Bài tập Viết bài văn phân tích đặc điểm nhân vật trong một tác phẩm văn học có đáp án

27 người thi tuần này 4.6 828 lượt thi 5 câu hỏi

🔥 Đề thi HOT:

10034 người thi tuần này

Đề kiểm tra Học kì 1 Văn 7 Cánh diều có đáp án (đề 4)

38.7 K lượt thi 11 câu hỏi
5165 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Cánh diều có đáp án (Đề 5)

27 K lượt thi 11 câu hỏi
4913 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 2)

37.3 K lượt thi 6 câu hỏi
4040 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 5)

36.4 K lượt thi 5 câu hỏi
2669 người thi tuần này

Đề thi cuối học kì 1 Văn 7 CTST có đáp án (đề 6)

22.3 K lượt thi 11 câu hỏi
2612 người thi tuần này

Đề kiểm tra Học kì 1 Văn 7 Cánh diều có đáp án (đề 2)

31.3 K lượt thi 10 câu hỏi
2289 người thi tuần này

Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 7 Cánh diều có đáp án (Đề 8)

12.1 K lượt thi 11 câu hỏi
1712 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 4)

34.1 K lượt thi 11 câu hỏi

Nội dung liên quan:

Danh sách câu hỏi:

Lời giải

a) Tìm ý

Hồ sơ nhân vật:

Cách miêu tả nhân vật

Chi tiết trong tác phẩm

Suy luận của em về nhân vật

Hành động

 

- Bố trồng nhiều hoa, bố làm cho “tôi” cái bình tưới nhỏ bằng thùng sơn, hai bố con cùng nhau tưới hoa.

- Rồi bố yêu cầu con nhắm mắt, sờ và đoán các loài hoa trong vườn.

- Giấu cục kẹo

- Lấy thước đo

- Cứu thằng Tí

- Giảng giải về món quà…

=> Là một người cẩn thận tỉ mỉ, yêu thiên nhiên, yêu thương với đứa con và có phương pháp giáo dục hiện đại (dạy con thông qua thực hành)

=> Người bố luôn theo dõi, động viên, khích lệ để đứa con tiến bộ hơn.

Ngôn ngữ

 

- Xưng hô: bố- con:

+ Bố thấy con hé mắt

+ Phen này con đoán đúng hết thôi!...

- Bố là người sống tình cảm.

Mối quan hệ với các nhân vật khác

-Tí hay đem cho bố những trái ổi ngon nhất.

 

- Là người sống thân thiện gần gũi với mọi người xung quanh.

Lời người kể chuyện nhận xét trực tiếp về nhân vật

- Bố cười khà khà khen tiến bộ lắm. - Bố tôi bơi giỏi lắm.

 

- Là một người đảm đang, tài giỏi.

 

b) Lập dàn ý

Dàn ý

- Mở bài: Giới thiệu tác phẩm văn học và nhân vật; nêu khái quát ấn tượng về nhân vật.

- Thân bài: Phân tích đặc điểm của nhân vật (chỉ ra đặc điểm của nhân vật dựa trên các bằng chứng trong tác phẩm và nhận xét, đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn,...).

+ Ý 1: Hành động, cử chỉ của nhân vật.

+ Ý 2: Nội tâm, ngôn ngữ của nhân vật.

+ Ý 3: Mối quan hệ của nhân vật với các nhân vật khác.

- Kết bài: Nêu ấn tượng và đánh giá về nhân vật.

c) Viết bài

Bài viết tham khảo

Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ là một trong số ít những tác phẩm viết về tình cha con. Trong truyện này, tác giả xây dựng một vài nhân vật: người con, người cha, thằng Tí, bà Sáu… Nhưng với tôi, người để lại nhiều ấn tượng hơn cả là nhân vật người cha.

Nhân vật người cha xuất hiện song hành cùng người con và xuyên suốt câu chuyện. Trong mắt người con, cha hiện lên là một người đảm đang, gần gũi với con “bố trồng nhiều hoa, bố làm cho “tôi” cái bình tưới nhỏ bằng thùng sơn, hai bố con cùng nhau tưới hoa”. Không chỉ có vậy, bố còn là người có cách giáo dục đặc biệt. Bố không dạy lí thuyết sách vở chung chung mà dạy con mọi thứ bằng thực hành, hướng dẫn con để con tự cảm nhận. Hàng ngày bố yêu cầu con nhắm mắt, sờ và đoán các loài hoa trong vườn. Ban đầu chưa quen, con chỉ đoán được một hai loại, dần dà con đã đoán được hết các loài hoa trong vườn của bố, hơn thế nữa con còn thuộc hết khu vườn, vừa nhắm mắt vừa đi mà không chạm phải một vật gì. Bài sờ hoa đoán đã thuộc, người cha tăng độ khó lên, lần này cha cho con ngửi mùi các loài hoa và đoán tên. Trò chơi của bố được lặp lại cho đến khi người con thuộc hết các loài hoa trong vườn thì thôi. Như vậy người đọc không chỉ thấy được phương pháp giáo dục hiện đại của người cha mà còn thấy được sự tỉ mỉ, ân cần trong cách dạy con, thấy được tình yêu thiên nhiên, trân trọng những điều giản dị nhất của người cha.

Bên cạnh đó, thông qua việc giảng giải cho người con về món quà, về sự huyền diệu của tên gọi người đọc còn thấy đây là một người cha sống tình cảm và có hiểu biết rộng. Khi biết con thích gọi tên thằng Tí, người cha đã lí giải cho con “mỗi cái tên là một âm thanh tuyệt diệu. Người càng thân với mình bao nhiêu thì âm thanh đó càng tuyệt diệu bấy nhiêu”. Rồi khi thằng Tí đem cho ổi, mặc dù cha không thích ăn những vẫn ăn ổi nó tặng, người con thắc mắc “sao bố kính trọng nó quá vậy”. Người bố trả lời người con chân thành “bố không cưỡng lại được trước món quà. Một món quà bao giờ cũng đẹp. Khi ta nhận hay cho một món quà, ta cũng đẹp lây vì món quà đó”. Câu nói của nhân vật bố có thể hiểu: món quà chính là tình cảm, tấm lòng của người tặng đã gửi gắm vào đó nên món quà dù lớn hay nhỏ đều đẹp. Cách chúng ta nhận, trân trọng món quà của người tặng cũng thể hiện nét đẹp của chính mình.. Qua đây chúng ta cảm nhận được tình cảm cha con gắn bó tha thiết, người cha đã thể hiện tình yêu thương với đứa con thông qua những bài học sâu sắc từ cuộc sống, biết yêu thương, lắng nghe và thấu hiểu từ thiên nhiên, biết trân trọng mọi thứ xung quanh mình.

Nhân vật người cha được khắc họa qua hành động, cử chỉ, lời nói, cảm xúc, suy nghĩ và qua mối quan hệ với những nhân vật khác (thằng Tí, bà Sáu, hàng xóm…). Khi khắc họa nhân vật người cha, tác giả sáng tạo nhiều chi tiết có giá trị biểu hiện đặc sắc như: người cha nhảy xuống cứu thằng Tí, cầm hai chân dốc ngược; …. Tác giả lựa chọn ngôi kể thứ nhất với điểm nhìn là người con kể về người cha khiến cho câu chuyện được kể hấp dẫn, hồn nhiên và người con dễ dàng bộc lộ được tình cảm, cảm xúc của mình với cha, ví như “bố cười khà khà khen tiến bộ lắm, bố tôi bơi giỏi lắm”…

Xây dựng nhân vật người cha song hành cùng người con không chỉ giúp người đọc thấy được mối quan hệ cha con, tình cảm cha con trong gia đình mà tác giả còn cho người đọc thấy bài học bổ ích về phương pháp giáo dục hiện đại: học bằng thực hành. Đồng thời cũng nhắn nhủ tới các bậc làm cha làm mẹ hãy yêu thương con cái, tạo cho con môi trường lành mạnh, gần gũi chan hòa với thiên nhiên. Thời buổi công nghệ số, con trẻ xem, chơi điện thoại, ipad quá nhiều, vì thế gần gũi giao hòa, cảm nhận thiên nhiên là điều hết sức cần thiết.

Nhân vật người cha để lại trong lòng tôi rất nhiều ấn tượng đẹp, đó không chỉ là tình cảm chân thành với người con mà còn là cách chơi, cách dạy con, cách giảng giải cho con về tất cả những điều mà con khúc mắc. Thầm nghĩ, sau này tôi cũng sẽ hướng dẫn và gần gũi con cái của mình giống như người cha trong câu chuyện Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ.

d) Chỉnh sửa bài viết

Rà soát, chỉnh sửa bài viết của em theo những gợi ý trong bảng sau:

Yêu cầu

Gợi ý chỉnh sửa

- Giới thiệu được nhân vật trong tác phẩm văn học.

 

- Chỉ ra được đặc điểm của nhân vật dựa trên các bằng chứng trong tác phẩm.

 

 

 

 

- Nhận xét được nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn

 

 

- Nêu được ý nghĩa của hình tượng nhân vật

 

 

 

- Bảo đảm yêu cầu về chính tả và diễn đạt.

- Nếu chưa giới thiệu được nhân vật hãy viết một vài câu giới thiệu nhân vật em sẽ phân tích.

- Gạch dưới những nhận xét, đánh giá của em 1 về nhân vật. Nếu chưa đầy đủ, cần bổ sung.

Vẽ đường lượn dưới các bằng chứng được trích dẫn trong tác phẩm. Nếu chưa có hoặc chưa thuyết phục thì cần bổ sung

- Đánh dấu những câu văn nhận xét, đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nếu chưa có hoặc chưa đủ thì cần viết thêm.

- Đánh dấu câu văn nêu ý nghĩa của hình tượng nhân vật. Nếu chưa có, hãy viết một vài câu nêu ý nghĩa của hình tượng nhân vật

- Rà soát lỗi chính tả và diễn đạt (dùng từ, đặt câu, liên kết câu, liên kết đoạn,..). Chỉnh sửa nếu phát hiện lỗi.

Lời giải

Dàn ý Phân tích nhân vật Mên, Mon trong Bầy chim chìa vôi

- Mở bài: Giới thiệu tác phẩm văn học và nhân vật; nêu khái quát ấn tượng về nhân vật.

- Thân bài: Phân tích đặc điểm của nhân vật

+ Nhân vật đó xuất hiện như thế nào? 

+ Các chi tiết miêu tả hành động của nhân vật đó.

+ Ngôn ngữ của nhân vật

+ Những cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật như thế nào?

+ Mối quan hệ của nhân vật đó với các nhân vật khác

- Kết bài: Nêu ấn tượng và đánh gái về nhân vật.

Phân tích nhân vật Mên, Mon trong Bầy chim chìa vôi (mẫu 1)

Bầy chim chìa vôi” là một trong những truyện ngắn vô cùng ý nghĩa dành cho mọi lứa tuổi, đặc biệt là thanh thiếu niên. Nhà văn Nguyễn Quang Thiều khi đăng tải truyện ngắn đã nhắn nhủ: “Hy vọng những cậu bé, cô bé – những công dân tương lai của chúng ta mang một tấm lòng nhân ái để bảo vệ thế gian này đang bị chính người lớn chúng ta tàn phá.” Đây cũng chính là điều mà hai nhân vật chính Mon và Mên trong câu chuyện đã làm được. Hai cậu bé cho người đọc một cảm giác gần gũi, nhẹ nhàng, vừa dũng cảm, đáng yêu.

          “Bầy chim chìa vôi” là tác phẩm truyện ngắn kể về hai cậu bé Mon và Mên cùng những suy nghĩ, hành động bảo vệ tổ chim chìa vôi trong đêm bão, câu chuyện được kể theo ngôi thứ ba thú vị, hấp dẫn, cùng với nghệ thuật miêu tả nhân vật qua lời đối thoại đặc sắc đã làm nổi bật lên hình ảnh hai cậu bé Mon và Mên vừa dễ thương, vừa giàu lòng nhân ái.

