Từ muốn bỏ liều con để đi làm, Từ muốn hi sinh. Nhưng lòng Từ mềm yếu biết bao! Từ là vợ! Từ là mẹ. Từ sống với những tình cảm thông thường của đàn bà. Từ rất yêu chồng và thường nhận ra rằng chồng Từ cũng yêu Từ, cũng muốn có Từ. Những khi Từ ốm đau chẳng hạn. Hộ lo xanh mắt và thức suốt đêm để trông coi thuốc thang cho vợ. Đối với các con cũng vậy. Chỉ xa chúng mấy ngày, Hộ đã nhớ và lúc về thấy các con chạy ra reo mừng và nắm lấy áo mình, thường thường Hộ cảm động đến ứa nước mắt. Hắn hôn hít chúng vô vập lắm... Biết đâu hắn sẽ sung sướng khi không con, không vợ? Từ nghĩ về hắn; nghĩ thế nhưng Từ cũng chẳng dám tìm cách mà xa hắn. Mới nghĩ đến sự xa hắn, Từ đã phải thổn thức đến bật tiếng khóc ra được rồi... Từ đành chỉ cố ngoan ngoãn hơn, đáng yêu hơn. Từ nhịn mặc, nhịn ăn để bớt những món tiêu. Từ thu xếp cửa nhà ngăn nắp, sạch sẽ, gọn gàng. Nhất là Từ hết sức ngăn những tiếng khóc, tiếng nô đùa của lũ con. Từ sợ cả nói với chồng. Bởi vậy ba lần nhìn chồng để toan nói, Từ thấy chồng đang đọc sách chăm chú quá, không dám nói lại cúi mặt xuống nhìn đứa con đang nằm trong lòng Từ.
Nhưng Hộ bỗng ngoảnh mặt lên. Hắn vừa gặp được một đoạn hay lắm nên ngừng đọc, ngẫm nghĩ và để cho cái khoái cảm ngân ra trong lòng. Đôi mắt hắn, tuy mới rời trang sách đã nhìn ngay lại phía Từ. Hắn mỉm cười, Từ cũng mỉm cười.
Hắn bảo:
– Này, Từ ... Nghĩ cho kĩ, đời tôi không đáng khổ mà hoá khổ, chính tôi làm cái thân tôi khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ. Ấy thế, mà tuy khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi. Tôi cho rằng: những khi được đọc một đoạn văn như đoạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay, thì dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế? Mình tính: người ta tả cái cảnh một người nhớ quê hương chỉ mất có ba câu, đúng ba câu!... Mình có hiểu không? ... Ba câu giản dị một cách không ngờ – mà hay được đến như thế này...
Hắn đọc lại đoạn văn. Hắn dịch nghĩa để Từ nghe. Hắn giảng giải cho Từ. Tuy Từ chẳng hiểu được bao nhiêu, nhưng cũng tin lời hắn lắm. Từ giữ mãi nụ cười hiền dịu trong khi nghe hắn nói. Khi hắn ngừng nói đã được một lúc khá lâu, Từ mới làm như chợt nhớ ra:
– Có lẽ hôm nay đã là mồng hai, mồng ba tây rồi, mình nhỉ?
– À phải! Hôm nay mồng ba... Giá mình không hỏi tôi thì tôi quên... Tôi phải đi xuống phố.
Từ nhắc khéo:
– Hèn nào mà em thấy người thu tiền nhà sáng nay đã đến...
Hộ sầm mặt lại:
– Tiền nhà... tiền giặt... tiền thuốc... tiền nước mắm... còn chịu tất! Tháng vừa rồi tiêu tốn quá, mới mồng mười đã hết tiền. May mà còn có đất mua chịu được.
Hắn nghĩ đến món tiền hắn đã tiêu phí mấy hôm đầu tháng. Mỗi lần bực tức hay chán nản, hắn lại đi uống rượu, thành thử tiền hết sớm. Từ không hé môi phàn nàn nửa tiếng, nhưng cả tháng Từ ăn và bắt các con ăn khem khổ, thường thường đói nữa! Quà sáng thì bỏ hẳn, có khi bữa tối cũng chịu nhịn cơm, ăn cháo. Hộ trông thấy thế, thương vợ, thương con quá, và ân hận vì mình đã tiêu quá trớn. Bởi vậy suốt từ mồng mười đến hết tháng, hắn không ra khỏi nhà để chẳng phải tiêu thêm tí gì...
Hắn vừa mặc quần áo, vừa nhắc thầm trong trí:
– Nhất định hôm nay không đi đâu cả... Lấy tiền xong là về ngay...
Nhưng Từ bảo:
Mình đi phố thì đi ăn nhé. Còn có ít gạo chỉ đủ cho lũ trẻ. Em chả đong thêm nữa, để mai trả tiền rồi lấy luôn thêm một thể... Em không để cơm mình đâu đấy... Nhà chẳng còn gì ăn...
