Giải SBT Ngữ văn 12 CD Bài 8: Thơ hiện đại có đáp án

23 lượt thi 29 câu hỏi

Đề thi liên quan:

Danh sách câu hỏi:

Câu 19:

(Bài tập 1, SGK) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

[...] Khi nói đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt thì trước hết cần thấy rằng đó là một công việc bình thường, tự nhiên và thường xuyên, lâu dài trong về sau, nhằm suốt cả quá trình phát triển của tiếng Việt từ trước tới nay và từ nay bảo vệ và phát huy cái bản sắc, cái tinh hoa của tiếng Việt, không để cho mất đi một cái gì vô cùng quý báu khiến cho tiếng Việt là tiếng Việt.

Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy ngôn ngữ nào cũng trải qua những thời kì nổi bật lên nhiệm vụ giữ gìn sự trong sáng của nó. Như ở Nga, sau Cách mạng tháng Mười vĩ đại, Lê-nin (Lenin) đã kêu gọi mọi người không được “làm hỏng tiếng Nga”, “tuyên chiến với việc dùng những từ nước ngoài không cần thiết”.

Ở ta, từ những năm 50, trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc”, Bác Hồ đã nói đến các thứ “bệnh” ngôn ngữ mà chúng ta thường hay nhắc như: bệnh “sáo”, nghĩa là nói và viết theo một cái khuôn mẫu hoàn toàn như nhau bất kể về việc gì, ở cấp nào, cơ quan nào; bệnh “ba hoa”, “nói dài, nói dại, nói dai”, còn nội dung thì rỗng tuếch, “ba voi không được bát nước xáo”; bệnh “vẽ rắn thêm chân”; bệnh “nói chữ”. Sau này, Bác cũng nhiều lần nhấn mạnh: “khuyết điểm nặng nhất là dùng chữ nước ngoài quá nhiều, và nhiều khi dùng không đúng”. Bác thường xuyên nhắc nhở: “tiếng nào sẵn có thì dùng tiếng ta” và đồng thời chỉ rõ: “có những chữ ta không sẵn có và khó dịch đúng thì cần phải mượn chữ nước ngoài”.

Năm 1966, tại cuộc họp mặt về vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (ngày 7 và ngày 10 tháng 2), tôi đã nêu ra ba khâu cần phải làm để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, giữ gìn sự giàu đẹp của nó, và hơn thế nữa làm cho nó ngày càng thêm giàu và đẹp. Đó là: giữ gìn và phát triển vốn chữ của tiếng ta; nói và viết đúng phép tắc của tiếng ta; giữ gìn bản sắc, phong cách của tiếng ta trong mọi thể văn (văn học, chính trị, khoa học, kĩ thuật,...); đồng thời phải có những đổi mới, phát triển, làm cho tiếng ta ngày thêm giàu trên cơ sở vốn cũ của tiếng ta.

[...] Một ngôn ngữ được đánh giá là phát triển khi nó ngày càng có tính chất “trí tuệ hoa và quốc tế hoá”. Điều này rất quan trọng khi ta đặt tiếng Việt trong bối cảnh thời đại ngày nay: thời đại của thông tin, của trí tuệ; thời đại của hội nhập khu vực, hội nhập toàn cầu, và do đó, tiếng Việt phải có những chuẩn bị, những thay đổi, để có đủ thế và lực giao lưu, tiếp xúc với các ngôn ngữ khác trên thế giới mà không sợ bị tổn thương đến giá trị, bản sắc, đến sự giàu đẹp của nó.

(Phạm Văn Đồng, Trở lại vấn đề: Vì sự trong sáng và phát triển của tiếng Việt,

Tạp chí Ngôn ngữ, số 6, năm 1999)

a) Vì sao phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt? Nội dung nhiệm vụ đó là gì?

b) Thế nào là một ngôn ngữ phát triển? Vấn đề phát triển tiếng Việt có ý nghĩa như thế nào trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay?


Câu 25:

Đọc và tìm hiểu văn bản sau theo các hướng dẫn ở bên phải:

(1) Huy Cận và Hồ Chí Minh là hai trong số những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Nếu nhắc đến Huy Cận, độc giả yêu thơ thường nghĩ tới Lửa thiêng - tập thơ đã làm nên tên tuổi và vị thế của ông trong phong trào Thơ mới, thì mỗi khi nghĩ về Bác trong tư cách của một thi sĩ, người đọc lại không thể quên Nhật kí trong tù tập thơ của một bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng” (Viên Ưng). Trong hai tập thơ trên, Tràng Giang và Chiều tối được đánh giá là những thi phẩm tiêu biểu, kết tinh cả tư tưởng, phong cách và tài nghệ của hai tác giả. Những câu thơ sau đây có thể xem là điển hình, có nhiều điểm tương đồng và khác biệt thú vị:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

(Huy Cận, Tràng giang)

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết, lò than đã rực hồng.

(Hồ Chí Minh, Chiều tối)

Phần (1) trình bày nội dung gì và có điểm nào khác so với những đoạn mở bài thông thường của bài văn nghị luận về một tác phẩm thơ?