          Mở đầu câu chuyện là khoảng thời gian đêm khuya với sự trằn trọc của hai cậu bé. Mon tuy là em trai, nhưng cậu bé lại chính là người bắt đầu những câu hỏi thể hiện sự lo lắng về tổ chim chìa vôi. Cậu bé liên tục hỏi anh Mên: “Anh ơi… em bảo…”, sau đó là hàng loạt những câu hỏi thắc mắc về tổ chim chìa vôi: “Thế bãi cát giữa sông đã ngập chưa?”; “Thế anh bảo chúng có bơi được không?”; “Sao nó lại không làm tổ trên bờ hả anh?”; “Thế làm thế nào bây giờ?”… Liên tục những câu hỏi lặp lại cho thấy suy nghĩ non nớt nhưng vô cùng lo lắng cho tổ chim chìa vôi ở bãi cát giữa sông. “Những con chim chìa vôi non bị chết đuối mất”. Thậm chí, có thể do quá lo lắng, em Mon còn đặt ra thắc mắc tại sao những chú chim chìa vôi lại làm tổ trên bãi cát giữa sông như vậy? Tại sao chúng không lựa một nơi an toàn, cao và khô ráo hơn, để chúng an toàn trong đêm mưa bão, và cũng để cho hai anh em Mon và Mên bớt lo lắng, suy nghĩ về sự an toàn của bầy chim.

          Sau một hồi xoay mình qua lại, thì thầm khó ngủ, cố gắng suy nghĩ sang chuyện khác thì Mon vẫn không thể ngủ được, bèn thủ thỉ với anh mình, ngập ngừng gọi “anh ơi…” rồi đưa ra quyết định rằng “mình phải đem chúng vào bờ, anh ạ”. Đây là một quyết định quả quyết, thể hiện Mon là một cậu bé mạnh mẽ, quá quyết, không thể bỏ rơi tổ chim chìa vôi trong đêm nước sông đang lên, từ những lo lắng đã biến thành quyết định. Quyết định đi cứu những chú chim non không đến từ anh Mên mà lại đến từ chính Mon, đây là điều thể hiện sự dũng cảm, nhân hậu và lòng quyết tâm của Mon.

          Trái ngược với sự quan tâm trực tiếp từ Mon, anh trai của cậu bé – Mên lại có một cách lo lắng kín đáo hơn, tuy có chút cọc cằn nhưng lại vô cùng ấm áp. Khi em trai trằn trọc giữa đêm không ngủ, thực chất anh Mên cũng chưa ngủ được, cũng vì thế nên cậu bé mới trả lời em trai một cách tỉnh táo và ráo hoảnh tới vậy. Thay vì lo lắng trực tiếp và liên tục đặt ra câu hỏi, Mên lại đáp lại em trai một cách cục cằn: “Gì đấy? Mày không ngủ à?...”; “Bảo cái gì mà lắm thế?” hay “Tao không biết”. Dẫu vậy, anh Mên cũng bày tỏ nỗi lo lắng “Ừ nhỉ”, “Tao cũng sợ”. Để nỗi lo lắng qua đi, Mon và Mên đã nghĩ đến câu chuyện bắt cá cùng bố, cười “hi hi” khi nghe em Mon kể trò nghịch ngợm, nhưng dường như hai cậu bé vẫn không yên tâm chìm vào giấc ngủ. Khi em Mon nhắc lại một lần nữa: “Tổ chim sẽ bị chìm mất”, Mên im lặng nhưng một lúc sau hỏi lại: Thế làm thế nào bây giờ?, cuối cùng im lặng một phút sau khi em trai đưa ra quyết định đi cứu tổ chim, đưa ra câu hỏi “Đi bây giờ à?”. Đây không phải một câu hỏi thể hiện sự chần chừ của Mên mà chỉ là một lời nói giúp em trai Mon chắc chắn về quyết định của mình, chắc chắn hai anh em sẽ đi cùng nhau. Điều này cho thấy Mên là một người anh cọc cằn, hay tỏ ra gắt gỏng với em trai nhưng cũng có một tấm lòng ấm áp, nhân hậu, sự quan tâm của cậu bé thể hiện qua suy nghĩ và hành động chứ không qua lời nói.

          Hai anh em sau thời gian rạng sáng vật lộn trên bờ sông với chiếc đò, cuối cùng đã đưa con đò về vị trí cũ, trời đã “tang tảng sáng”. Khung cảnh bình minh hiện lên với vẻ đẹp lạ kì cùng nhiều cảm xúc. Hai đứa trẻ chạy ngược lên đoạn bờ sông dối diện với dải cát, trong khi Mon tò mò về dải cát đã bị nhấn chìm hay chưa, thì anh Mên ngồi thụp xuống, căng mắt nhìn sát mặt sông. Thật may, bãi cát chưa bị nước nhấn chìm hết. Bình minh đã đủ sáng để soi rõ những hạt mưa trên mặt sông, con nước bắt đầu dần lên và nuốt chửng dải cát. Trong những giây cuối cùng, bầy chim chìa vôi non cất cánh bay lên không trung tạo nên một “cảnh tượng như huyền thoại” trong mắt hai đứa trẻ. Đây là thời điểm chín muồi, chim non đủ cứng cáp và ý thức được sự nguy hiểm của dòng nước sắp nuốt chửng chúng, cũng là thời điểm mà trong lòng hai anh em Mon và Mên trào lên cảm giác hạnh phúc, thành tựu và hạnh phúc khó tả. Hai anh em đứng không nhúc nhích, gương mặt tái nhợt vì nước mưa nhưng đã hửng lên ánh mặt trời ấm áp, hạnh phúc. Hai anh em quay lại nhìn nhau, đã khóc từ bao giờ.

Hai anh em Mon và Mên đều là những cậu bé dũng cảm, nhân hậu nhưng cũng vô cùng trong sáng, đáng yêu. Khung cảnh bầy chim chìa vôi bay lên từ bãi cát giữa sông đã tác động đến cảm xúc của hai đứa trẻ, đó là một cảnh đẹp, kì diệu và gỡ bỏ bao nhiêu lo lắng, bất an của hai anh em.

Qua hai nhân vật Mon và Mên, chúng ta càng thấy rõ hơn những phẩm chất tốt đẹp mà bất cứ thiếu niên nào cũng nên có: nhân hậu, dũng cảm, biết yêu thương loài vật, con người. Là một thiếu niên, hãy cùng nhau nuôi dưỡng và phát triển những phẩm chất tốt đẹp của mình, để có thể giống như mong muốn của tác giả: những công dân tương lai của chúng ta mang một tấm lòng nhân ái để bảo vệ từng thứ nhỏ bé nhất trên thế giới này.

Phân tích nhân vật Mên, Mon trong Bầy chim chìa vôi (mẫu 2)

“Bầy chim chìa vôi” là một truyện ngắn vô cùng đáng yêu, trong sáng nói lên tình cảm thương yêu vạn vật của 2 đứa trẻ. Chúng, hai anh em Mon và Mên biết quan tâm, lo lắng cho số phận của những chú chim chìa vôi ở bãi cát giữa sông. Hạnh phúc khi thấy bầy chim non an toàn bay vào bờ. Sau khi đọc tác phẩm này của nhà văn Nguyễn Quang Thiều, em cảm nhận được những nét đẹp trong tâm hồn hai bạn nhỏ mà bất cứ người trẻ nào cũng có thể nhìn thấy mình và học tập được nhiều điều trong đó.

Truyện ngắn bắt đầu từ cuộc hội thoại và suy nghĩ của hai anh em Mên và Mon về tổ chìa vôi có thể bị nước sông nhấn chìm. Với tấm lòng nhân hậu, hai anh em quyết định đi tới sông ngay trong đêm mưa. Tận mắt nhìn thấy những chú chim non bay lên từ bãi cát giữa sông vào lúc bình minh, trong lòng hai anh em trào lên sự vui vẻ, cảm động khó tả.

Câu chuyện được kể theo ngôi thứ ba thú vị, hấp dẫn, cùng nghệ thuật miêu tả nhân vật qua lời đối thoại đặc sắc, ngôn ngữ gần gũi giúp cho những lời đối thoại của các nhân vật được thể hiện một cách chân thực, sinh động… cũng nhờ đó mà việc cảm nhận và hình dung hai nhân vật Mon và Mên từ người đọc trở nên thú vị, chân thực và đặc biệt hơn.

Giữa đêm mưa, Mon và Mên đều khó ngủ, lí do bắt nguồn từ sự lo lắng nước sông dâng cao ngập bãi sông, hai anh lo lắng cho những chú chim chìa vôi non sẽ bị chết đuối. Dễ nhận thấy, em Mon là một cậu bé với tấm lòng nhân hậu liên tục nhắc về tổ chim và hỏi anh trai của mình – anh Mên về những câu hỏi cả hai không có lời đáp. Có lẽ, những câu hỏi trên với chi tiết “anh bảo…” được lặp đi lặp lại 4 lần đi kèm với các dữ kiện: mưa to không, nước sông lên có to không, bãi cát giữa sông đã ngập chưa, những con chìa vôi… không nhằm mục đích nhận được câu trả lời, em Mon hỏi vì muốn giải tỏa nỗi lo lắng về bầy chim, anh Mên cũng không có câu trả lời mà chỉ cọc cằn đáp lại, để cuối cùng dẫn đến quyết định hai anh em sẽ đi “cứu” bầy chim, mang chúng vào bờ.

Lí do có sự lo lắng này đến từ thói quen làm tổ và đẻ trứng của bầy chim chìa vôi ở bãi sông quê. Vào mùa cạn, những đám rong héo dần làm thành một lớp đệm trên cát, những con chim chìa vôi bay ra bãi cát đẻ trứng, đây chính là bản năng sẵn có của bầy chim. Mon và Mên tuy đã cố gắng chìm vào giấc ngủ, nhưng những suy nghĩ miên man của Mon cùng với những câu hỏi ngập ngừng khiến hai đứa trẻ không ngừng suy nghĩ. Tuy không trực tiếp lo lắng như Mon, nhưng anh Mên vẫn có cách quan tâm của riêng mình. Mỗi lần em hỏi, Mên đều trả lời ráo hoảnh như vẫn luôn thức, trả lời em đầy gắt gỏng nhưng bên trong cậu bé lại suy nghĩ, thầm lo lắng cho những chú chim chìa vôi non đến mức nằm im những không ngủ. Vì vậy, nếu như Mon là một cậu bé mạnh mẽ, quá quyết, không thể bỏ rơi tổ chim chìa vôi trong đêm nước sông đang lên, từ những lo lắng đã biến thành quyết định đi cứu tổ chim trong đêm mưa, thì Mên là một người anh cọc cằn, hay tỏ ra gắt gỏng với em trai nhưng cũng có một tấm lòng ấm áp, nhân hậu, sự quan tâm của cậu bé thể hiện qua suy nghĩ và hành động chứ không qua lời nói.

Sau khi trải qua cả đêm vật lộn, bình minh đã đến, hai anh em cũng đã tới bãi sông. Khung cảnh bình minh hiện ra đẹp kì diệu, ánh bình minh rọi sáng những hạt mưa trên mặt sông thì một cảnh tượng như huyền thoại hiện ra, từ mặt nước những cánh chim bé bỏng và ướt át đột ngột bứt khỏi dòng nước khổng lồ bay lên. Cuộc cất cánh của bầy chim chìa vôi non xảy ra một cách bất ngờ và ngoạn mục, khiến hai anh em im lặng, hai đứa đứng không nhúc nhích, xúc động đến phát khóc khi thấy bầy chim non bay lên và hạ cánh an toàn bên một lùm dứa dại bờ sông. Đây là một khung cảnh vô cùng cảm động trong mắt hai bạn nhỏ, bởi với những chú chim, bầy chim non thực hiện xong chuyến bay đầu tiên, quan trọng trong cuộc đời của chúng, còn với Mon và Mên, đây là khung cảnh vỡ òa sau bao lo lắng, bất an của hai anh em. Qua đây chúng ta thấy được tâm hồn trẻ thơ nhạy cảm, trong sáng, giàu tình yêu thương của 2 đứa trẻ dành cho những chú chú chim chìa vôi bé nhỏ.  Qua truyện ngắn “Bầy chim chìa vôi”, ta cảm nhận được những điều ý nghĩa từ những câu chuyện nhỏ, thấy được sự ngây thơ nhưng vô cùng nhân hậu, sự quyết tâm và dũng cảm của hai bạn nhỏ, đây cũng là một điều mà chúng ta, thậm chí là những người lớn vẫn còn phải học, phải yêu.

