Danh sách câu hỏi

Có 306,036 câu hỏi trên 6,121 trang
Đọc: NGƯỜI KÉP ĐÓNG HỔ Anh kép đóng hổ tự dưng bỏ đi. Tích Võ Tòng phải ngừng diễn. Vai hổ không phải vai chính, vậy mà khó, chẳng tìm ra người thay. Ông bầu cho vài người diễn thử nhưng không ra làm sao cả, hồ không ra hồ, chó không ra chó, cứ ục ịch, lóng ngóng, hoặc lại chồm chồm nhảy nhót, rõ ra hổ giả, mặc dù bộ da hồ là thật, ông bầu đã phải mua lại của một người Nùng ở Lạng Sơn. Tích Võ Tòng phải ngừng, thế mà hôm nào khán giả cũng hỏi: - Hôm nay có diễn Võ Tòng không? Nhưng nếu diễn với vai hổ mới thay thì cứ đến đoạn hổ ra, vừa múa được vài đường là họ lại la ó lên: - Hồ làm sao thế? Hồ cũ đâu rồi? Nhiều người bỏ về, có ông còn đòi lấy lại tiền! Bỗng một hôm có một người đàn ông đến gặp ông bầu. Người ấy gầy gò, xanh xao nhưng rắn rỏi, thái dương anh có một vết sẹo lớn: - Có phải rạp đang cần một người đóng hổ? - Đúng thế. - Tôi đóng được. - Anh là kép hát? - Không. Nhưng tôi đóng được vai hổ. Tôi đã từng bị hồ vố. Ông cứ nhìn những vết sẹo trên trán tôi đây. - Anh làm sao mà thoát được? - Tôi đánh nó bị thương rồi leo lên một cái cây. Con hổ ngồi dưới đợi suốt ba ngày đêm, gầm gừ gào thét. Sau cùng đói quá nó phải bỏ đi. - Nhưng anh có biết rằng đóng vai hồ trên sân khấu không phải là bắt chước y như con hổ thật. Phải múa theo nhạc, giống thật mà lại phải hay, phải đẹp. - Tôi hiểu. - Mai anh diễn thử. Nếu được, tôi sẽ nhận anh. Suốt ngày hôm sau, người khách lạ tập với anh kép đóng Võ Tòng. Ông bầu từ kinh ngạc chuyển sang mừng rỡ. Ông vội cho người dán quảng cáo diễn tích Võ Tòng đả hổ. (Theo Lưu Quang Vũ) Kép: nghệ sĩ nam đóng vai trong các vở kịch hát hoặc người đệm đàn cho ca nữ hát thời xưa. Bầu: người làm chủ hoặc người đỡ đầu một gánh hát, một đội thể thao, một ca sỹ. Tích: câu chuyện đời xưa mà vở diễn dựa vào, tên câu chuyện thường cũng là tên vở diễn. Tích Võ Tòng: nói tắt của tích Võ Tòng đả hổ, cũng là tên vở diễn.