Hộ hơi cau mày. Bởi vì hắn sợ bước vào tiệm ăn lắm. Hắn có thể gặp ở đây một vài người bạn... và khi ấy thì... ôi thôi! Mặc kệ gia đình và những cái gì còn lại.... Hắn sẽ uống rất khoẻ, nói toàn những chuyện vá trời lấp biển, rồi đi la cà đến hết đêm mới về. Hắn nghĩ ngợi một chút rồi hắn bảo:
– Được! Tôi sẽ mua cái gì về để cả nhà cùng ăn.
– Đừng phiền nữa! Em cứ cho chúng nó ăn cơm trước rồi đi ngủ.
– Đừng ăn trước... Đợi tôi đem thức ăn về, ăn một thể. Tôi về sớm. Cả tháng chúng nó đói khát, khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn.
Vẽ chuyện!
Hắn mỉm cười, đáp lại. Hắn lại gần Từ, cúi xuống nắm lấy tay đứa bé và gọi nó. Mặt hắn và mặt Từ ghé sát. Hắn cố ý khẽ chạm môi mình vào má Từ một cái. Từ vờ rũ mấy cái bụi ở tay áo hắn. Vợ chồng nhìn nhau âu yếm. Hắn vuốt má Từ một cái rồi ra đi.
***
Ở toà báo ra, Hộ đi thẳng tới một hiệu thịt quay. Hắn định mua mấy hào thịt vài cái bánh tây, gói đem về. Lòng hắn sáng bừng. Hắn tưởng tượng ra cái cảnh lũ con háu ăn và đói khát, rón thịt bằng tay và ăn những miếng bánh thật to, miệng phụng phịu và mỗi bóng nhờn những mỡ. Cái cảnh thô tục và cảm động! Hắn sẽ cười thoả thích. Còn Từ sẽ ngồi bên hắn mà nhìn chúng, đôi mắt sung sướng và thương hại loang loáng ướt... Đến trước cửa hiệu thịt quay, Hộ dừng lại. Hắn cẩn thận nhìn trước, nhìn sau, trước khi vào. Một người quen có thể đi qua, và nếu họ bắt gặp hắn đang cố nhét một gói thịt vào túi áo!... Không! Không có gì đáng ngại, ngoài đường phố... Nhưng trong hiệu, một thiếu nữ đẹp đang mặc cả... Hắn đành đợi vậy. Trong khi đợi, hai tay chắp sau lưng, hắn làm ra vẻ đợi một người bạn vừa vào một nhà nào gần đấy. Bỗng một bàn tay đập vào vai khiến hắn giật mình quay lại. Trung nhếch cười lặng lẽ và Mão cười ầm ĩ, cùng đưa tay cho hắn bắt:
– Mải ngắm nàng thơ nào mà ngây người ra thế?
Hộ ấp úng:
– À! Các anh!...
– Không theo gót sen nào đấy chứ?
– Cái ấy không quan hệ! Thi sĩ là người giữ được mình trẻ mãi và đến muôn năm vẫn còn trinh bạch.
– Cũng may tôi lại cũng không là thi sĩ nốt.
– Nghĩa là chẳng theo nàng nào cả?
– Chẳng theo nàng nào cả!
– Thế thì đi theo hai thằng này! [3]
Hộ nhìn Trung và Mão một thoáng rồi mới hỏi:
– Làm chi?
– Chẳng làm chi cả!
– Thế thì đệ kiếu. Đệ phải về kẻo hết tàu điện.
Trung cau mày nhìn Hộ một cách kinh ngạc và khinh bỉ:
– Sao lại có người điên đến thế. Về giữa lúc chiều thì đẹp mà phố thì vui thế này.
Họ trở nên đứng đắn:
– Không đùa nữa... Thật ra thì tôi có việc phải về, thế thôi.
– Ờ! Nói vậy còn dễ nghe... Thôi thế anh về nhé.... Nhưng mà... này! Anh đã biết gì chưa:
Hộ đã toan đi, quay đầu lại nhìn Trung...
– Đường về sắp được dịch ra tiếng Anh đấy nhé! Bản quyền tác giả ba nghìn đồng. Hộ trợn mắt lên. Người hắn bồi hồi. Một lúc lâu hắn mới hỏi được Trung:
– Có đích không?
– Đích xác rồi. Chính Quyền đưa cái thư điều đình cho chúng tôi xem.
Hộ có vẻ hoài nghi:
– Không mà lại.... Tôi biết lắm... Nhưng lại đăng này đã, về làm gì vội? Chúng mình làm cốc bia...