Phân tích nhân vật Mên, Mon trong Bầy chim chìa vôi (mẫu 3)

          Nhà văn Nguyễn Quang Thiều luôn được đánh giá là cây bút đa năng là sung sức, xuất hiện thường xuyên trên văn đàn, báo chí. Bên cạnh thơ, tiểu luận, dịch thuật, Nguyễn Quang Thiều sáng tác khá nhiều tác phẩm cho thiếu nhi, trong đó phải kể đến truyện ngắn “Bầy chim chìa vôi” mà em đã được đọc và tìm hiểu. Qua tác phẩm, em vô cùng ấn tượng về hai nhân vật Mon và Mên, từ những câu nói, hành động của hai bạn nhỏ, em cảm nhận được nhiều điều thú vị, ý nghĩa.

“Bầy chim chìa vôi” kể về tâm trạng của hai anh em Mên và Mon trong đêm mưa lũ kéo đến. Chúng lo lắng khi cơn mưa to kéo đến bầy chim chìa vôi non ở trên dải cát giữa bãi sông sẽ bị nước lũ nhấn chìm. Vì vậy, hai anh em Mên và Mon quyết định chèo đò ra sông vào giữa đêm để cứu giúp, mang bầy chim non vào bờ. Khi đến nơi, hai anh em nhìn thấy những cánh chim bé bỏng và ướt át đột ngột bứt khỏi dòng nước bay lên, tạo nên một dòng cảm xúc khó tả, cảm động bất ngờ trong lòng hai bạn nhỏ.

Đọc truyện ngắn, ta dễ nhận thấy dù là em nhỏ, nhưng Mon có những suy nghĩ, lo lắng xuất phát từ một cậu bé tốt bụng, biết quan sát, lanh lợi và đáng yêu. Cậu bé không thể chìm vào giấc ngủ vì lo cho những chú chim có thể bị dòng nước sông trong đêm mưa cuốn trôi, liên tục đặt cho anh những câu hỏi với chi tiết lặp lại: “anh bào…” đi kèm với các dữ kiện: mưa to không, nước sông lên có to không, bãi cát giữa sông đã ngập chưa, những con chìa vôi… Dù Mon đã tự nghĩ sang những câu chuyện vui vẻ khác, nhưng dường như tất cả chúng vẫn hướng suy nghĩ của em tới bầy chim chìa vôi trên sông, em rất lo tổ chim chìa vôi ở bãi cát giữa sông. “Những con chim chìa vôi non bị chết đuối mất”.

Nghĩ vậy, sự ngập ngừng đã dần trở nên quyết đoán, khiến Mon đưa ra đề xuất với anh Mên: “Hay mình mang chúng nó vào bờ?” và dần tự thành một câu nói khẳng định, quả quyết: “Mình phải đem chúng nó vào bờ, anh ạ”. Mon là một cậu bé mạnh mẽ, quả quyết, không thể bỏ rơi tổ chim chìa vôi trong đêm nước sông đang lên, từ những lo lắng đã biến thành quyết định. Quyết định đi cứu những chú chim non không đến từ anh Mên mà lại đến từ chính Mon điều này thể hiện sự dũng cảm, nhân hậu và lòng quyết tâm của Mon.

Người anh trai Mên xuất hiện trong truyện ngắn khá yên tĩnh, có phần cọc cằn và gắt gỏng, nhưng dường như bên trong đó lại là một cậu bé biết suy nghĩ, ấm áp và giàu lòng nhân hậu. Dễ dàng nhận thấy, tuy không đặt ra nhiều câu hỏi như em Mon, nhưng Mên vẫn trả lời những câu hỏi đó bằng một thái độ tỉnh táo, hóa ra cậu bé cũng không ngủ được, có lẽ vì cơn mưa, mà nhiều phần hơn có lẽ đến từ những lo lắng cho những chú chim ngoài dải cát. Mên cũng nằm im, cố đưa mình vào giấc ngủ, nhưng khi em Mon nhắc lại một lần nữa: “Tổ chim sẽ bị chìm mất”, Mên im lặng nhưng một lúc sau hỏi lại: Thế làm thế nào bây giờ? Mên là một cậu bé có một trái tim ấm áp ẩn sâu bên trong những lời nói có phần cục cằn, cáu kỉnh. Im lặng một phút sau khi em trai đưa ra quyết định đi cứu tổ chim, đưa ra câu hỏi “Đi bây giờ à?”, đây không phải một câu hỏi thể hiện sự chần chừ của Mên mà chỉ là một lời nói giúp em trai Mon chắc chắn về quyết định của mình, chắc chắn hai anh em sẽ đi cùng nhau.

          Trải qua khoảng thời gian vật lộn trên sông cùng con đò, Mon và Mên đã đến được khu vực chim chìa vôi làm tổ, lúc này bình minh cũng bắt đầu ló rạng. Hai đứa trẻ chạy ngược lên đoạn bờ sông dối diện với dải cát, Mon thì tò mò về dải cát đã bị nhấn chìm hay chưa, anh Mên thì ngồi thụp xuống, căng mắt nhìn sát mặt sông, đến khi thấy trời sáng đủ để thấy bãi cát chưa bị nước ngập đến, hai anh em mới reo lên vì mừng rỡ. Lúc này, những chú chim chìa vôi non bắt đầu vỗ cánh bay lên không trung, những cánh chim đột ngột và ướt át đột ngột bứt khỏi dòng nước khổng lồ bay lên như huyền thoại trong mắt hai đứa trẻ. Hai anh em Mon và Mên im lặng chứng kiến cảnh này, trên gương mặt tái nhợt vì nước mưa lại hửng lên ánh ngày, trong lòng cũng từ đó mà dâng lên sự ấm áp, hạnh phúc. Mên lặng lẽ quay lại nhìn em, hai anh em nhận ra mình đã khóc, chúng thắc mắc vì sao lại khóc nhưng đều không thể lí giải được. Có lẽ đó là nước mắt của hạnh phúc, của niềm mong mỏi được đền đáp, hoặc chỉ đơn giản là giọt nước mắt cảm động vì bầy chim con. Nhưng tất cả những lí do đó đều thể hiện được cho người đọc sự ngây thơ, trong sáng, đáng yêu và đáng quý của hai anh em Mon và Mên.

          Hai anh em Mon và Mên đều là những cậu bé dũng cảm, nhân hậu nhưng cũng vô cùng trong sáng, đáng yêu. Khung cảnh bầy chim chìa vôi bay lên từ bãi cát giữa sông đã tác động đến cảm xúc của hai đứa trẻ, đó là một cảnh đẹp, kì diệu và gỡ bỏ bao nhiêu lo lắng, chằn chọc của hai anh em, cũng chính là điều làm nên cái hay, cái đẹp của tác phẩm.

Phân tích nhân vật Mên, Mon trong Bầy chim chìa vôi (mẫu 4)

 Đọc đoạn trích “Bầy chim chìa vôi”, ta thấy một nhân vật Mon sống tình cảm, biết yêu thương và quan tâm đến mọi thứ xung quanh. Qua sự việc mưa to, nước dâng cao ngoài bãi sông đã bộc lộ tính cách yêu thương động vật của Mon. Sự lo lắng của em được thể hiện rõ nhất thông qua cuộc trò chuyện với anh Mên: “Thế cái bãi cát đã ngập chưa?”, “Em sợ những com chim chìa vôi non bị chết đuối mất” và em đã mất ngủ vì lo lắng cho những chú chim. Tình yêu động vật của em cũng được bộc lộ qua việc em lấy trộm con cá của bố rồi thả nó xuống sông, rủ anh Mên mang tổ chim vào bờ. Như vậy, Mon là cậu bé sống tình cảm, có tình yêu thương sâu sắc với động vật và thế giới tự nhiên.

Phân tích nhân vật Mên, Mon trong Bầy chim chìa vôi (mẫu 5)

      Mon là một cậu bé trong sáng, đáng yêu và đặc biệt là có tình yêu thương động vật sâu sắc. Em đã lo lắng đến mất ngủ khi thấy trời mưa to, nước dâng cao sẽ khiến tổ chim chìa vôi bị ngập. Em cứ hỏi đi hỏi lại anh Mên rằng “Thế anh bảo…mưa có to không?... Nước sông lên có to không?… Cái bãi giữa sông đã ngập chưa?...”. Dù chỉ là những chú chim ngoài thiên nhiên nhưng em vẫn quan tâm đến chúng, lo lắng cho sự sống của chúng “Em sợ những con chim chìa vôi non bị chết mất”. Tình yêu thương động vật của em không chỉ thể hiện qua lời nói mà còn được thể hiện bằng hành động. Chi tiết em lấy trộm con cá của bố rồi thả nó xuống sống, trả nó về với tự do, rồi chi tiết em rủ anh Mên đi cứu tổ chim chìa vôi vào bờ. Qua đoạn trích “Bầy chim chìa vôi”, ta thấy một cậu bé Mon sống tình cảm, yêu thương và quan tâm đến mọi thứ xung quanh, đặc biệt là tình yêu dành cho thiên nhiên, động vật.

Phân tích nhân vật Mên, Mon trong Bầy chim chìa vôi (mẫu 6)

Nguyễn Quang Thiều là một nhà văn có nhiều sáng tác viết cho thiếu nhi. Một trong số đó là truyện ngắn “Bầy chim chìa vôi”. Nổi bật trong truyện là nhân vật Mon - một cậu bé tốt bụng.

“Bầy chim chìa vôi” xoay quanh câu chuyện của hai nhân vật là Mon và Mên. Khoảng hai giờ sáng, Mon tỉnh giấc, rồi quay sang gọi Mên. Cậu cảm thấy lo lắng cho bầy chim chìa vôi làm tổ ở ngoài bãi sông. Mưa lớn khiến tổ chim chìa vôi ở dải cát giữa sông dần bị nhấn chìm. Sau một lúc trò chuyện, cả hai quyết định sẽ ra đưa bầy chim vào bờ. Từ chiều qua, nước đã dâng lên nhanh hơn. Nước dâng lên đến đâu, chim bố và chim mẹ lại dẫn bầy con tránh nước đến đó. Cứ thế, chúng tiến đến phần cao nhất của dải cát. Đến sáng, bầy chim đã bứt khỏi dòng nước, bay lên cao. Tấm thân của nó vụt ra khỏi mặt nước, bay cao hơn hẳn lần cất cánh đầu tiên. Chứng kiến cảnh đó, Mon và Mên đều cảm thấy hạnh phúc, sung sướng.

Dù chỉ là một đứa trẻ, nhưng Mon đã có suy nghĩ, lo lắng cho đàn chim chìa vôi làm tổ ở ngoài sông. Mon lo lắng những chú chim có thể bị nước sông cuốn trôi. Cậu liên tục đặt câu hỏi cho anh trai: “Anh bảo mưa to không?”, “Nước sông lên có to không?”, “Bãi cát giữa sông đã ngập chưa, bầy chim còn ở đấy không?”. Dù cậu đã tự nghĩ đến những chuyện vui khác, nhưng vẫn nghĩ đến bầy chim: “Những con chim chìa vôi non bị chết đuối mất”.

Điều đó khiến Mon đưa ra đề xuất với anh trai: “Hay mình mang chúng nó vào bờ?” và rồi cậu quả quyết: “Mình phải đem chúng nó vào bờ, anh ạ”. Thế rồi, Mon và Mên cùng nhau ra ngoài bờ sông để Khi nhìn thấy bầy chim đã an toàn, Mon đã khóc khi nhìn thấy bầy chim chìa vôi có thể cất cánh bay lên, đó là giọt nước mắt của hạnh phúc và niềm vui. Mon hiện lên là một cậu bé nhân hậu, giàu tình yêu thương động vật.