Đọc: CHIỀN CHIỆN BAY LÊN Đã vào mùa thu... Đám cỏ may đã hết cái thời hoa giăng một dải tím ngắt mặt đê, cỏ đã vào quả để lại những chấm bạc có đuôi nhọn như kim, găm vào đấy hai ống quần, mỗi khi ai sơ ý đi qua lối cỏ. Chim chiến chiện vẫn lang thang kiếm ăn trong các bụi cỏ may già, trên đồng, trên bãi. Chiền chiện giống sẻ đồng nhưng áo không một màu nâu sồng như chim sẻ. Áo của chiền chiện màu đồng thau, đốm đậm, đốm nhạt rất hài hòa. Chiền chiện chân cao và mảnh, đầu rất đẹp. Trông dáng vẻ của chiến chiện như thể một kị sĩ đồng xưa bị tội ở trên trời, nên Thượng đế đã hóa phép ẩn mình trong kiếp chim bé nhỏ. Chiều thu buông xuống dần. Đó là lúc những con chim chiền chiện cũng kiếm ăn no nê, trên bãi trên đồng. Từ một bờ sông, bỗng một cánh chiền chiện bay lên. Thoạt đầu như một viên đá ném vút lên trời, nhưng viên đá ấy như có sức thần không rơi xuống, nó cứ lao vút, lao vút mãi lên chín tầng mây... Chiền chiện bay lên đấy! Theo với tiếng chim bay lên, từ không trung vọng xuống một tiếng hót trong sáng diệu kì, giọng ríu ran đồ hồi, âm điệu hài hòa đến tinh tế. Giọng hót vừa đượm vẻ hồn nhiên, vừa thơ thới, thanh thảnh... Chim gieo niềm yêu đời vô tư cho những người lam lũ trên mặt đất. Lúc ấy, trên cánh đồng, vẫn người nào việc ấy. Người làm cỏ vẫn làm cỏ, người xới xáo vẫn xới xáo, người cày cuốc vẫn cày cuốc... Nhưng tiếng chim hồn hậu đang nhập lặng lẽ vào tâm hồn họ. Đến như tôi, một cậu bé chăn trâu bảy, tám tuổi đầu cũng mê đi trong tiếng hót chiền chiện giữa chiều mà bầu trời, mặt đất, hồn người đều trong sáng... Tiếng chim là tiếng hót của thiên sứ gửi lời chào mặt đất. Chiền chiện đã bay lên và đang hót. (Ngô Văn Phú)
Đọc: CHIỀN CHIỆN BAY LÊN Đã vào mùa thu... Đám cỏ may đã hết cái thời hoa giăng một dải tím ngắt mặt đê, cỏ đã vào quả để lại những chấm bạc có đuôi nhọn như kim, găm vào đấy hai ống quần, mỗi khi ai sơ ý đi qua lối cỏ. Chim chiến chiện vẫn lang thang kiếm ăn trong các bụi cỏ may già, trên đồng, trên bãi. Chiền chiện giống sẻ đồng nhưng áo không một màu nâu sồng như chim sẻ. Áo của chiền chiện màu đồng thau, đốm đậm, đốm nhạt rất hài hòa. Chiền chiện chân cao và mảnh, đầu rất đẹp. Trông dáng vẻ của chiến chiện như thể một kị sĩ đồng xưa bị tội ở trên trời, nên Thượng đế đã hóa phép ẩn mình trong kiếp chim bé nhỏ. Chiều thu buông xuống dần. Đó là lúc những con chim chiền chiện cũng kiếm ăn no nê, trên bãi trên đồng. Từ một bờ sông, bỗng một cánh chiền chiện bay lên. Thoạt đầu như một viên đá ném vút lên trời, nhưng viên đá ấy như có sức thần không rơi xuống, nó cứ lao vút, lao vút mãi lên chín tầng mây... Chiền chiện bay lên đấy! Theo với tiếng chim bay lên, từ không trung vọng xuống một tiếng hót trong sáng diệu kì, giọng ríu ran đồ hồi, âm điệu hài hòa đến tinh tế. Giọng hót vừa đượm vẻ hồn nhiên, vừa thơ thới, thanh thảnh... Chim gieo niềm yêu đời vô tư cho những người lam lũ trên mặt đất. Lúc ấy, trên cánh đồng, vẫn người nào việc ấy. Người làm cỏ vẫn làm cỏ, người xới xáo vẫn xới xáo, người cày cuốc vẫn cày cuốc... Nhưng tiếng chim hồn hậu đang nhập lặng lẽ vào tâm hồn họ. Đến như tôi, một cậu bé chăn trâu bảy, tám tuổi đầu cũng mê đi trong tiếng hót chiền chiện giữa chiều mà bầu trời, mặt đất, hồn người đều trong sáng... Tiếng chim là tiếng hót của thiên sứ gửi lời chào mặt đất. Chiền chiện đã bay lên và đang hót. (Ngô Văn Phú)
Đọc đoạn văn dưới đây và trả lời câu hỏi. MỘT NHÀ THƠ CHÂN CHÍNH Ngày xưa, ở vương quốc Đa-ghét-xtan có một ông vua nổi tiếng bạo ngược. Dưới triều đại đó, nhân dân hết sức lầm than. Thế rồi khắp nơi nơi bỗng truyền đi một bài hát thống thiết, lên án thói hống hách, bạo tàn của nhà vua và phơi bày nỗi thống khổ của nhân dân. Mọi người dân, từ người lớn đến trẻ con, ai ai cũng say sưa ca bài hát ấy. Một ngày kia, bài hát lọt đến tai nhà vua. Ngài lập tức ra lệnh lùng bắt kì được kẻ sáng tác bài ca phản loạn ấy. Các quan đại thần và lính cận vệ ra sức sục sạo cũng không thể tìm được ai là tác giả của bài hát. Vì vậy, nhà vua hạ lệnh tống giam tất cả các nhà thơ và những nghệ nhân hát rong. Ba hôm sau, tất cả những người đó được giải vào cung, mỗi người phải hát cho nhà vua nghe một bài hát do chính mình sáng tác. Các nhà thơ, các nghệ nhân lần lượt tấu lên những bài ca tụng trí tuệ sáng suốt, trái tim nhân hậu, sức mạnh kì diệu của nhà vua, ánh hào quang chói lọi xung quanh sự nghiệp vĩ đại của nhà vua. Duy chỉ có ba nhà thơ im lặng không chịu hát. Nhà vua lệnh thả tất cả, còn ba người này thì đem tống giam vào ngục tối. Ba tháng sau, ngài cho giải họ từ trong ngục ra và phán: – Thế nào, giờ thì các ngươi sẽ hát cho trầm nghe chứ! Một trong ba người đó lập tức cất lời ca tụng quốc vương Đa-ghét-xtan. Ông ta được tha ngay. Nhà vua sai đem hai người còn lại đến giàn hỏa thiêu và phán: – Hãy hát lên cho trầm nghe. Đây là cơ hội cuối cùng cứu sống các người. Một trong hai người hát lên một bài ca ngợi nhà vua và cũng được tha ngay. Còn người cuối cùng vẫn im lặng. Nhà vua tức giận, hét lên: – Trói hắn lại! Nổi lửa lên. Bị trói chặt vào giàn hỏa thiêu, nhà thơ cuối cùng bỏng cất tiếng hát. Bài hát vạch trần tội ác của nhà vua. Đó chính là bài ca phản loạn đã lưu truyền khắp đất nước. Tiếng hát vang lên, cả hoàng cung rung động cùng với ngọn lửa bừng bừng bốc cháy như giận dữ. Nhà vua bất ngờ thét lên: - Dập mau lửa đi, dập mau! Cởi trói ngay cho ông ta. Trảm không thể để mất nhà thơ chân chính độc nhất của đất nước này! (Theo Truyện cổ dân gian Nga, Quý Thanh kê)