 

(2) [...] Thật vậy, câu thơ đầu của khổ thơ dựng lên một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ. Hết lớp máy này đến lớp máy khác xếp chồng lên nhau dựng thành một quả núi mây. Câu thơ gợi nhớ một tử thơ của Đỗ Phủ: “Mặt đất máy đùn cửa ải xá Chẳng biết Huy Cận có học Đỗ Phủ chữ “dùn” này không hay tài năng của người nghệ sĩ lớn đã đem đến cho bài thơ con chứ đắc địa ấy, chỉ biết rằng với chữ “đùn” khung cảnh thiên nhiên càng lúc càng được nới rộng ra, được nhân lên về tầm vóc lớn lao, về sự đồ sộ, hùng vĩ. Và cảnh tượng ấy càng làm tăng lên sự đối lập với hình ảnh một cánh chim chiều mong manh, yếu ớt “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” Chữ “nghiêng” ở đây tương tác với ý thơ trước đó: “đùn núi bạc” để tạo ra lớp nghĩa bóng chiều đang đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch đi, đồng thời “vẽ” lên sự tương phản, đối lập giữa núi mây tầng tầng, lớp lớp với một cánh chim chiều nhỏ nhoi, đơn côi, lạc lõng. Giống như hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, “Sông dài trời rộng bến cô liêu”, thi ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” ẩn chứa nỗi buồn cô đơn, lẻ loi của cái “tôi” trữ tình thơ mới khi đứng trước thiên nhiên, đất trời rộng lớn. Đó là tâm trạng và cũng là mặc cảm thường thấy, có tính phổ quát của nhân loại từ xưa đến nay khi phải đối diện với cái vô thuỷ, vô chung của vũ trụ.

[...]“Dợn dợn” là một từ láy nguyên giàu sức sáng tạo, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hỗ ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng của nhân vật trữ tình. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Câu thơ này có sự vận dụng sáng tạo một ý thơ trong bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu:“Nhật mộ hương quan hà xứ thị / Yên ba giang thượng xử nhân sầu” (Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai). Khác với Thôi Hiệu, nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê, Huy Cận không nhìn khói sóng trên sông mà vẫn nhớ quê da diết. Như chính nhà thơ đã từng thổ lộ: “lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu vì thi nhân xưa chỉ nhớ quê còn tôi thì nhớ quê và nhớ nước”. Nỗi buồn này dù có phần “ảo não” (Hoài Thanh) nhưng trong sáng và tích cực, nó phản ánh một cái “tôi” khát khao được hoà nhập và yêu quê hương, đất nước. Khổ thơ vừa mang ý vị cổ điển vừa phập phồng hơi thở của cuộc sống hiện đại.

Phần (2) tập trung phân tích sâu đoạn thơ nào? Với những phương diện nào?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Người viết đã chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt nào giữa thơ Huy Cận và Thôi Hiệu? Từ đó đưa ra nhận định gì?

 

(3) [...] Qua những vần thơ nêu trên trong Tràng giang và Chiều tối, ta có thể thấy những điểm gặp gỡ ngẫu nhiên thú vị giữa hai nhà thơ ở hai xu hướng văn học khác nhau: lãng mạn và cách mạng. Những vần thơ không hẹn mà gặp đã cùng cất lên những giai điệu cổ điển của một tâm hồn lữ khách tha hương. Thể thơ – thất ngôn tứ tuyệt; bức tranh thơ – những hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng; bút pháp thơ – nghệ thuật chấm phá, tả cảnh ngụ tình; chủ thể trữ tình trong thơ – kẻ xa quê với bao nhung nhớ hướng về quê nhà;... là những hoà điệu thú vị trong một niềm cảm hứng chung của hai nhà thơ. Tuy nhiên, ngay trong những điểm tương đồng trên đã có những khác biệt. Cùng là nỗi niềm của người xa quê nhưng nếu Tràng giang là tình cảm nhớ quê, nhớ nước ngay trên đất nước mình của một cái “tôi” lãng mạn, bế tắc thì Chiều tối là nỗi buồn cô đơn, lẻ loi, nhớ về Tổ quốc, về cách mạng của người tù nơi đất khách quê người. Trong khi Tràng giang kiên định một nỗi buồn, nỗi sầu của “cái tôi” cô đơn trước vũ trụ rộng lớn thì Chiều tối là một tình yêu đối với thiên nhiên và sự sống con người dựa trên chất “thép” phi thường và một tâm hồn lúc nào cũng “nâng niu tất cả chỉ quên mình”... Những sự khác nhau nêu trên đều bắt nguồn từ phong cách, cảm hứng nghệ thuật, vị trí, điều kiện hoàn cảnh riêng,... của mỗi thi sĩ. Tràng giang dẫu sao cũng là một sáng tác của phong trào thơ mới lãng mạn. Còn Chiều tối là tác phẩm của một thi sĩ – chiến sĩ

Phần (3) trình bày những nội dung đánh giá nào của người viết? So với những đánh giá ở các phần trước, nội dung đánh giá ở đây có đặc điểm gì?

 

(4) Trong truyện ngắn Đời thừa, nhà văn Nam Cao đã từng viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có”. Nền văn học của một dân tộc có phong phú hay không chủ yếu dựa vào sức sáng tạo và những sản phẩm nghệ thuật riêng có của các nhà văn. Sự khác biệt của các tác phẩm cho thấy bản sắc, phong cách sáng tạo của mỗi tác giả. Đây chính là yếu tố góp phần làm nên diện mạo riêng của mỗi người nghệ sĩ, là minh chứng sống động cho một nền văn học phát triển. Tràng giang và Chiều tối là những ví dụ điển hình cho chân lí đó dù vẫn có những điểm tương đồng nhất định và thú vị.

Người viết đã kết thúc bài nghị luận thế nào?

 


4.6

5 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%