Với nhân vật Mon, tác giả đã giúp cho người đọc hiểu được bài học về lòng nhân hậu, cùng với tình yêu thiên nhiên.

Phân tích nhân vật Mên, Mon trong Bầy chim chìa vôi (mẫu 7)

Nguyễn Quang Thiều là một nhà văn nổi tiếng, với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó có truyện ngắn Bầy chim chìa vôi. Trong truyện, nhân vật Mon được khắc họa là một cậu bé giàu tình yêu thương.

Truyện kể về cuộc trò chuyện của hai anh em Mon và Mên. Gần hai giờ sáng, Mon tỉnh dậy. Cơn mưa lớn khiến nước sông dâng nhanh. Cậu lo lắng cho bầy chim chìa vôi làm tổ ở ngoài bãi sông. Sau một hồi trò chuyện, Mon đã đề nghị với Mên sẽ chèo đò ra sông vào giữa đêm để cứu giúp, mang bầy chim non vào bờ. Khi đến nơi, cả hai nhìn thấy những cánh chim bé bỏng và ướt át đột ngột bứt khỏi dòng nước bay lên, tạo nên một dòng cảm xúc khó tả, cảm động bất ngờ trong lòng hai bạn nhỏ.

Nhân vật Mon hiện lên là một cậu bé tốt bụng. Vì lo cho đàn chim chìa vôi, cậu không thể ngủ ngon giấc. Mon tỉnh dậy lúc hai giờ sáng, rồi đánh thức anh trai là Mên đang nằm bên cạnh dậy. Cậu liên tiếp hỏi Mên những câu hỏi như: “Anh bảo mưa to không?”, “Nước sông lên có to không?”, “Bãi cát giữa sông đã ngập chưa, bầy chim còn ở đấy không?”. Liên tục những câu hỏi lặp lại cho thấy sự lo lắng của Mon. Cuối cùng, cậu nói với anh trai: “Em sợ những con chim chìa vôi non bị chết đuối mất”. Dường như vì quá lo lắng, Mon còn hỏi Mên rằng tại sao những chú chim chìa vôi lại làm tổ trên bãi cát giữa sông. Tại sao chúng không lựa một nơi an toàn, cao và khô ráo hơn, để chúng an toàn trong đêm mưa bão.

Mặc dù Mon đã nằm xuống, cố gắng để ngủ lại, nhưng cậu vẫn không thể ngủ được, bèn thủ thỉ với anh mình, ngập ngừng gọi “Anh ơi…” rồi đưa ra quyết định rằng “mình phải đem chúng vào bờ, anh ạ”. Có thể thấy, đây là một quyết định rất quả quyết, thể hiện Mon là một cậu bé mạnh mẽ, quá quyết, không thể bỏ rơi tổ chim chìa vôi trong đêm nước sông đang lên, từ những lo lắng đã biến thành quyết định. Quyết định đi cứu những chú chim non không đến từ người anh trai là Mên mà lại đến từ chính Mon.

Như vậy, qua nhân vật Mon, tác giả đã gửi gắm thông điệp sâu sắc về tình yêu thương, trân trọng dành cho loài vật.

Phân tích nhân vật Mên, Mon trong Bầy chim chìa vôi (mẫu 8)

Nhân vật Mên được miêu tả đầu tiên là thông qua chi tiết nhỏ trong đoạn hội thoại với em trai Mon. Trước câu hỏi của em trai, Mên cũng gắt gỏng bởi thời gian không còn sớm. Đứa em trai lại đặt quá nhiều câu hỏi khiến người anh trai càng mất kiên nhẫn. Tuy vậy, khi nghe tới câu nói, có thể những con chim nhỏ sẽ không vượt qua được, Mên cũng vô cùng lo lắng cho những sinh mạng nhỏ đó. Cuối cùng, vượt qua sự buồn ngủ và khó khăn trong cơn mưa bão, cậu chàng cũng cùng em trai ra bờ sông.

Qua chi tiết này, ta thấy được Mên là một người bên ngoài tuy cứng rắn, thực chất lại là người có tình thương: thương em trai, cũng thương những loài động vật nhỏ. Trong khung cảnh tối tăm, ngoài trời thì mưa không dứt, Mên dũng cảm lao mình ra bên ngoài để cứu tổ chim non. Khi bình minh vừa hé, những chú chim cất cánh rộn ràng, nhân vật chàng trai gắt gỏng ban đầu lại thấy được sự dịu dàng kì lạ. Tâm hồn mong nhanh ấy được thể hiện rõ nhất qua đôi mắt long lanh hướng theo bầy chim nhỏ. Đến đây, người đọc phải thốt lên ngạc nhiên, hóa ra Mên là một người giàu tình thương đến vậy. 

Thông qua những hành động, những cảm xúc nhỏ của nhân vật Mên, tác giả đã thành công khắc họa một cậu chàng tuy hơi cáu gắt nhưng lại biết lắng nghe, giàu tình thương vật, thương người. Lời kể vô cùng chân thực, ngôn từ cũng gần gũi với người đọc. Đặc biệt, những mẩu chuyện vô cùng trong sáng giúp gợi nhớ tuổi thơ, cũng ca ngợi tấm lòng thiện lương bắt đầu từ việc nhỏ nhất của con người.

Phân tích nhân vật Mên, Mon trong Bầy chim chìa vôi (mẫu 9)

Một nhân vật nổi bật khác xuất hiện trong truyện là em trai Mon. Tuy còn nhỏ tuổi, Mon đã có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, lo lắng cho đàn chim chìa vôi nhỏ trong cơn mưa sáng sớm. Cậu sốt ruột, liên tục hỏi anh trai: “Anh bảo mưa to không?”“Nước sông lên có to không?”“Bãi cát giữa sông đã ngập chưa, bầy chim còn ở đấy không?”. Cậu bé vô cùng tốt bụng, lối suy nghĩ vượt qua những đứa trẻ khác cùng tuổi. Cậu bé cứ đến việc những chú chim non sẽ bị nước cuốn trôi mất thì không thể ngủ được, thuyết phục anh trai đem tổ chim vào bờ. Lờ đi thời gian và thời tiết, cậu quả quyết quyết định cùng anh ra bờ sông đưa tổ chim vào bờ. 

Tác giả đã cho người đọc thấy được một cậu bé nhỏ tuổi nhưng lại có tấm lòng hơn bất cứ ai. Những sinh mệnh nhỏ bé cất cánh dưới mặt trời vừa rạng chính là một minh chứng rõ ràng nhất. Thử hỏi, trong hoàn cảnh của cậu bé, mấy ai có thể đưa ra quyết định dứt khoát được như vậy? Qua những chi tiết, hình ảnh, tác giả cũng đã làm nổi bật hình ảnh cậu bé gắn liền với thông điệp mà tác phẩm muốn thể hiện.

Hai cậu bé trong Bầy chim chìa vôi của tác giả Nguyễn Quang Thiều đã làm nổi bật được tinh thần yêu thương đối với muôn loài của dân tộc Việt Nam. Hai anh em Mên và Mon cũng làm người đọc bất ngờ về tình người và giá trị nhân đạo mà tác giả muốn thể hiện. Chắc chắn rằng, hình ảnh hai anh em ngước nhìn những chú chim chìa vôi nhỏ bay lượn mà rơi nước mắt sẽ khắc sâu ấn tượng vào lòng người đọc. 

Phân tích nhân vật Mên, Mon trong Bầy chim chìa vôi (mẫu 10)

Truyện ngắn "Bầy chim chìa vôi" là một trong những tập truyện ngắn nổi bật của nhà văn Nguyễn Quang Thiều. Nhân vật Mon trong văn bản được tác giả làm nổi bật với tình yêu thương vạn vật và tấm lòng trân trọng sự sống.

Trong đêm mưa, Mon không ngủ mà trằn trọc lắng lo cho sự an nguy của bầy chim chìa vôi. Cậu liên tục hỏi anh Mên "Anh bảo có mưa to không?", "Nhưng anh bảo nước sông lên có to không?", "Thế cái bãi cát giữa sông đã ngập chưa?", "Thế anh bảo chúng nó có bơi được không?". Mặc kệ, thái độ cáu gắt của Mên, Mon vẫn kiên nhẫn hỏi anh về tình hình bên ngoài. Cứ chốc chốc, Mên lại thì thào gọi, rồi hỏi "Anh đã nhìn thấy chim chìa vôi nó bay từ bãi cát vào bờ bao giờ chưa?", "Thế làm thế nào bây giờ?". Thậm chí, Mon không màng tới thời tiết ngoài kia, thương xót bầy chim đến nỗi rủ Mên đi mang bầy chim vào bờ. Thông qua những câu hỏi và lời nói của Mon, ta có thể thấy được tình yêu thương động vật sâu sắc mà Mon dành cho bầy chim chìa vôi.

Không chỉ dừng lại ở suy nghĩ cứu bầy chim đem vào bờ, Mon quyết định theo Mên ra bờ sông xem con nước đã ngập hết bãi cát hay chưa. Trời nhá nhem tối, hai anh em vẫn căng mắt nhìn ra giữa sông. Sự vui mừng thể hiện rõ khi Mon chợt kêu lên: "Anh ơi, kia kìa, bãi cát.". Chứng kiến cảnh những chú chim bứt ra khỏi dòng nước bay lên, Mon choáng ngợp tới nỗi không nói được lời nào. Có lẽ, trong khoảnh khắc "như huyền thoại ấy", cậu vừa bất ngờ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, vừa hạnh phúc khi thấy bầy chim vẫn còn sống. Sau tất cả những gì vừa diễn ra, Mon thấy tim mình đập những nhịp hối hả. Mon khóc lúc nào mà không hề hay biết bởi "Cuối cùng bầy chim non đã thực hiện xong chuyến bay quan trọng, đầu tiên và kì vĩ nhất trong đời chúng.". Đó là những giọt nước mắt của sự sung sướng, bật ra từ một tâm hồn mong manh, nhạy cảm và tràn đầy niềm yêu thương.

Bằng ngôn từ trong sáng, hình ảnh gần gũi và cách xây dựng nhân vật thông qua lời nói, hành động, tác giả đã khắc họa thành công nhân vật Mon với tình yêu động vật và tấm lòng trân trọng sự sống sâu sắc.

Phân tích nhân vật Mên, Mon trong Bầy chim chìa vôi (mẫu 11)

Đọc truyện ngắn Bầy chim chìa vôi của nhà văn Nguyễn Quang Thiều, em thích nhất là nhân vật cậu bé Mon.

Mon là một cậu bé tuy nhỏ tuổi, nhưng lại có trái tim yêu thương động vật vô cùng mạnh mẽ và to lớn. Tình cảm ấy được thể hiện rõ nét qua từng hành động và lời thoại của em. Như khi thấy bố bắt được con cá bống, Mên đã lén bắt cá và thả đi. Dù em khá sợ bố, nhưng cũng chẳng hề hấn gì tới việc em “giải cứu” cho chú cá cả. Tình yêu thương động vật của Mon, thể hiện rõ nhất là đối với tổ chim chìa vôi non ở bãi cát giữa sông. Giữa đêm mưa gió, em tỉnh giấc không ngủ được vì lo cho bầy chim non. Bao suy nghĩ của em đều xoay quanh những chú chim ấy, lo chúng bị ướt, lo chúng bị nhấn chìm. Là một đứa trẻ, những suy nghĩ của em dễ bị phân tán, nhưng rồi em vẫn quay về tiếp tục hỏi anh Mên về đàn chim non. Chính em còn quyết tâm rủ anh Mên cùng nhau đi ra bờ sông giữa đêm mưa gió, bất chấp nguy hiểm để “mang chúng nó vào bờ”. Sự quyết tâm ấy của Mon khiến em vô cùng nể phục. Bởi ẩn sau một cơ thể bé nhỏ lại là một tinh thần dũng cảm và trái tim to lớn đến thế.