Đọc đoạn văn dưới đây và trả lời câu hỏi. Có lẽ, bạn nào cũng thích đọc bài Tuổi Ngựa của nhà thơ Xuân Quỳnh bởi bài thơ đã nói về cảm xúc, ước mơ của tuổi thơ chúng mình. Cả bài thơ như một cuộc trò chuyện của hai mẹ con về tuổi Ngựa. Mỗi khổ thơ như những thước phim tái hiện lại hành trình của chú ngựa con trong trí tưởng tượng của bạn nhỏ về những nơi được đặt chân đến. Mỗi dòng thơ đã kể, đã tả cảm xúc của bạn nhỏ về vẻ đẹp riêng của mỗi miền: gió xanh màu cây lá trung du; gió cuốn tung bụi hồng vùng đất đỏ cao nguyên; gió thắm đen âm u của đại ngàn, rừng già hun hút,... Đọc mỗi dòng thơ, chúng ta như được hoà chung niềm vui vô bờ của bạn nhỏ khi thấy hiện ra trước mắt một vùng trắng loá hoa mơ, thưởng thức mùi hoa huệ ngọt ngào, lắng nghe cánh đồng hoa cúc xôn xao trong nắng, gió... Nhưng, chú ngựa con ấy dù đi khắp đó đây, ngắm bao nhiêu cảnh đẹp, vui thích trước biết bao điều mới lạ trên bao nẻo đường xa xôi, vẫn yêu mẹ, luôn nhớ đến mẹ, luôn mong ước chia sẻ với mẹ những điều đẹp đẽ mình cảm nhận được. Và, không bao giờ quên đường về với mẹ. Yêu biết mấy chú ngựa con của chúng mình! (Sơn Tùng)
Đọc BỨC TRANH CỦA EM GÁI TÔI Em gái tôi tên là Kiều Phương, nhưng tôi quen gọi nó là Mèo bởi vì mặt nó luôn bị chính nó bôi bẩn. Nó vui vẻ chấp nhận cái tên tôi tặng cho và hơn thế, còn dùng để xưng hô với bạn bè. Mèo rất hay lục lọi các đồ vật với một sự thích thú đến khó chịu. - Này, em không để chúng nó yên được à? - Mèo mà lại! Em không phá là được... Một hôm, tôi bắt gặp nó nhào một thứ bột gì đó đen sì, trông rất sợ, thỉnh thoảng lại bôi ra cổ tay. Trời ạ, thì ra nó chế thuốc vẽ. Thảo nào các đít xoong chảo bị nó cạo trắng cả. Sau khi có vẻ đã hài lòng, nó lôi trong túi ra bốn lọ nhỏ, cái màu đỏ, cái màu vàng, cái màu xanh lục,... đều do nó tự chế. Nó đưa mắt canh chừng rồi lại nhét tất cả vào túi sau khi cho màu đen nhọ nói vào một cái lọ còn bỏ không. Xong, nó vui vẻ chạy đi làm những việc bố mẹ tôi phân công, vừa làm vừa hát, có vẻ vui lắm. Một hôm, chú Tiến Lê – hoạ sĩ, bạn thân của bố tôi – đưa theo bé Quỳnh đến chơi. Vớ được bạn gái, Mèo mừng quýnh lên. Mèo dẫn bạn ra vườn, cho xem toàn bộ những bức tranh nó vẽ giấu. Chỉ thấy bé Quỳnh thỉnh thoảng lại reo lên khe khẽ. Lát sau, bé Quỳnh chạy vào thì thầm gì đó với chú Tiến Lê khiến chú phải xin phép bố tôi theo bé Quỳnh ra vườn. Lúc trở vào, mặt chú Tiến Lê rạng rỡ lắm: - Anh có biết con gái anh là một thiên tài hội hoạ không? Chú trải sáu bức tranh do Mèo vẽ ra trước mặt bố tôi. Bố tôi ngây người ra như không tin vào mắt mình. - Con gái tôi vẽ đây ư? Chả lẽ lại đúng là nó, cái con Mèo hay lục lọi ấy! Và ông ôm thốc Mèo lên: - Ôi, con đã cho bố một bất ngờ quá lớn. Dường như mọi thứ có trong ngôi nhà của chúng tôi đều được nó đưa vào tranh. Mặc dù nó vẽ bằng những nét to tướng, nhưng ngay cả cái bát múc cám lợn, sứt một miếng cũng trở nên ngộ nghĩnh. Con mèo vằn vào tranh, to hơn cả con hổ nhưng nét mặt lại vô cùng dễ mến. (Theo Tạ Duy Anh)