Hộ đã quên hẳn vợ con. Hắn chỉ còn háo hức muốn biết thêm về việc quyển Đường về của Quyền được dịch ra tiếng Anh. Hắn bám lấy Mão và Trung. Ba người vào một tiệm giải khát ở Bờ Hồ. Và chỉ độ nửa giờ sau, Mão và Trung đã thấy Hộ đỏ tai, giộng một cái vỏ chai bia xuống mặt bàn:
– Cuốn Đường về chỉ có giá trị địa phương thôi, các anh có hiểu không? Người ta dịch nó vì muốn biết phong tục của mọi nơi. Nó chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội. Tôi cho là xoàng lắm! Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn. Như thế mới thật là một tác phẩm hay, các anh có hiểu không? Tôi chưa thất vọng đâu! Rồi các anh xem... Cả một đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyền ấy sẽ ăn giải Nô-ben (Nobel) và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu!
Trung gật gù cười, vẫn cái cười lặng lẽ của y. Mão thì cười hô hố. Hộ không cười, mặt căng lên vì hứng khởi. Hắn nói say sưa lắm. Và đến lúc đèn phố bật, Trung và Mão muốn về, Hộ bảo luôn:
– Thong thả đã! Đi đâu mà vội? Chúng mình đi uống rượu... Tôi có tiền...
Sáng hôm sau. Hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. Hắn thấy mình mẩy đau như dần, đầu nặng, miệng khô và đắng. Cổ thì ráo và rát cháy. Hắn đưa tay với ấm nước ở trên bàn để uống. Ấm nước đầy và nước hãy còn ấm. Đó là sự ý tứ của Từ. Hộ hiểu thế, và lòng buồn nao nao. Bởi hắn lờ mờ nhớ ra rằng: hình như đêm qua hắn say rượu, đi la cà chán rồi về, lại gây sự với Từ; hình như hắn lại đánh cả Từ, đuổi Từ đi, rồi mới đóng cửa lại và đi ngủ... Hắn đột nhiên hoảng sợ, nhổm dậy, mắt nhớn nhác tìm Từ. Nhưng không! Từ vẫn còn nhà... Chắc hẳn trong lúc quá say, hắn gài cửa nhưng chưa gài được, thành thử khi thấy hắn ngủ mệt rồi, Từ lại bế con vào. Bây giờ Từ đang thiếp đi trên võng, đứa con nhỏ nằm bên. Từ vốn dậy sớm quen. Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ trưa như thế. Đầu Từ ngoẹo về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống, cái bàn tay hơi xoè ra lỏng lẻo. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi ngùi. Chao ôi! Trông Từ nằm thật đáng thương! Hèn chi mà Từ khổ cả một đời người! Cái tướng vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ. Hộ nhớ ra rằng: một đôi lúc, nếu nhìn kĩ thì Từ khó mặt lắm. Đột nhiên Hộ nảy ra ý muốn lại gần Từ, nhìn kĩ xem mặt Từ lúc bấy giờ ra sao? Hắn rón rén, đi chân không lại. Hắn ngồi xổm ngay xuống đất, bên cạnh võng và cố thở cho thật khẽ. Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lắm. Da mặt Từ xanh nhợt; môi nhợt nhạt; mi mắt hơi tim tím và chung quanh mắt có quầng, đôi má đã hơi hóp lại khiến mặt hơi có cạnh. Hộ khẽ thở dài và lắc đầu ái ngại. Hắn dịu dàng nắm lấy tay sẽ xuống của Từ. Cái bàn tay lủng củng rặt những xương! Trên mu bàn tay, những đường gân xanh bóng ra, làn da mỏng và xanh trong, xanh lọc. Cái cổ tay mỏng manh. Tất cả lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì ẻo lả, cần được hắn che chở và bênh vực... Một vẻ bạc mệnh, một cái gì đau khổ và chật vật, cần được hắn vỗ về an ủi... Thế mà hắn đã làm gì để cho đời Từ đỡ khổ hơn? Hắn đã làm gì để cho Từ khỏi khổ? Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc... Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc. Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực mình mà khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ nhàng níu hắn vào, để hắn gục đầu lên cạnh ngực Từ. Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng khóc: [4]
– Anh... anh... chỉ là một thằng... khốn nạn!...
– Không!... Anh chỉ là một người khổ sở!... Chính vì em mà anh khổ...
Từ bảo thế. Tay Từ níu mạnh hơn một chút. Ngực Từ thổn thức. Từ chực ngả đầu sát vào vai Hộ. Nhưng đứa con, bị giằng, khóc thét lên. Từ vội buông chồng ra để vỗ con. Tiếng vẫn còn ướt lệ, Từ dỗ nó:
A! Mợ đây! Mợ đây mà! Ôi chao! Con tôi nó giật mình... Mợ thương.
Hộ đã tránh chỗ để Từ đưa võng... Từ vừa đưa vừa hát:
Ai làm cho gió lên giời,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;
Ai làm Nam, Bắc phân kì,
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân...
(Đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy số 490 (4/12/1943)
(Trích trong Tuyển tập Nam Cao, tập 2, NXB Văn học 1993, tr. 5 –17)
Tóm tắt các sự kiện được kể trong văn bản; nhận xét về cách đặt nhan đề của văn bản.