Bên cạnh đó, nhân vật Mon cũng là một người em trai hết sức yêu quý và tin tưởng anh mình. Trong truyện ngắn, hầu hết các lời thoại của nhân vật đều bắt đầu bằng cụm từ “Anh ơi”, “Anh Mên”. Lúc nào Mon cũng gọi anh của mình bằng sự tin yêu và gắn bó. Trong tình huống khó khăn, em đặt trọn niềm tin ở anh trai mình, và rất mong có anh ở bên, cùng đồng hành. Điều đó khiến em vô cùng cảm động trước tình cảm anh em thân mật của Mon dành cho Mên.

Nhờ những đặc điểm ấy, mà nhân vật Mon đã khiến em vô cùng yêu quý và ấn tượng, ngay từ lần đọc truyện đầu tiên.

Phân tích nhân vật Mên, Mon trong Bầy chim chìa vôi (mẫu 12)

Tác giả Nguyễn Quang Thiều đã xây dựng thành công nhân vật Mên trong truyện ngắn "Bầy chim chìa vôi". Mên hiện lên với sự hồn nhiên, trong sáng của trẻ thơ cùng tấm lòng yêu thương động vật và trân trọng sự sống.

Trong đêm khuya, nghe thấy Mon băn khoăn hỏi mình về việc bãi bồi sẽ ngập nước nếu như trời mưa, Mên không tránh khỏi lo lắng cho số phận của những chú chim chìa vôi. Sau một hồi nói chuyện, Mên quyết định cùng em lấy đò của ông Hao bất chấp thời tiết mưa gió vô cùng nguy hiểm. Đây thực sự là một lựa chọn gan dạ và liều lĩnh của hai anh em.

Tới nơi, Mên hành động rất dứt khoát "quấn cái dây buộc đò vào người nó và gò lưng kéo". Mặc dù trời nhá nhem không thể nhìn thấy nhưng Mên vẫn căng mắt ngồi từ bên bờ này nhìn sang dải cát. Cậu bé nỗ lực nhìn xem liệu bãi bồi đã ngập đến đâu rồi. Nghe tiếng Mon kêu lên "Anh ơi, kia kìa, bãi cát", Mên hạnh phúc mà tiếp lời "Ừ đúng rồi. Vẫn chưa ngập hết. Còn bằng cái mũ thôi". Vẻ vui mừng hiện rõ qua lời nói của Mên vì cậu biết rằng nếu nước chưa ngập hết thì đàn chim vẫn có thể sống sót.

Trong khoảnh khắc bầy chim chìa vôi "bứt khỏi dòng nước khổng lồ bay lên", giọt nước mắt mãn nguyện của Mên còn cho thấy Mên là một cậu bé có tâm hồn nhạy cảm, dạt dào tình yêu thương với động vật. Mên sung sướng vì bầy chim chìa vôi non hoàn thành "chuyến bay đầu tiên và kì vĩ nhất trong đời chúng" một cách an toàn, không có chú chim non nào bị đuối nước. Dường như "chúng nghe thấy trong ngực mình nhịp đập của những trái tim hối hả nhưng đều đặn.".

Tác giả đã khắc họa nhân vật thông qua những lời nói và hành động cụ thể. Ngôn từ giản dị, hình ảnh trong sáng, gần gũi đã miêu tả chính xác tâm lí của trẻ thơ.

Có thể nói, nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã đem đến cho bạn đọc những suy tư về hành động đầy tình yêu của hai đứa trẻ với tự nhiên. Qua đó, bày tỏ thái độ trân quý, ngợi ca tình yêu thiên nhiên và trân trọng sự sống đầy trong trẻo, hồn nhiên của trẻ thơ.

 

Lời giải

Dàn ý Phân tích nhân vật An, Cò trong Đi lấy mật

- Mở bài: Giới thiệu tác phẩm văn học và nhân vật; nêu khái quát ấn tượng về nhân vật.

- Thân bài: Phân tích đặc điểm của nhân vật

+ Nhân vật đó xuất hiện như thế nào? 

+ Các chi tiết miêu tả hành động của nhân vật đó.

+ Ngôn ngữ của nhân vật

+ Những cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật như thế nào?

+ Mối quan hệ của nhân vật đó với các nhân vật khác

- Kết bài: Nêu ấn tượng và đánh gái về nhân vật

Phân tích nhân vật An, Cò trong Đi lấy mật (mẫu 1)

Đoạn trích “Đi lấy mật” được trích trong tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” của Đoàn Giỏi, kể về cuộc sống của cậu bé An, lấy bối cảnh là miền Tây Nam Bộ những năm 50 của thế kỉ XX. Vì chiến tranh, An bị lạc mất gia đình và trở thành một đứa trẻ lang thang. Cậu được bố mẹ Cò cưu mang và trở thành con nuôi của họ. Sống với gia đình Cò, An được yêu thương như con đẻ và cũng học hỏi được nhiều điều mới lạ, thú vị. Qua đoạn trích “Đi lấy mật”, người đọc có dịp tham quan rừng U Minh và cảm nhận hai nhân vật An, Cò trong hành trình cùng cha nuôi đi lấy mật ong rừng đầy thú vị.

“Đi lấy mật” kể về một lần An cùng Cò và cha nuôi cùng nhau vào rừng U Minh đi lấy mật ong. Xuyên suốt đoạn trích là cảnh sắc đất rừng phương Nam được tác giả miêu tả hiện lên vô cùng sinh động, vừa bí ẩn, hùng vĩ, lại vừa thân thuộc, gắn liền với cuộc sống của người dân nơi đây qua những suy nghĩ của cậu bé An.

          An là một cậu bé lanh lợi, yêu thiên nhiên và có những quan sát đầy tinh tế, mới mẻ. Khung cảnh thiên nhiên buổi sáng qua cái nhìn của nhân vật An cũng vì thế mà trở nên độc đáo, với không gian yên tĩnh, ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm. Trời không gió, không khí mát lạnh bởi hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ẩm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh. Trong không gian ban mai đó, người tía hiện lên với những chi tiết như đi trước, dẫn đường cho An và Cò, đeo bên hông lủng lẳng chiếc túi, mang cái gùi bằng tre đan đã trát chai trên lưng và tay cầm chả gạc, vừa đi vừa phạt nhánh gai mở đường đi cho các con. An là một cậu bé lễ phép và ngoan ngoãn, thể hiện qua cách xưng hô với tía và má rất ôn hòa, lễ độ. Những hành động của cậu với ba mẹ nuôi vô cùng lễ phép, thể hiện thái độ trân trọng, biết ơn. An cũng là một cậu bé ngoan ngoãn, ham học hỏi, khi liên tục hỏi tía, má những điều mà cậu còn thắc mắc hay vẫn muốn khám phá.

          Đối với Cò, An coi cậu là một người bạn, vừa là anh em trong nhà, cách xưng hô mày-tao vừa thân quen, vừa gần gũi: "Chịu thua mày đó! Tao không thấy con ong mật đâu cả." Khi đối diện với một người am hiểu vùng đất này như Cò, An luôn có thái độ tôn trọng, đôi lúc còn tự ái, không dám hỏi nhiều, âm thầm ghi nhớ những kinh nghiệm đã học được.

          Tuy An thể hiện là một cậu bé khá trầm tĩnh và hiền lành, nhưng trong cậu có những suy nghĩ rất phong phú, bên cạnh việc cảm nhận tốt vẻ đẹp thiên nhiên, cậu còn có những cảm nhận, so sánh đặc biệt về cách nuôi ong và lấy mật từ khắp nơi trên thế giới, từ đó rút ra kết luận về sự đặc biệt trong cách “thuần hóa” ong rừng của người dân vùng U Minh.

          Đối với nhân vật Cò, cậu bé này đối với An tuy cùng tuổi nhưng lại có tương đối nhiều điểm khác biệt. Cò là một cậu bé sinh ra và lớn lên ở vùng núi rừng U Minh. Hoàn toàn có thể khẳng định được như vậy là bởi cậu bé có những hiểu biết về rừng, về cách phân biệt nhiều loài ong, chim khác nhau. Khác với An mệt mỏi phải dừng lại nghỉ, thì Cò đội trên đầu cái thủng to tướng đựng nhiều đồ đạc và thức ăn, cặp chân như giò nai, lội suốt ngày trong rừng cũng không biết mệt. Mọi hành động đều cho thấy Cò là một cậu bé tinh nghịch, giàu năng lượng, lúc nghỉ ngơi, Cò bưng vò nước ra, ngửa cổ kề miệng uống ừng ực; hay thúc vào lưng An, trỏ lên trời và đố con ong mật ở đâu, rồi lại tự giảng giải cho An cách nhìn thấy bầy ong, đoán trước được chúng sẽ xuất hiện. Khi thấy An chịu thua câu đố, Cò đắc ý, vênh mặt tự tin về những hiểu biết của mình. Cò giảng giải cho An cách để tìm thấy ong mật: “Cứ nhìn kĩ vào khoảng cách giữa hai nhánh tràm cao kia” “nhìn một chỗ trống ấy” “nó tới liền bây giờ”.

          Qua đoạn trích, bên cạnh con người và núi rừng phương Nam để lại cho em ấn tượng vô cùng đặc biệt. Thiên nhiên núi rừng tràn đầy nhựa sống, hùng vĩ, hoang sơ. Con người chăm chỉ lao động và có nhiều kinh nghiệm với nghề… thì hai bạn nhỏ An và Cò cũng để lại nhiều ấn tượng đặc biệt. Cũng nhờ hai cậu bé, người đọc như được khám phá đất rừng phương Nam qua hai vị hướng dẫn viên đặc biệt.

Phân tích nhân vật An, Cò trong Đi lấy mật (mẫu 2)

          Tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” của nhà văn Đoàn Giỏi viết về cuộc đời phiêu bạt của cậu bé tên An. Bối cảnh của tiểu thuyết là miền Tây Nam Bộ, Việt Nam vào những năm 1945, sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Nam Bộ. Trong chương trình phổ thông, em được học đoạn trích “Đi lấy mật”, cũng chính là tên chương 9, kể lại một lần An theo tia nuôi (cha nuôi) và Cò đi lấy mật ong trong rừng U Minh. Bằng việc đọc hiểu đoạn trích này, em không chỉ cảm nhận được cảnh sắc đất rừng phương Nam đặc sắc, mà còn cảm nhận được những nét đặc biệt trong tính cách, hình dáng, cử chỉ của hai nhân vật An và Cò.

Văn bản Đi lấy mật kể về câu chuyện 3 cha con Cò An đi vào rừng lấy mật, qua đó tác giả bật mí cho chúng ta về cách làm tổ cho loài ong mật. Trong đoạn trích có 4 nhân vật gồm tía nuôi, má nuôi An, An và Cò, với mối quan hệ hết sức đặc biệt: Cò là con đẻ của tía má, An là con nuôi của tía má. Vì chiến tranh, An bị lạc mất gia đình và trở thành một đứa trẻ lang thang. Cậu được bố mẹ Cò cưu mang và trở thành con nuôi của họ. Sống với gia đình Cò, An được yêu thương như con đẻ và cũng học hỏi được nhiều điều mới lạ, thú vị.              

An là một cậu bé thông minh với những hiểu biết, cảm nhận vô cùng tinh tế. Qua cái nhìn của nhân vật An, khung cảnh thiên nhiên của rừng U Minh được hiện lên tràn đầy nhựa sống, có sự kết hợp giữa vẻ đẹp của các loài vật, loài cây cũng như những sự vật của thiên nhiên như trời, ánh sáng, đầu hoa tràm, sông ngòi…khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh. Điều đó cho thấy khả năng quan sát và cảm nhận về thiên nhiên của nhân vật An vô cùng tinh tế và sâu sắc.

Cũng từ quan sát của An, tía nuôi hiện lên là một người cha chu đáo, tận tình, qua tâm đến con từ những chi tiết nhỏ. Ông thậm chí nghe tiếng thở của An để nhận ra con đang mệt, ra hiệu cho các con dừng lại nghỉ ngơi, ăn uống, trên đường đi thì phát quang những bụi gai để mở đường cho các con theo sau.

Đáp lại tình cảm của tía, má nuôi, An cũng là một cậu bé ngoan ngoãn, lễ độ, cậu bé lắng nghe và lễ phép với cha mẹ. Từ đó, An cũng học được rất nhiều bài học kinh nghiệm quý báu từ cả tía và má. Má nuôi An có dặn dò và chỉ An cách nhận biết được bầy ong, lấy mật bằng cách quan sát nhành cây, hướng gió, tính trước đường bay của ong mật.

Khác với sự hiền lành của An, Cò lại là một cậu bé sinh ra và lớn lên ở núi rừng U Minh. Cũng vì là người dân bản địa, Cò vô cùng nhanh nhẹn, lanh lợi, hoạt bát. Lợi thế này cũng giúp cho Cò “lên mặt” với cậu bạn cùng nhà An ít nhiều lần. Cùng đi vào rừng lấy mật, nhưng Cò giàu năng lượng và mạnh mẽ hơn An khá nhiều, cậu bé đội cái thủng to tướng đựng nhiều đồ đạc và thức ăn, cặp chân như giò nai, lội suốt ngày trong rừng cũng không biết mệt. Khi dừng lại nghỉ, Cò bưng vò nước ra, ngửa cổ kề miệng uống ừng ực, lúc thì thúc vào lưng An, trỏ lên trời và đố con ong mật ở đâu, giảng giải cho An cách nhìn thấy bầy ong, đoán trước được chúng sẽ xuất hiện… Tất cả những miêu tả của tác giả đều giúp người đọc hình dung ra một cậu bé thuộc về U Minh, sinh ra tại đất rừng phương Nam nên cậu biết rõ nơi đây như lòng mình vậy.

          Từ câu chuyện của mẹ, cậu bé An bộc lộ những hiểu biết của mình về cách lấy mật, nuôi ong ở khắp nơi trên thế giới. Nếu người La Mã xưa nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, người Mễ Tây Cơ xây tổ ong bằn đất nung, treo lên cành cây, người Ai Cập làm tổ ong bằng sành, hình ống dài, xếp lên nhau trên bãi cỏ, ở châu Phi người ta đục ruỗng thân cây, vít kín hai đầu, treo lên bằng một đoạn dây nhỏ có mấu, Xứ Tây Âu bện tổ ong bằng rơm đủ kiểu, hình thù khác nhau…thì người U Minh có cách “thuần hóa” ong rừng vô cùng khác biệt: Tính toán, gác kèo để ong rừng tự bay về làm tổ, quá trình gác kèo cũng cần kỹ lưỡng, cẩn thận từng chi tiết. Cách lấy mật này đòi hỏi kinh nghiệm, mắt nhìn và đầu óc tính toán cực kì chi tiết, kỹ lưỡng của những “dân ăn ong” lành nghề, từng thất bại. Tất cả những chi tiết từ câu chuyện của mẹ đã cho ta thấy An là một cậu bé ngoan ngoãn, ham học hỏi, thích quan sát và yêu thiên nhiên.

          Cả hai cậu bé An và Cò đều có nhiều nét đặc biệt, thú vị trong ngoại hình, cử chỉ, tích cách. Dẫu vậy, khi đồng hành cùng An và Cò trong hành trình “đi lấy mật”, người đọc như được tham quan, trải nghiệm đất rừng U Minh đẹp diệu kì với hai vị “hướng dẫn viên” đặc biệt.

Phân tích nhân vật An, Cò trong Đi lấy mật (mẫu 3)

     Đất rừng phương nam là một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Đoàn Giỏi viết về cuộc đời của một cậu bé tên An. Bối cảnh của tiểu thuyết là các tỉnh Tây Nam, Việt Nam vào năm 1945, sau khi thực dân Pháp trở về xâm chiếm miền Nam. ​Trong chuyến lưu lạc của mình An đã được gặp và tiếp xúc với nhiều người, trong đó phải kể đến tía, má nuôi và Cò. Trong đoạn trích từ chương 9, “Đi lấy mật” là hành trình vào rừng lấy mật, “ăn ong” của ba cha con, hai nhân vật An và Cò đã đưa người đọc tới những trải nghiệm thú vị nơi đất rừng U Minh.

          Đoạn trích “Đi lấy mật” kể về trải nghiệm đi lấy mật ong rừng của An cùng Cò và cha nuôi. Trong hành trình này, phong cảnh rừng núi phương Nam được tác giả tái hiện vô cùng sinh động, huyền bí, hùng vĩ nhưng cũng rất thân thuộc, gắn liền với cuộc sống của người dân vùng U Minh.

          Câu chuyện được kể theo ngôi thứ nhất, người kể chính là nhân vật An, cậu bé xưng “tôi” giúp cho lời kể tự nhiên, chân thực. Cũng nhờ đó, khung cảnh thiên nhiên của rừng U Minh được hiện lên tràn đầy nhựa sống, có sự kết hợp giữa vẻ đẹp của các loài vật, loài cây cũng như những sự vật của thiên nhiên như trời, ánh sáng, đầu hoa tràm, sông ngòi…khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh. Tác phẩm đã tái hiện một vẻ đẹp trù phú, sống động vô cùng của núi rừng, là cả một đất trời thiên nhiên ưu đãi, cánh đồng bát ngát mênh mông, sóng nước rì rầm, rừng rậm bạt ngàn trù phú, thú rừng hoang dã muôn loài… Điều đó cho thấy khả năng quan sát và cảm nhận về thiên nhiên của nhân vật An vô cùng tinh tế và sâu sắc.

          Trong mắt An, tía nuôi của mình hiện lên là một người cha luôn yêu thương và quan tâm con cái, không cần quay lại, chỉ cần nghe “tôi” thở thôi cũng cảm nhận được cậu đang mệt và cần được nghỉ ngơi. Tía đi trước hai anh em, Bên hông lủng lẳng chiếc túi […], lưng mang cái gùi bằng tre đan đã trát chai, tay cầm chà gạc. Lâu lâu, ông vung tay lên một cái, đưa con dao rừng rất sắc phạt ngang một nhánh gai và dùng cái mẩu cong ở đầu lưỡi dao dài có đến sáu bảy tấc ấy lôi phăng nhánh gai chắn đường đứt ra một bên để lấy lối đi. Trong lúc chỉ An về phía cây có con ong mật, tía nuôi đang âm thầm truyền dạy cho con những kinh nghiệm quý báu trong công việc.

          Bên cạnh người tía nuôi ấm áp, An cũng có những suy nghĩ, quan sát về người bạn đồng hành của mình – Cò. Cò là một cậu bé sinh ra và thuộc về vùng đất U Minh này, nên cậu bé vô cùng lanh lợi, nhanh nhẹn, lém lỉnh. An miêu tả “thằng Cò” đội cái thúng to tướng, trong thúng đựng một vò nước, mấy gói cơm nắm và cái áo ướt mồ hôi nó vừa cởi ra cuộn lại, trên thúng úp chiếc nón lá rách. Tuy đội thúng to, nhưng cặp chân của “nó” như bộ giò nai, đên mức “lội suốt ngày trong rừng còn chả mùi gì nữa là!” Dường như Cò không hề mệt mỏi, cậu bé đã quá quen với địa hình nơi này, cũng đã đi rừng cùng cha rất nhiều lần, Cò giàu năng lượng và yêu công việc này cùng tía.     

          Cò là cậu bé tự tin, lém lỉnh. Cậu bé rất thích thú khi thể hiện sự hiểu biết vượt trội của mình với một người mới đi rừng như An. Việc này thể hiện ở chi tiết Cò liên tục đặt ra những câu đố, những lần cậu bé vênh mặt khi An chịu thua, tỏ ra bình thản khi An reo lên khi nhìn thấy bầy chim đẹp mắt… Tưởng chừng sự tự tin này khiến Cò trở thành một cậu bé tự đắc, nhưng ngược lại, Cò hiện lên là một nhân vật nhanh nhẹn và có nét đáng yêu riêng. Cậu bé giảng giải cho An cách để tìm thấy ong mật: “Cứ nhìn kĩ vào khoảng cách giữa hai nhánh tràm cao kia” “nhìn một chỗ trống ấy” “nó tới liền bây giờ”. Tuy An với Cò rất hay cãi nhau, nghịch ngợm nhưng cũng đều là những người thân thiết, gắn bó.

          Nếu An là một cậu bé ngoan ngoãn, ham học hỏi và khám phá, thường có những suy nghĩ, quan sát và rút ra được những bài học kinh nghiệm sâu sắc…thì Cò lại là một cậu bé lanh lợi, thạo việc, giàu năng lượng và ấm áp. Cả hai nhân vật này đều mang lại cho người đọc những cảm giác dễ chịu, thú vị khi đồng hành cùng đoạn trích “Đi lấy mật”, học hỏi thêm những kinh nghiệm đặc biệt trong lao động của người dân nơi đây.

Phân tích nhân vật An, Cò trong Đi lấy mật (mẫu 4)

Tiểu thuyết "Đất rừng phương Nam" là một trong những sáng tác tiêu biểu của nhà văn Đoàn Giỏi. Bên cạnh An và người tía nuôi, nhân vật Cò được tác giả khắc họa với những đặc điểm và vẻ đẹp nổi bật trong đoạn trích "Đi lấy mật".

Thông qua những lời miêu tả của An, Cò hiện lên với vẻ khỏe mạnh của một người chuyên đi rừng. Khác với An, Cò sinh ra và lớn lên ở vùng núi U Minh. Chính vì vậy, việc đội cái thúng to tướng lỉnh kỉnh bao nhiêu đồ không hề làm khó cậu. Trong khi An đã thấm mệt thì Cò chẳng thấm tháp gì. Cò có đôi chân khỏe, dẻo dai như "bộ giò nai", lội suốt ngày trong rừng. Cậu rất giàu năng lượng và vô cùng khỏe khoắn, điều đó được thể hiện qua hành động "bưng vò nước ra, ngửa cổ kề miệng vào vò nước uống ừng ực" rồi thúc vào lưng An mà hỏi "Đố mày biết con ong mật là con nào?". Ở Cò, tuy còn nhỏ tuổi nhưng dáng vẻ và hành động ấy cho thấy cậu sẽ là một người "băng rừng lội suối" giỏi trong tương lai.

Nổi bật hơn cả là tình yêu thiên nhiên và tài quan sát tỉ mỉ của cậu trong cuộc trò chuyện với An. Thấy An lúng túng trước câu hỏi của mình, Cò khoái chí "vênh mặt lên cười" rồi từ tốn giải thích cho An. Cuối cùng, An rất bất ngờ trước khả năng quan sát tinh tường của Cò khi cậu đã đoán trúng kèo gác ong. Có thể nói, Cò là người hiểu biết về rừng và có thể phân biệt nhiều loài động vật khác nhau.

Cò hiện lên chân thực qua lời kể của An, đặc điểm nhân vật được thể hiện rõ nét ở lời nói và hành động. Ngôn từ được sử dụng trong văn bản trong sáng, giản dị, hình ảnh gần gũi, quen thuộc đã góp phần tô đậm dáng vẻ của Cò.

Có thể nói, nhà văn đã miêu tả thành công nhân vật Cò - hình ảnh con người Nam Bộ gắn bó sâu sắc với tự nhiên. Hình tượng nhân vật Cò sẽ luôn ghi dấu trong lòng người đọc bởi nét hồn hậu, chất phác của con người phương Nam.

Phân tích nhân vật An, Cò trong Đi lấy mật (mẫu 5)

Đọc văn bản "Đi lấy mật" trích trong tiểu thuyết "Đất rừng phương Nam", chúng ta không thể nào quên được nhân vật Cò. Tác giả đã khắc họa thành công nhân vật với vóc dáng khỏe mạnh, sự am hiểu và tình yêu thiên nhiên sâu sắc.

Dưới con mắt của An, Cò hiện lên ngay từ phần đầu đoạn trích với hành động "đội cái thúng to tướng, trong thúng đựng một vò nước, mấy gói cơm nắm và cái áo ướt mồ hôi vừa cởi ra cuộn lại, trên thúng úp chiếc nón lá rách.". Dường như đống đồ ấy không hề làm khó được cậu ta. Đối nghịch với An, Cò được sinh ra và lớn lên ở vùng núi U Minh. Vì vậy, cậu đã quen với việc đi rừng từ bé. Trong khi An thấm mệt sau nhiều giờ đi cùng tía nuôi "ăn ong" thì "Thằng Cò thì coi bộ chưa thấm tháp gì. Cặp chân của nó như bộ giò nai, lội suốt ngày trong rừng còn chả mùi gì nữa là". Đến giờ nghỉ, cậu bé rất giàu năng lượng và khỏe khoắn khi "bưng vò nước ra, ngửa cổ kề miệng vào vò uống nước ừng ực" rồi thúc vào lưng An đố biết đâu là con ong mật. Dường như, cậu rất thuần thục địa hình nên không hề tỏ chút mệt mỏi, buồn chán.

Cò cũng là người có tài quan sát tỉ mỉ, lanh lợi, lém lỉnh. Thấy An lúng túng trước câu hỏi của mình, Cò thích thú thể hiện hiểu biết đối với một người mới đi rừng như An. Cậu "vênh mặt lên cười" rồi lấy tay chỉ "Bây giờ mày nhìn kĩ vào khoảng cách giữa hai nhánh tràm cao kia! Ờ! Đúng rồi. Nhìn một chỗ trống ấy thôi nhá. Nó tới liền bây giờ." Cò giảng giải cẩn thận giúp An nhận ra được kèo gác ong trên cành cây.

Bằng cách sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng "tôi" cùng ngôn ngữ trong sáng, hình ảnh gần gũi, bình dị, tác giả đã miêu tả thành công nhân vật Cò. Thông qua hình tượng nhân vật, nhà văn thể hiện tình yêu của mình đối với vùng đất, con người phương Nam.

Phân tích nhân vật An, Cò trong Đi lấy mật (mẫu 6)

Thế hệ 8x,9x chắc chắn nhiều người không còn xa lạ với bộ phim Đất rừng phương nam ra mắt năm 1997, gây ra tiếng vang lớn và nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của khán giả. Bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Đoàn Giỏi được sáng tác năm 1957, kể về cuộc đời của cậu bé An tại miền Tây Nam Bộ nước ta những năm 50 của thế kỉ XX. Do chiến tranh, An đã bị lạc mất gia đình, may mắn cậu được bố mẹ Cò cưu mang và thương yêu chăm sóc như con ruột. Trong toàn bộ 20 chương của truyện, để lại cho em ấn tượng nhất chính là chương 9, với tên gọi “Đi lấy mật”. Đoạn trích Đi lấy mật đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp tại rừng U Minh hùng vĩ của miền Tây Nam Bộ. Đặc biệt, nhân vật An trong đoạn trích đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc với nhiều đặc điểm đáng quý.

Bằng cách sử dụng ngôi kể thứ nhất cho đoạn trích, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ của khu rừng U Minh đã được hiện ra dưới góc nhìn tinh tế của cậu bé An. Rừng U Minh thật hoang sơ và tươi đẹp, trong không khí trong lành của buối sáng sớm đi lấy mật ông của ba cha con An. Cậu bé An thấy khu rừng có “Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh”, không phải ai cũng có thể đưa ra nhận xét tinh tế như vậy, hơn nữa lại nhỏ tuổi như An. Gió và mặt trời cũng xuất hiện thật đặc biệt, theo cái nhìn riêng của cậu, cậu thấy gió thì thổi “rao rao”, còn mặt trời lại được cậu miêu tả là một “khối” tỏa ánh nắng rực rỡ. Chỉ qua vài lời nhận xét của An chúng ta đã thấy rừng U Minh thật đẹp làm sao! Thêm cả “làn hơi đất” tỏa lên rồi bị tan biến khi ánh nắng mặt trời xuất hiện khiến khu rừng thêm phần kì bí, thôi thúc cha con An khám phá. An cảm nhận cảnh quan xung quanh bằng cả thính giác khi nghe thấy “chim hót líu lo” và bằng cả khứu giác với mùi hương tràm ngọt lan khắp cánh rừng. Động vật trong rừng cũng được miêu tả một cách rất chân thật qua con mắt của An, cậu thấy “Mấy con kì nhông nằm vươn mình phơi lưng” đang biến mình thành nhiều màu rực rỡ, rồi “Con Luốc động đậy cánh mũi, rón rén mò tới” và cả “Chim áo già màu nâu, chim manh manh mỏ đỏ bóng như màu thuốc đánh móng tay, lại có bộ lông xám tro điểm những chấm trắng chấm đỏ li ti rất đẹp mắt”, khiến An phải thốt lên với Cò rằng: “Chim đẹp quá cò ơi”. Qua những cảm nhận tinh tế của An, có thể thấy, cậu bé còn là một người có tình yêu thiên nhiên vô cùng lớn, bởi chỉ có những người yêu thiên nhiên như cậu bé mới có thể cảm nhận cảnh quan xung quanh một cách đặc biệt và sinh động như vậy. 

An còn là một chú bé rất hồn nhiên và tinh nghịch giống như bao đứa trẻ khác. Cậu bé “chen vào giữa” tía nuôi và Cò, rồi “quảy tòn ten một cái gùi bé mà má nuôi tôi đã bơi xuồng đi mượn của nhà ai ngoài xóm bìa rừng từ chiều hôm qua”. Khi đi tìm tổ ong, cậu bé rất hăng hái, đảo mắt khắp mọi nơi. Hình ảnh một cậu bé hồn nhiên tinh nghịch của An như xoa dịu đi nỗi xót xa của người đọc về hoàn cảnh lạc mất gia đình của cậu, để người đọc có thể thở phào nhẹ nhõm, vì may thay cậu gặp được gia đình Cò và vẫn được sống đúng với lứa tuổi của mình.

Tuy hiếu động nhưng cậu bé cũng vẫn không vì ham chơi mà lơ là việc học. Dễ dàng nhận thấy An cũng là một cậu bé thông minh và chăm chỉ học hành. Cậu nhớ như in từng lời má nuôi dạy về cách tìm và lấy mật, nào là xác định hướng gió, “khu rừng tốt”, tính được đường ong bay...An còn hỏi má nuôi rất nhiều điều cậu chưa hiểu rõ như “Kèo là gì, hở má?”, “Coi bộ cũng không khó lắm hở má?”, “Ủa! Tại sao vậy, má?”. Cậu bé thật thông minh và ham học hỏi làm sao! Cậu còn nhớ được cả những điều trong sách khi đi học được dạy về loài ong, rồi so sánh chúng với những gì má nuôi kể và thực tế nhìn thấy. Cậu nhận thấy trong sách khoa học tự nhiên ở trường chỉ dạy những điều chung chung về loài ong, những điều má nuôi cậu kể không thấy có trong sách, thậm chí cậu còn biết được rẳng cách gác kèo má nuôi kể “Trong kho tàng kinh nghiệm của những nhà nuôi ong trên thế giới” sẽ không có, vì cậu đã ghi chép lại cẩn thận những kinh nghiệm này từ lời thầy giáo kể. Khi thấy tổ ong cậu lại tiếp tục so sánh với hình trong sách và nhận thấy chúng giống nhau. An nhớ cả cách nuôi ong của người La Mã, người Ai Cập, xứ Tây Âu mà thầy giáo kể, rồi tự đưa ra được kết luận rằng: “Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ vùng U Minh này cả.” Chắc hẳn nhiều bạn đọc tới đây sẽ cảm thấy khâm phục trí nhớ và sự thông minh, chăm học của An.

Với ngôn ngữ giản dị, cách sử dụng từ ngữ đậm chất miền Tây Nam Bộ, tác giả Đoàn Giỏi đã khắc họa thành công nhân vật An trong đoạn trích Đi lấy mật nói riêng và tác phẩm Đất rừng phương Nam nói chung. Trong đoạn trích, An được xây dựng với đặc điểm là một cậu bé có cái nhìn tinh tế về thế giới xung quanh và yêu thiên nhiên. Không chỉ vậy cậu còn rất tinh nghịch, thông minh và chăm học. Qua nhân vật An, nhà văn Đoàn Giỏi đã bộc lộ được cảm xúc của chính mình dành cho thiên nhiên hùng vĩ tại rừng U Minh, cánh rừng đại diện cho miền Tây sông nước, cũng như tình yêu trẻ thơ của mình vì đã truyền đạt tác phẩm một cách gần gũi và thu hút đến với mọi người, đặc biệt là trẻ nhỏ.

Phân tích nhân vật An, Cò trong Đi lấy mật (mẫu 7)

Đoạn trích "Đi lấy mật" được trích trong tiểu thuyết "Đất rừng phương Nam" của nhà văn Đoàn Giỏi. Thông qua câu chuyện ba cha con vào rừng đi lấy mật, tác giả đã làm nổi bật hình tượng nhân vật An với nhiều phẩm chất trong sáng, tốt đẹp.

Trước hết, An là một cậu bé yêu thiên nhiên và có những quan sát vô cùng tinh tế. Dưới con mắt của An, rừng núi U Minh hiện lên với vẻ hoang sơ, kì vĩ song cũng rất thơ mộng, trữ tình. Trên đường đi lấy mật, cậu luôn chăm chú, để ý khung cảnh xung quanh. Bằng cách sử dụng ngôi kể thứ nhất, bức tranh thiên nhiên rừng U Minh được thu vào đôi mắt hồn nhiên của An. Các đoạn văn miêu tả như những thước phim quay chậm vô cùng sống động, sắc nét. An đưa mắt quan sát ở trên cao với hình ảnh bầu trời "Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như nó là bao qua một lớp thủy tinh.". Cậu tiếp tục cảm nhận thiên nhiên bằng khứu giác, xúc giác, thị giác: "ăn xong, bấy giờ bóng nắng mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thổi rao rao theo với khối mặt trời tròn đang tuôn ánh sáng vàng rực xuống mặt đất. Một làn hơi đất nhè nhẹ tỏa lên, phủ mờ những bụi cây cúc áo, rồi nhè nhẹ tan dần theo hơi ấm mặt trời.",... Màu sắc, đặc điểm của sự vật, hiện tượng được miêu tả chi tiết cho thấy sự nhạy cảm trong tâm hồn của nhân vật An.

Tiếp đến, An rất ham học hỏi, tìm hiểu mọi thứ xung quanh. Lần đầu tiên, An được theo tía nuôi vào rừng lấy mật. Trên quãng đường đi, An luôn nhớ lại những lời má nuôi kể về cách gác kèo ong như thế nào. Thậm chí, An đã có những so sánh giữa việc học trong sách với thực tiễn bên ngoài. Cậu nhận ra việc học trong sách giáo khoa chỉ có những khái niệm chung chung về loài ong, không giống như cách má nuôi bảo. Qua đoạn trích An nhớ lại những lời má nuôi kể, ta có thể thấy cậu đặt ra rất nhiều những câu hỏi thể hiện sự tò mò và mong muốn tìm hiểu thế giới xung quanh. Cuối cùng, cậu đã đúc kết ra được sự khác biệt trong cách "thuần hóa" ong rừng của người dân vùng U Minh so với những cách nuôi ong trên thế giới: "Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ ong hình nhánh kèo như vùng U Minh này cả.".

Có thể thấy, nhà văn Đoàn Giỏi đã xây dựng thành công nhân vật An thông qua lời nói, hành động cụ thể kết hợp với ngôi kể thứ nhất. Qua nhân vật An, tác giả đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người sâu sắc và ngợi ca tâm hồn trong sáng của trẻ thơ.

Phân tích nhân vật An, Cò trong Đi lấy mật (mẫu 8)

Trong đoạn trích "Đi lấy mật" (từ tiểu thuyết "Đất rừng phương Nam"), nhà văn Đoàn Giỏi đã khắc họa thành công nhân vật cậu bé An. An hiện lên với những đặc điểm, phẩm chất tốt đẹp khiến người đọc không thể quên.

Trước tiên, An là cậu bé yêu thiên nhiên và có những quan sát, cảm nhận vô cùng tinh tế. Dưới đôi mắt hồn nhiên, trong veo của An, bức tranh thiên nhiên rừng U Minh được miêu tả một cách chân thực, sắc nét như những thước phim quay chậm. Cậu bé quan sát cảnh vật ở trên cao thấy "Rồi một đàn mười mấy con bay nối nhau như một xâu chuỗi hạt cườm, trong những tầng xanh cây lá, có một cái chấm nâu đen cỡ đầu đũa vụt qua rất nhanh. Trên những ngọn tràm cao, đang lướt qua một đàn li ti như nắm trấu bay, phát ra những tiếng kêu eo...eo... ". Dường như, An huy động mọi giác quan để cảm nhận cho được cái ánh sáng trong vắt, gợn chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung trong gió. Khung cảnh hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng qua đôi mắt trẻ thơ thật đỗi thơ mộng, trữ tình.

Tiếp đó, An vô cùng ham học hỏi, muốn tìm hiểu mọi thứ xung quanh. Cậu luôn nhớ về những lời má nuôi kể về cách gác kèo trong suốt hành trình "ăn ong". Thậm chí, An còn có sự so sánh giữa kiến thức học được trong sách vở với thực tế bên ngoài. An nhận thấy học trong sách vở chỉ dừng lại ở các khái niệm chung chung trong khi kinh nghiệm thực tiễn lại thú vị, chi tiết hơn rất nhiều. Cuối cùng, cậu tự đúc kết ra được những khác biệt trong cách "thuần hóa" ong rừng giữa người dân vùng U Minh với những nơi khác trên thế giới: "Theo như lời thầy giáo của tôi bảo, người La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hàng lỗ con vòng quanh miệng, quanh đáy. [...] Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ ong hình nhánh kèo như vùng U Minh này cả.". Lời kết luận chắc nịch của An cho thấy quá trình quan sát, tìm tòi, học hỏi của cậu trong thời gian dài.

Ngoài ra, ta còn thấy được thái độ lễ phép, ngoan ngoãn của An đối với tía, má nuôi. An luôn ghi nhớ mọi kiến thức, kinh nghiệm quý báu mà má, tía truyền lại. Từ đó, cậu học được cách đoán hướng gió, xác định chỗ gác kèo và "tính trước được đường bay của ong mật".

Bằng ngôn từ gần gũi, giản dị, hình ảnh trong sáng, quen thuộc, nhà văn đã khắc họa nhân vật An thành công. Ngôi kể thứ nhất đã góp phần lột tả tâm tư, tình cảm của An, đồng thời phô diễn những nét đẹp độc đáo của thiên nhiên, con người, cuộc sống vùng Nam Bộ.

Thông qua lời nói, hành động cụ thể, cậu bé An hiện lên vô cùng chân thực, rõ nét. Có thể nói, hình tượng cậu bé An trở thành phương tiện nghệ thuật độc đáo giúp nhà văn Đoàn Giỏi bộc lộ tình yêu thiên nhiên, trân trọng cuộc sống, con người.

Phân tích nhân vật An, Cò trong Đi lấy mật (mẫu 9)

Văn bản “Đi lấy mật” được trích trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi. Nổi bật trong đó là nhân vật cậu bé An đã để lại nhiều ấn tượng.

Nội dung của đoạn trích kể về một lần An và Cò theo người tía nuôi đi lấy mật. Trên đường đi, An cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng. Tía nuôi đi trước dẫn đường, An và Cò theo sau. Khi An thấy mệt, họ ngồi lại nghỉ ngơi, ăn trưa rồi mới tiếp tục hành trình. Lúc đó, Cò đã chỉ cho An cách xem đàn ong mật. Trên đường đi, họ tới một cái trảng rộng, nhìn thấy biết bao là chim. An vô cùng thích thú, nhưng khi nghe Cò nói đến “sân chim”, cậu lại im lặng vì từ cái nghĩ nếu cái gì cũng hỏi thì Cò sẽ khinh mình dốt. Bắt gặp một kèo ong, An nhớ lại lời má nuôi dạy cách “thuần hóa” ong rất đặc biệt của người dân vùng U Minh.

An là nhân vật chính, cũng đóng vai là người kể chuyện. Cậu đã được nhà văn khắc họa qua nhiều phương diện khác nhau. Trong hành trình đi lấy mật cùng với tía nuôi và Cò, An đã có được một nhiều nghiệm thú vị. Trước hết, An cũng giống như bao đứa trẻ khác, nghịch ngợm nên đã có những hành động như: “Chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé”; “Đảo mắt khắp nơi để tìm bầy ong mật”; “Reo lên khi nhìn thấy bầy chim đẹp”; “Ngước nhìn tổ ong như cái thúng… ”. Qua những hành động này, có thể thấy An là một đứa trẻ khá hiếu động và nghịch ngợm.

Hồn nhiên là vậy nhưng An vẫn biết suy nghĩ, ham tìm hiểu. Cậu luôn nhớ về lời má nuôi dạy, về cách lấy mật, lời thằng Cò nói về cách xem ong, về sân chim. Khi nghe má nuôi dạy cách lấy mật, nếu không hiểu gì, An lại hỏi ngay: “Sao biết nó về cây này mà gác kèo”, “Kèo là gì, hở má?”, “Coi bộ cũng không khó lắm hở má?”, “Ủa, tại sao vậy má?”... Bên cạnh đó, không chỉ tinh nghịch và ưa khám phá, cậu còn có con mắt quan sát thật tinh tế và sâu sắc. Dưới con mắt của An, cảnh rừng U Minh hiện lên sống động và hoang sơ, trù phú: “Buổi sáng, đất rừng yên tĩnh”, còn “ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng giống như là nó bao qua một lớp thủy tinh”. Điều này cho thấy, An là một cậu bé có tinh tế, biết phát hiện ra những cái đẹp của thiên nhiên.

Có thể thấy rằng, cậu bé An hiện lên với vẻ hồn nhiên, trong sáng nhưng cũng rất ham học hỏi, tìm hiểu.

Phân tích nhân vật An, Cò trong Đi lấy mật (mẫu 10)

Cậu bé An trong đoạn trích Đi lấy mật, là một nhân vật mà em rất yêu quý và ấn tượng ngay từ lần đầu tiên đọc tác phẩm.

An là một cậu bé với tình yêu dành cho thế giới thiên nhiên xung quanh minh vô cùng cháy bỏng. Đồng thời, ở cậu cũng luôn rạo rực khát khao được học hỏi và khám phá những cái mới. Nét tính cách này đã được thể hiện rõ qua hành trình đi lấy mật của An cùng cha nuôi và thằng Cò. Trong hành trình lấy mật, An chăm chú và tận hưởng mọi thứ xung quanh mình bằng cả tâm hồn và mọi giác quan. Cậu “đảo mắt khắp nơi” khi nghe lời kể của thằng Cò, rồi nhìn chăm chú, “mắt không rời khỏi tổ ong” mà cha nuôi chỉ. Dù mệt nhọc, vất vả khi lần đầu đi rừng, An vẫn không hề than thở một lời, quyết tâm theo mọi người tiến về phía trước. Tinh thần ấy của cậu bé khiến em vô cùng khâm phục. Tình yêu thiên nhiên ở An được thể hiện rõ nét qua sự thích thú của cậu khi lần đầu được đi “săn ong”. Qua sự thán phục, chăm chú lắng nghe khi cha nuôi và thằng Cò kể về rừng cây, về loài ong mật. Rồi lại ngây ngất trước vẻ đẹp của núi rừng.

Ở nhân vật An, em còn thấy những nét tính cách trẻ con, tinh nghịch rất thú vị, Khi cậu "chen vào giữa, quẩy tòn ten một cái gùi bé" để theo cha nuôi vào rừng. Rồi lại giận dỗi thằng Cò khi bị nó trêu chọc. Nhưng An giận nhanh mà quên cũng nhanh, chẳng mấy mà cậu lại tíu tít với thằng Cò như trước.

Những đặc điểm ấy đã cùng nhau tạo nên sự thú vị và hấp dẫn cho nhân vật vật An nói riêng cũng như đoạn trích Đi lấy mật nói chung.

Phân tích nhân vật An, Cò trong Đi lấy mật (mẫu 11)

Đọc đoạn trích Đi lấy mật, em rất ấn tượng với nhân vật An.

An là một cậu bé nhỏ tuổi, có lòng khát khao hướng đến thiên nhiên. Chính vì vậy, mà cậu đã cùng cha nuôi và thằng Cò vào rừng để xem cảnh săn ong. Cậu chăm chú quan sát và cảm nhận từng cảnh vật, ngọn cây trên đường đi, và phải trầm trồ không ngớt bởi vẻ đẹp hoang sơ, kì vĩ của rừng U Minh. Tinh thần ham học hỏi của An, thể hiện qua chi tiết cậu tự so sánh những điều mà má nuôi mình - một người dân sống ở vùng rừng núi kể với những điều mình đọc được trong sách. Sự tư duy ấy khiến cậu tò mò không hiểu vì sao ở đoạn rừng này lại không hề có tiếng chim chóc kêu.

Không chỉ vậy, An còn là một cậu bé ngoan ngoãn, luôn yêu thương và kính trọng người thân của mình. Tuy ba má nuôi không phải là người sinh ra mình, nhưng An vẫn rất yêu quý, và nghĩ về ba má bằng những suy nghĩ tốt đẹp và nghe theo từng lời dạy bảo. Đặc biệt, cậu rất thân với thằng Cò. Tuy thằng Cò là một đứa trẻ lớn lên ở nơi rừng núi, nhưng An vẫn rất thân thiết, thậm chí là ngưỡng mộ khả năng đi rừng của Cò. Tuy có đôi lúc giận dỗi, nhưng đó cũng chỉ là thoáng qua của những đứa trẻ nghịch ngợm mà thôi.

Có thể nói, An là hiện diện của một đứa trẻ tuổi mới lớn, với trái tim đầy ắp yêu thương và tình cảm trong sáng. Cậu sống chan hòa với người thân, hòa mình vào thiên nhiên xung quanh mình và cảm nhận tất cả bằng tâm hồn rộng mở.

Phân tích nhân vật An, Cò trong Đi lấy mật (mẫu 12)

Cậu bé An trong đoạn trích Đi lấy mật, là một nhân vật mà em rất yêu quý và ấn tượng ngay từ lần đầu tiên đọc tác phẩm.

An là một cậu bé với tình yêu dành cho thế giới thiên nhiên xung quanh minh vô cùng cháy bỏng. Đồng thời, ở cậu cũng luôn rạo rực khát khao được học hỏi và khám phá những cái mới. Nét tính cách này đã được thể hiện rõ qua hành trình đi lấy mật của An cùng cha nuôi và thằng Cò. Trong hành trình lấy mật, An chăm chú và tận hưởng mọi thứ xung quanh mình bằng cả tâm hồn và mọi giác quan. Cậu “đảo mắt khắp nơi” khi nghe lời kể của thằng Cò, rồi nhìn chăm chú, “mắt không rời khỏi tổ ong” mà cha nuôi chỉ. Dù mệt nhọc, vất vả khi lần đầu đi rừng, An vẫn không hề than thở một lời, quyết tâm theo mọi người tiến về phía trước. Tinh thần ấy của cậu bé khiến em vô cùng khâm phục. Tình yêu thiên nhiên ở An được thể hiện rõ nét qua sự thích thú của cậu khi lần đầu được đi “săn ong”. Qua sự thán phục, chăm chú lắng nghe khi cha nuôi và thằng Cò kể về rừng cây, về loài ong mật. Rồi lại ngây ngất trước vẻ đẹp của núi rừng.

Ở nhân vật An, em còn thấy những nét tính cách trẻ con, tinh nghịch rất thú vị, Khi cậu “chen vào giữa, quẩy tòn ten một cái gùi bé” để theo cha nuôi vào rừng. Rồi lại giận dỗi thằng Cò khi bị nó trêu chọc. Nhưng An giận nhanh mà quên cũng nhanh, chẳng mấy mà cậu lại tíu tít với thằng Cò như trước.

Những đặc điểm ấy đã cùng nhau tạo nên sự thú vị và hấp dẫn cho nhân vật vật An nói riêng cũng như đoạn trích Đi lấy mật nói chung.

 

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

4.6

166 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%